Tuesday, March 31, 2009

Lời Kêu Gọi


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15,
Quận Phú Nhuận, TP Saigon

Phật lịch 2552
Số 03 /VHĐ/VT

LỜI KÊU GỌI
MỘT THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA
để chống việc lấy Vàng dân tộc đổi Nhôm nước ngoài

Bất chấp những lời báo động hiểm nguy của các chuyên gia, trí thức về việc khai thác quặng bô-xit ở Tây nguyên, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn một mực tiến hành việc lựa chọn nhà thầu Trung quốc vào Tây nguyên khi khẳng định : “Khai thác bô-xít Tây nguyên là chủ trương của Đảng nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X”, nghĩa là từ năm 2006.

Đảng quyết định. Nhưng toàn dân thì sao ?

Toàn dân thông qua ý kiến của các giới chuyên gia, trí thức, học giả… đưa lên báo chí, truyền thông, Internet đều báo động rằng khai thác bô-xít sẽ hủy diệt mầu xanh rừng Tây nguyên, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy cơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quét sẽ xẩy ra nhiều hơn, đồng thời ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu ở miền Nam Trung bộ, Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Saigon. Từ nghìn xưa, mầu xanh rừng Tây nguyên bảo vệ cho việc tích trữ nước trong lòng đất, lọc không khí và điều hòa nhiệt độ toàn vùng. Phá hủy mầu xanh còn là phá hủy nghiêm trọng không những cảnh quan mà sắc thái văn hóa và quyền sống của hàng chục dân tộc ít người trên vùng cao.

Theo các báo cáo khoa học thì quặng bô-xít để sản xuất nhôm không là kim loại chiến lược. Giá trị kinh tế của nhôm không cao hơn việc trồng cây công nghiệp ở Tây nguyên. Bô-xít là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh. Còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn và có tái sinh. Ấy là chưa nói đến công nghệ lạc hậu khai thác quặng bô-xít chỉ có ở Trung quốc là công nghệ “ướt”, trong khi các quốc gia tiên tiến đã chuyển công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô” trong việc thải bùn đỏ, là nguy cơ gây đại nạn sinh thái cho Tây nguyên, miền Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Bức thư ngỏ mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết từ năm 1980 Đảng và nhà nước đã đề nghị khối COMECON, tức khối kinh tế cộng sản Liên xô và Đông Âu, khai thác quặng bô-xít Tây nguyên. Nhưng theo thư ông Giáp thì “khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung bộ”.

Vì tính chất nguy hại sinh thái và cư dân quanh vùng khai thác bô-xít mà Cục bảo vệ môi trường quốc gia Trung quốc đã đóng cửa 100 mỏ bô-xít trên lãnh thổ Trung quốc từ năm 2004 đến 2008. Tại Ấn độ năm 2004 đã có một phong trào quần chúng lớn rộng nổi dậy biểu tình chống việc khai thác bô-xít tại bang Orissa trên diện tích 1000 hecta làm nguy hại 60.000 cư dân.

Tại Việt Nam hiện nay, chỉ nói đến một cứ điểm Đắk Nông ở phía cực nam Tây nguyên hiện đang có 7 mỏ khai thác bô-xít, tất thấy ngay nguy cơ sa mạc hóa - “bùn đỏ hóa mầu xanh” trên 6000 quả đồi với hàng trăm con suối trên một diện tích 600.000 hecta, nơi cư ngụ 29 dân tộc ít người, chủ yếu là cư dân bản địa người M’Nông. Để khai thác 5,4 tỉ tấn quặng thô bô-xít ở Đắk Nông thì chất thải bùn đỏ sẽ phủ lấp hàng nghìn buôn làng : khi ta biết rằng để có 1 tấn nhôm cần khai thác 4 tấn quặng bô-xít và thải ra môi trường 3 tấn bùn đỏ !

Vấn nạn nêu trên nằm trong lĩnh vực môi trường và sinh thái cho cư dân Tây nguyên. Một vấn đề trầm trọng khủng khiếp khác là nguy cơ an ninh quốc phòng. Tây nguyên là vùng chiến lược, yết hầu quân sự cho việc phòng ngự Việt Nam trên ngã ba biên giới Cam Bốt – Lào – Việt Nam. Việc nhà thầu Trung quốc khai thác quặng bô-xít đã bắt đầu, những làng người Hoa vừa dựng lên ở Tây nguyên, khoảng năm, mười nghìn người Trung quốc sẽ tới : Trọng Thủy đã cưỡng bức Mị Nương trên dãy Trường Sơn. Còn ngoài kia trên biển Đông, Trung quốc cũng đang lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa…
Nguy cơ mất nước bắt đầu.

Lần này không chỉ Bắc thuộc Một Nghìn Năm, mà là Ba Nghìn Năm hay lâu hơn nữa khi lãnh đạo Nước Nhà không là Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, mà là một chính quyền ly khai dân, lệ thuộc nước ngoài, từ ý thức hệ đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làm đảo lộn xã hội và nhân văn Việt Nam.

CHỈ CÒN LẠI TIẾNG NÓI CỦA TOÀN DÂN MỚI CÓ CƠ CỨU VÃN. Trước là chận đứng việc lấy Vàng, tức dân tộc, đổi lấy Nhôm ngoại quốc. Sau là bảo vệ sự Vẹn toàn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi kêu gọi người Việt trong ngoài nước hãy tỏ thái độ trước nguy cơ hủy hoại mầu xanh Tây nguyên và đời sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người trong việc khai thác quặng bô-xít không thông qua nghiên cứu khoa học và kinh tế, mà chỉ vụ vào sự lệ thuộc Bắc phương.

Kính xin người Việt nước ngoài khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây nguyên, và nguy cơ nối giáo Bắc Kinh trấn đóng yết hầu chiến lược vùng ba biên giới.

Kính xin người Việt trong nước hãy tỏ thái độ bằng cuộc biểu dương BẤT TUÂN DÂN SỰ trong suốt tháng 5 kể từ ngày Lễ Lao động 1.5 sắp tới.

Sống dưới chế độ độc tài, công an trị, người dân đã mất quyền biểu tình công cộng nói lên ngưỡng vọng thiết tha suốt 54 năm tại miền Bắc và 34 năm qua tại miền Nam, thì nay hãy BIỂU TÌNH TẠI GIA như một thái độ Bất tuân dân sự : Nông dân không ra đồng, Công nhân không đến xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến chợ, Sinh viên, học sinh không đến trường. Chúng ta có một tháng Tư để chuẩn bị lương thực cho gia đình nhằm thực hiện tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA để đòi hỏi ba yêu sách sau đây :

1. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nộp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày quy định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc.

Nếu Đảng và Nhà nước vẫn làm ngơ trước quyền lợi của tổ quốc, thì xin các Cộng đồng Người Việt hải ngoại cấp tốc thành lập Ủy ban Bảo vệ Lãnh hải Việt Nam, thu tập hồ sơ, vận động quốc tế và can thiệp trực tiếp đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) để bảo vệ quê hương.

2. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng.

3. Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một Đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác quặng bô-xít ở Tây nguyên.

Tháng Năm BẤT TUÂN DÂN SỰ - BIỂU TÌNH TẠI GIA sẽ là thái độ dũng cảm nói lên mối ưu tư Bảo vệ sinh thái và Vẹn toàn lãnh thổ của toàn dân trong giai đoạn cấp cứu của lịch sử. Dân chủ là Tiếng Nói, một tiếng nói đối thoại và tranh luận khi quê hương nguy biến để tiến tới giải pháp cứu nguy dân tộc. Nay là cơ hội và thời điểm sinh tử để Tiếng Nói cất lên thông qua một tháng BIỀU TÌNH TẠI GIA.

Kính xin đồng bào các giới trong nước hưởng ứng THÁNG BIỂU TÌNH TẠI GIA trong suốt tháng 5.2009, và đồng bào các giới ở hải ngoại hưởng ứng bằng việc không về du lịch và không gửi tiền về Việt Nam trong suốt tháng Năm 2009, ngoại trừ những trường hợp riêng tư khẩn cấp hay bất khả.

Kính xin các cơ quan truyền thông, báo chí giúp đỡ chuyển vận Lời kêu gọi này của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đến các giới đồng bào trong và ngoài nước.

Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 29.3.2009

Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
Kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)

Sa môn Thích Quảng Độ

Monday, March 30, 2009

Kẻ sĩ ngày xưa


PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ ĐÀO TẤN


Phan Đình Phùng (1847-1895) sinh năm 1847 tại làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, thi đỗ (đình nguyên) tiến sĩ năm 1877. Làm quan đến chức Ngự sử Đô sát viện, nhưng vì bất bình với Tôn Thất Thuyết trong việc phế vua Dục Đức, phụ hoàng vua Thành Thái, nên từ quan.

Năm 1885 hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng (hình phải) đã đứng ra chiêu tập lực lượng chống Pháp, từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,, Hà Tĩnh, Quảng Bình, và là một trong những cuộc khởi nghĩa lớn nhất của phong trào Cần vương chống Pháp lúc đó.

Trong khi cuộc chiến đấu chống Thực dân Pháp đã 10 năm, còn tiếp diễn, thì ngày 28 tháng 12 năm 1895, Phan Đình Phùng qua đời tại bản doanh trên vùng rừng núi Vụ Quang, vì bệnh kiết lỵ, thọ 49 tuổi. Không lâu sau cái chết của Phan Đình Phùng, cuộc khởi nghĩa hoàn toàn bị Pháp dập tắt.

Hoàng Cao Khải, kinh lược sứ Bắc Kỳ, đỗ Cử nhân cùng khoa (1868, trường thi Nghệ An) với Phan Đình Phùng viết thư dụ về hàng, nhưng bị thẳng thừng từ chối, nên sau khi mất, mộ táng của Phan Đình Phùng bị Hoàng Cao Khải quật lên, tán thi hài với thuốc súng và bắn xuống sông Lam.

Phan Đình Phùng không chỉ là người lãnh đạo chống Pháp, ông còn là một nhà thơ. Các sáng tác có một số câu đối (Điếu Lê Ninh, Khóc Cao Thắng), thơ (Đáp hữu nhận ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Kiến ngụy binh thi cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải).

Khi hay tin Phan Đình Phùng mất, Thượng thư kiêm nhà soạn tuồng Đào Tấn (1845-1907), khi đang quyền, có điếu khóc sau:

Anh hùng thành bại chớ bàn. Lòng trung ấy, nghĩa lớn này, thề chung thủy trọn tình cùng chiến hữu. Anh linh son mực, đạo sách đèn nên phải trọng cương thường. Khá hận bấy: Ngôi nhà nghiêng đổ, một cây chống chẳng được nào! Cung lạnh khói tan, tiếng oán dậy rừng ai chẳng xót!. Huống đang lúc rồng bay mây ám, lại thêm tráo chác việc người. Thương thay La Việt giang san, văn hiến trăm năm trơ chiến địa!

Trời đất cổ kim còn mãi. Núi ngất cao sông chảy xiết vũ trụ này là của đấng trượng phu. Gió tuyết Lam Hồng, ngạo giá rét cũng hao mòn tùng bách. Biết sao đây! Sóng cả dâng trào, cột đá giữa dòng khó vững. Sao dời vật đổi, chạnh tình vườn cũ nghĩ càng đau! Lại gặp cơn giứ thốc nhạn lìa, trách bấy lòng trời chẳng giúp! Rõ thật Tùng Mai khí tiết, tinh thần một thác sáng trăng sao!

Kẻ sĩ ngày xưa, các bậc tiền bối của chúng ta, một lòng trung hiếu với nước, với dân, là tấm gương soi sáng cho hậu thế biết bao.

HOÀNG HỒNG DIỄU

Hình phải trên Phan Đình Phùng

Sunday, March 29, 2009

Anti-Communism


50.000 CZECHS CALL FOR A BAN OF COMMUNISM PARTY

PRAGUE, Czech Republic—A massive petition calling for the ban of the Communist Party has sprung up after the country’s recent elections.

Regional elections across the 14 autonomous regions of the Czech Republic became a fiasco for the right-wing Civic Democratic Party this autumn, as regional governments are now to be ruled by The Czech Social Democratic Party and the Communist Party of Bohemia and Moravia. The later is a continuation of the original Communist Party of Czechoslovakia, a Marxist-Leninist regime that existed between 1921 and 1992.

Since October, concerns about the Communist Party’s partial return to power have grown among the Czech public. On Nov. 17, web pages dedicated to the victims of the former communist regime of Czechoslovakia (www.viteznyunor.cz) published a petition calling for the ban of The Communist Party of Bohemia and Moravia, and restrictions on communist parties entering into higher politics.

Within one month 50,000 Czechs joined the petition. The petition’s popularity has also revived a former proposal from the Czech Senate to ban communist ideology in general. Reasons for this include the claim that it promotes violent revolution and other allegedly immoral ways of seizing power.

This is the first time a communist party has participated in ruling the country since the fall of the notorious Communist Party of Czechoslovakia in 1989. Despite the Senate, the Parliament, and the central government remaining in the hands of right-wing parties, regional councils are now to be controlled by the social democrats and communists.

While the Communist Party of Bohemia and Moravia claims to have no relation to the previous totalitarian regime, it is often criticized for holding onto the same rigid communist ideology.

“The regional councils are now controlled by the same communist cadres who were ruling our country before 1989,” claim petition organizers.

By Milan Kajinek

Epoch Times Staff Dec 25, 2008
Source
theepochtimes

Saturday, March 28, 2009

Thơ Nguyễn Ngọc Mai


TIẾNG GÕ


Tiếng lốc cốc xoáy ngoằn ngoèo ngõ hẹp
Đêm trở mình theo từng bước chân quen ...
Hồn nhiên lắm cánh chim non không tổ
Lạc loài bay giữa hẻm phố vắng đèn

Đêm rét lạnh chiếc áo em mỏng quá
Tôi mong thầm trời ấm lại đừng mưa
Bàn tay non chai sần theo tiếng gõ
Bút xanh em chưa chấm mực bao giờ

Dẫu nhọc nhằn từng bước chân mưa nắng
Mắt reo vui khi khách gọi mua mì
Ôi, đôi mắt nhói lòng tôi đêm ấy
Em đi rồi, tiếng gõ dắt thơ đi…


NGUYỄN NGỌC MAI

Friday, March 27, 2009

Chick Harrity


MỘT BẤT NGỜ ĐẾN TỪ XA XƯA

Mặc dù Chick Harrity được mọi người biết đến như là một phóng viên ảnh với 33 năm kinh nghiệm đặc trách Toà Bạch Ốc cho hãng thông tấn AP và U.S. News, nhưng bức ảnh được yêu thích nhất của ông lại là một bức ảnh ông chụp vào năm 1973 ở Việt Nam. Trong bức ảnh đó, một cô bé gái đang nằm ngủ say trong một cái thùng giấy trên một đường phố Saigòn bên cạnh người anh trai của mình.(Hình 1 trái,nhiếp ảnh gia Chick Harrity)

Bức ảnh này, khi xuất hiện trên báo chí khắp thế giới, đã làm dấy lên một làn sóng ủng hộ trẻ em mồ côi ở Việt Nam. Các gia đình người Mỹ đã nhận nuôi hàng ngàn trẻ em Việt Nam. Gia đình Evelyn Heil ở Springfield, Ohio đã dầy công tìm kiếm cô bé ở trong hình và nhận đem cô về Mỹ nuôi. Họ đặt tên cho cô là Nhanny. 32 năm sau (ngày 21 tháng 5 năm 2005),người phóng viên nhiếp ảnh Chick Harrity được trao tặng giải "Lifetime Achievement Award" (Giải Thưởng Thành Tựu Một Đời, được xem là vinh dự cao qúy nhất). Khi ông bước lên sân khấu để nhận giải, ánh đèn bỗng chiếu đến một cô gái đang từ từ bước đến bục trao giải, một phần hoàn toàn không có trong phần tập dợt cho buổi lễ.(Hình 2 phải: "Baby in the box" của Chick Harrity)

Cô gái ấy là...Nhanny. Ban tổ chức đã dành cho Chick Harrity một ngỡ ngàng xúc động khi để chính nhân vật trong tác phẩm đặc biệt này của ông lên trao cho ông giải thưởng "Thành Tựu Một Đời".Tất cả mọi người dự lễ trao giải hôm ấy đã khóc khi nhìn thấy Chick Harrity ôm chầm lấy Nhanny.Chick Harrity nói trong nước mắt, "Một bức ảnh có thể lam thay đổi cuộc sống của nhiều người. Bức ảnh đó chắc chắn đã làm thay đổi cuộc sống của cô ta. Chúng ta, những phóng viên nhiếp ảnh có thể ảnh hưởng thế giới." (Hình 3 phải,Tổng thống George W.Bush tại buổi lễ.)

Phan Bích Vân
(theo Digital Journalists , "A Surprise from Long Ago and Far Away")
Categories
http://dirckhalstead.org/issue0506/longago.html
Read more :

Thursday, March 26, 2009

The American Flag


TO THOSE WHO WANT TO BURN THE FLAG

To Those Who Want To Burn the Flag
Just ask permission.

Does the first Amendment gives us the right to desecrate the American flag?
Or is the flag a sacred symbol of our nation, deserving protection by law?

Tough call?

"The Solution"

For those who want to light Old Glory on fire, stomp all over it, or spit on it to make some sort of "statement,"

I say let them do it.

But under one condition: they MUST get permission from three sponsors.

First, you need permission of a war veteran.

Perhaps a Marine who fought at Iwo Jima? The American flag was raised over Mount Surabachi upon the bodies of thousands of dead buddies. Each night spent on Iwo meant half of everyone you knew would be dead tomorrow, a coin flip away from a bloody end upon a patch of sand your mother couldn't find on a map.

Or maybe ask a Vietnam vet who spent years tortured in a small, filthy cell unfit for a dog. Or a Korean War soldier who helped rescue half a nation from Communism, or a Desert Storm warrior who repulsed a bloody dictator from raping and pillaging an innocent country. That flag represented your mother and father, your sister and brother, your friends, neighbors, and everyone at home. I wonder what they would say if someone asked them permission to burn the American flag?

Next, you need a signature from an immigrant.

Their brothers and sisters may still languish in their native land, often under tyranny, poverty and misery. Or maybe they died on the way here, never to touch our shores.
Some have seen friends and family get tortured and murdered by their own government for daring to do things we take for granted every day. For those who risked everything simply for the chance to become an American ... what kind of feelings do they have for the flag when they Pledge Allegiance the first time? Go to a naturalization ceremony and see for yourself, the tears of pride, the thanks, the love and respect of this nation, as they finally embrace the American flag as their own. Ask one of them if it would be OK to tear up the flag.

Last, you should get the signature of a mother.

Not just any mother. You need a mother of someone who gave their life for America. It doesn't even have to be from a war. It could be a cop. Or a fireman. Maybe a Secret Service or NSA agent. Then again, it could be a common foot soldier as well. When that son or daughter is laid to rest, their family is given one gift by the American people; an American flag. Go on. I dare you. Ask that mother to spit on her flag.

I wonder what the founding fathers thought of the American flag as they drafted the Declaration of Independence? They knew this act would drag young America into war with England, the greatest power on earth. They also knew failure meant more than just a disappointment. It meant a noose snugly stretched around their necks. But they needed a symbol, something to inspire the new nation. Something to represent the seriousness, the purpose and conviction that we held our new idea of individual freedom. Something worth living for. Something worth dying for. I wonder how they'd feel if someone asked them permission to toss their flag in a mud puddle?

Away from family, away from the precious shores of home, in the face of overwhelming odds and often in the face of death, the American flag inspires those who believe in the American dream, the American promise, the American vision...

Americans who don't appreciate the flag don't appreciate this nation. And those who appreciate this nation appreciate the American flag. Those who fought, fought for that flag. Those who died, died for that flag. And those who love America love that flag. And defend it.

So if you want to desecrate the American flag, before you spit on it or before you burn it ...

I have a simple request. Just ask permission.

Not from the Constitution. Not from some obscure law. Not from the politicians or the pundits.

Instead, ask those who defended our nation so that we may be free today.

Ask those who struggled to reach our shores so that they may join us in the American dream. And ask those who clutch a flag in place of their sacrificed sons and daughters, given to this nation so that others may be free.

For we cannot ask permission from those who died wishing they could, just once ... or once again ... see, touch or kiss the flag that stands for our nation, the United States of America
...

...Author Unknown

Source amandashome

Wednesday, March 25, 2009

Thơ Dương Quân


THƯ CUỐI CÙNG
(Viết cho Chị H.)

Video Chị tôi

Hôm nay,
Mây xám sao nhiều quá
Giăng phủ không gian, cả đất trời
Người đến, báo TIN BUỒN vội vã
"Quê nhà - Chị đã trút tàn hơi

Chị vào bệnh viện hôm tuần trước
Tiều tụy thân gầy, khóe mắt sâu
Khi rước Chị về...
Khăn trắng phủ...
Thôi rồi! dáng liễu Chị còn đâu?

Chị ơi!
Thôi thế! là thôi! Hết!
Ngày ấy em đi hứa trở về
Chị bảo: "Một mình nơi đất khách
Em buồn. Chị đợi mãi người đi"

Chị thương em Chị, trai thời loạn
Nợ nước chưa đền - gãy súng gươm
Đành phải xa nhà, lìa xứ sở
Quê người khắc khoải kiếp cô đơn

Quê người em vẫn thương về Chị
Dành dụm gởi tiền cho Chị tiêu
Chị lại góa chồng - buồn héo hắt
Bàn thờ, bóng Chị đổ xiêu xiêu

Nhớ xưa
Từ thuở còn thơ ấu
Em vẫn giành ăn, Chị vẫn nhường
Em mãi rong chơi, làm Chị giận
Chị hiền, đâu nỡ trách em luôn

Nhớ xưa
Chị lớn thành cô gái
Mắt phượng, môi son... Chị lấy chồng
Em khóc - đi tìm theo xác pháo
Dấu hài, chân Chị dẫm rêu phong

Nhớ xưa
Cứ mỗi lần em bệnh
Chị vội về thăm với gói quà
Sờ trán, xem chừng em sốt lắm
Em vờ bệnh mãi, Chị đừng xa

Nhưng rồi lại phải xa ngàn dặm
Nửa vòng trái đất nhớ quê hương
Chị ơi! Em hứa về thăm Chị
Sao chẳng chờ em lỡ bước đường?

Hôm nay
Mây xám giăng nhiều quá
Xám cả không gian, cả đất trời
Em chép bài thơ này khóc Chị
Vô cùng thương tiếc Chị! Buồn ơi!

Thế nào em cũng về quê cũ
Thăm xứ Đồng Nai, nhớ quặn lòng
Thăm Chợ Long Thành, cây trái ngọt
Chỗ Chị ngồi bán bưởi - còn không?

Thế nào em cũng về thăm Chị
Nấm mộ vườn sau - chỗ Chị nằm
Thắp nén trầm hương - em khấn nguyện
Ngậm ngùi: VĨNH BIỆT CHỊ ! ngàn năm!

DƯƠNG QUÂN
2006

Tuesday, March 24, 2009

Cờ Tiểu Bang


CỜ 50 TIỂU BANG HOA KỲ & DISTRICT OF COLUMBIA




Xem thêm:

Cờ tiểu bang vần A đến N
Từ O đến W -
US state flags - Flags of 50 states

Nhạc



QUYẾT KHÔNG HỀ PHẢN BỘI QUÊ HƯƠNG
Click để nghe

1
Một cánh tay đưa lên
Hàng ngàn cánh tay đưa lên
Hàng vạn cánh tay đưa lên
Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính
Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng
Hoà bình phải trong vinh quang
Đền công lao bao máu xương hùng anh

Nào đứng lên bên nhau
Nào cùng sát vai bên nhau
Thề nguyền với vung tay cao
Quyết đấu tranh đến khi nào đạt thành mong ước
Vận nước trong tay ta
Là quyền của quân dân ta
Tình đoàn kết quê hương ta
Chận âm mưu chia cắt thêm sơn hà

ĐK:

Quyết chiến Thề quyết chiến ! Quyết chiến!
Quyết không cần hoà bình đen tối
Chẳng liên hiệp ngồi chung quân bán nước vong nô

Quyết chiến Thề quyết chiến ! Quyết chiến!
Đánh cho cùng dù mình phải chết
Để mai này về sau con cháu ta sống còn

2
Vận nước đang vươn lên
Hàng ngàn chiến công chưa quên
Hàng vạn xác quân vong nô
đã chứng minh cho sức mạnh hào hùng quân dân

Thề chớ bao lui chân.
Ngồi cùng với quân xâm lăng
Ta thà chết chớ không hề lui

Quyết không hề phản bội quê hương (2)

Melinda Gates


MELINDA GATES - QUYỀN LỰC MÀ THẦM LẶNG

Có một người phụ nữ giản dị, nhân hậu đã chinh phục được biết bao chính khách, doanh nghiệp. Xuất thân trong một gia đình bình dân Mỹ nhưng nhờ nỗ lực cá nhân và cả nét duyên thầm, người phụ nữ này đã trở thành biểu tượng của quyền lực mềm thế giới. Năm nay 44 tuổi, Melinda Gates luôn sát cánh cùng người chồng đại tỷ phú, nhà sáng lập và điều hành Microsoft trong nhiều năm qua, và bản thân bà cũng là chủ tịch quỹ tài trợ lớn nhất hành tinh. Bà là người có vai trò không thể thay thế trong cuộc đời Bill Gates, là một trong những động lực to lớn để Bill Gates lập ra quỹ Bill & Melinda Gates.

Chung sống với Bill Gates đã 14 năm nhưng Melinda luôn có một cuộc sống trầm lặng, ít khi lộ diện trước báo giới. Những cuộc phỏng vấn luôn bị từ chối, thay vào đó là những cuộc trò chuyện mỗi tuần với những người cộng sự. Người ta biết đến Melinda qua những người bạn của bà nhiều hơn.

Mối thâm tình với chiếc máy tính

Trước khi quen biết Bill Gates, nàng thiếu nữ Melinda đã mê tít máy tính. Chính tình yêu này đã thay đổi cuộc đời cô. Khi Melinda 14 tuổi, cha cô tặng cho con gái yêu chiếc máy tính Apple II. “Tôi đã nịnh cha mẹ đặt vào phòng riêng của mình để tiện học tập nhưng thời gian đầu tôi khoái chơi game hơn”, Melinda nhớ lại. Không lâu sau, Melinda đã nắm được ngôn ngữ lập trình cơ bản và thường xuyên trao đổi kiến thức với các cậu con trai quanh xóm. Chính việc ham thích trao đổi về máy tính đã khiến cô bé bớt đi những rụt rè tuổi dậy thì, tự tin và hòa đồng hơn hẳn.

Chiếc máy tính Apple II năm sau đã được nâng cấp lên thành Apple III. Melinda thường dùng máy tính giúp cha quản lý sổ sách, kế toán. Gia đình Melinda không giàu có. Bố cô là kỹ sư và mẹ cô là một người nội trợ điển hình. Mặc dù cha mẹ cô có cho thuê một vài gian phòng để phụ thêm nhưng việc lo cho cả 4 chị em Melinda học lên đại học quả thật không hề dễ dàng. Melinda cùng các anh chị em từ nhỏ đã phụ giúp mẹ lau bàn, dọn bếp và cắt cỏ.

Khi Melinda còn đi học, tuy không có quy định thành văn nhưng thành tích học tập luôn được cả gia đình coi trọng. Melinda luôn đặt cho mình những mục tiêu để chinh phục một cách bền bỉ và quyết tâm. Cô giáo dạy môn đại số đã nhận xét “Melinda luôn tìm ra cách học tập hiệu quả nhất!”.

Khi đó, Melinda theo học tại một trường nữ sinh thiên chúa giáo, cô ao ước được vào trường Notre Dame. Trong suốt quá trình học, Melinda luôn cố gắng và đã trở thành đại diện phát biểu trong lễ bế giảng. Nhưng cũng chính Melinda là người đưa ra quyết định từ bỏ trường đại học đặc biệt này vì nơi đây coi “máy tính là sở thích nhất thời, phụ nữ không phù hợp với nghiên cứu công nghệ”.
Sau đó Melinda được nhận vào trường đại học Bắc California . Trong 5 năm học tại đây, Melinda đã được nhận bằng cử nhân khoa học máy tính và cao học quản trị kinh doanh.

Ngay trước hôm tiến hành lễ tốt nghiệp, Melinda đã tham gia phỏng vấn vào công ty IBM. Cô nhớ lại “Tôi đã nói với người phỏng vấn là mình sẽ tham gia thi tuyển vào một công ty phần mềm nữa. Bà ấy đã mỉm cười và nói nếu tôi được công ty phần mềm đó chọn, tôi càng có nhiều cơ hội hơn”. Và Melinda đã đến nơi có nhiều cơ hội hơn - Microsoft.

Tình yêu với sếp và khát vọng chung thay đổi thế giới

Năm 1987, Melinda bắt đầu làm việc chính thức tại Microsoft. Cô phụ trách quảng bá phần mềm văn bản. Ngay từ những ngày đầu tiên, Melinda đã thích không khí làm việc cởi mở, năng động nơi đây. Cô chúi mũi vào công việc mà không thể ngờ rằng chỗ làm việc lý tưởng này lại đem đến cơ hội tình yêu cho mình.

Melinda là người trẻ nhất trong những người được nhận vào Microsoft làm việc đợt đó. Trong 10 người có bằng MBA, cô cũng là người nữ duy nhất. “Những người được tuyển đợt đó rất tài năng. Tôi đã choáng ngợp khi tiếp xúc với họ và nghĩ họ có thể thay đổi thế giới. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì sao công ty phần mềm nho nhỏ hồi đó lại hấp dẫn họ đến thế!”

Khi đó hai sếp lớn Bill Gates và Steve Ballmer đang bất đồng trong khá nhiều vấn đề, họ thường căng thẳng và quát cả cấp dưới. Nếu như không có cảm tình đặc biệt khi nhìn thấy dáng vẻ thư sinh của Bill, Melinda đã bỏ việc từ lâu.

Sau khi vào công ty được 4 tháng, Melinda đến New York tham dự một triển lãm công nghệ và ngồi cạnh Bill Gates trong một buổi tiệc. Melinda nhớ lại: “Anh ấy quả thật rất có phong cách, còn hơn trong tưởng tượng của tôi”. Khi Bill được hỏi tại sao để ý Melinda, ông trả lời: “Tôi nghĩ chắc là do vẻ đẹp của cô ấy”.

Mùa thu năm đó, Bill và Melinda gặp lại nhau tại nhà để xe của công ty. Melinda nhớ hôm đó là thứ 7 và mọi người trong công ty vẫn phải đi làm. Họ nói chuyện một lúc, Bill nhìn đồng hồ và hỏi: “Em có đồng ý hẹn hò với tôi trong vòng hai tuần bắt đầu từ thứ 6 tuần sau không?” Melinda trả lời: “Từ thứ 6 tuần sau bắt đầu hai tuần hẹn hò? Em thấy không được tự nhiên lắm! Không biết được, đến lúc đó hãy gọi cho em”. Sau đó, Bill gọi lại báo cho Melinda lịch hoạt động ngày hôm đó, Melinda nhận lời hẹn gặp ông vào buổi tối thứ 6 định mệnh.

Trước khi hai người gặp nhau, Bill đã là một tỉ phú nhưng điều đó không có nghĩa là ông có thể “mua” được tình yêu. “Theo đuổi cô ấy thật vất vả”, Bill than thở. Số là mẹ của Melinda vốn cho rằng chuyện tình cảm của con gái mình với sếp không có gì hay ho cả. Nhưng Melinda đã đặt ra những giới hạn cho mối quan hệ này, quyết không để ảnh hưởng đến công việc. “Tôi không muốn công khai tình cảm, không bao giờ nói chuyện công việc trong thời gian hẹn hò...”

Dù có công khai chuyện tình cảm với sếp lớn hay không thì bạn bè đồng nghiệp vẫn phải nể Melinda về năng lực làm việc. Sau 9 năm làm việc bà đã lên chức giám đốc phụ trách các sản phẩm thông tin. Cấp trên trực tiếp của Melinda lúc đó, bà Patty Stonesifer đã nhận xét: “Nếu tiếp tục ở lại làm việc, Melinda chắc chắn sẽ đứng trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất của Microsoft”.

Tháng 1/1994, Melinda rời khỏi Microsoft, dành toàn bộ tâm huyết cho quỹ từ thiện. Tình cảm hai người dành cho nhau càng trở nên sâu sắc. Trước đây Bill Gates chưa bao giờ nghĩ đến việc thành lập quỹ tài trợ, dù luật sư và kế toán của ông thường xuyên khuyên ông nên dành thời gian và tiền bạc để chính thức tham gia các hoạt động từ thiện. Đó cũng là lý do mà báo chí những năm 1990 gọi Bill là “kẻ hà tiện”. Cha của Bill giải thích “Con tôi không muốn đứng ra thành lập quỹ từ thiện vì không muốn sở hữu thêm một công ty nữa”.

Ngay từ ngày đầu lập quỹ, Melinda đã quán xuyến công việc quản lý. Những ngày đầu, Melinda và Bill lập ra dự án tặng cho mỗi phòng học một laptop phục vụ việc giảng dạy nhưng công tác quảng bá đã bị giới truyền thông phê bình gay gắt vì... phô trương và thiếu thực tế. Khi đi khảo sát các trường học, Melinda nhận ra rằng, chỉ trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giải quyết được những vấn đề giảng dạy, vì thế sau này thúc đẩy phổ cập giáo dục mới là mục tiêu chính của quỹ.

Dưới ảnh hưởng của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong lĩnh vực chòng chống AIDS, bệnh sốt rét... Melinda chia sẻ: “Chúng tôi muốn dần dần thiết lập một danh sách cần cứu trợ hợp lý. Tiền chỉ có ích khi mang lại những lợi ích thực sự cho những người cần cứu trợ nhất”. Bà cũng cho biết, quỹ Bill & Melinda Gates không quyên gửi thẳng tiền cho viện nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ mà tập trung cho những dự án và khu vực khẩn thiết hơn.

Bà Gates dùng phương pháp liên kết những nhà bán thuốc và bảo đảm trợ cấp tài chính cho việc nghiên cứu để đổi lấy sự hạ giá thuốc cho những nước nghèo, qua đó tạo đà mới cho ngành y học ngừa bệnh của các nước kém phát triển vốn đã bị chững lại từ những năm 1990. Và rõ nét nhất là việc sáng lập Công ty Vaccine HIV - là công ty liên kết các nhà nghiên cứu với ngân sách 400 triệu USD. Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trình vaccine.

Quỹ Bill & Melinda Gates hiện là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế. Melinda, Bill Gates và cha của Bill là 3 thành viên điều hành quỹ. Gần đây, Bill Gates đã chính thức rời khỏi Microsoft để hoàn toàn tập trung cho công việc từ thiện.

Mỗi năm quỹ này nhận được khoảng 6000 thư xin được trợ giúp ở khắp nơi trên thế giới. Bill và Melinda sẽ tự mình phê duyệt với tổng số tiền trên 40 triệu USD. Cách làm những công việc ở quỹ của đôi vợ chồng này uyển chuyển và có phần thử thách hơn cả khi điều hành Microsoft.

“Chúng tôi trò chuyện ngay cả lúc cùng chạy bộ với nhau”, Bill cười nói. Trong vòng hai năm trở lại đây Bill Gates đã chạy bộ khá đều đặn và cùng luyện tập trí nhớ một cách thú vị và ý nghĩa. Hai người cùng thảo luận và nêu ra các phương án hành động cho các dự án tài trợ. Các thông tin này sẽ được cả hai nhẩm nhớ, không ghi lại bằng giấy gì cả và ghi nhớ cho đến khi thông báo lại cho các thành viên quản lý quỹ để thông qua chính thức.

Món quà đặc biệt của tỉ phú Warren Buffett

Tháng 6/2006, Warren Buffet đã chuyển giao một phần tài sản trị giá khoảng trên 30 tỉ USD của mình vào việc làm từ thiện, trong đó 83% số tiền được đưa vào Quỹ Bill & Melinda Gates. Khoản hiến tặng này được xem là lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, số tiền được quyên này còn lớn hơn gấp đôi số tiền hiện có của quỹ. Đây là lời công nhận đầy thuyết phục đối với khả năng quản lý từ thiện, một lĩnh vực mới mẻ và nhiều thách thức của nhà đầu tư tài chính hàng đầu với hai vợ chồng Bill Gates.

Tin vui này cũng đến khi cả hai người đang chạy bộ. Melinda nhớ lại với một vẻ bồi hồi: “Tôi nhận được điện báo và không tin vào tai mình nữa. Tôi nói với Bill, và thực sự muốn khóc. Chúng tôi đã làm được, chúng tôi đã có niềm tin của mọi người, và chúng tôi có nhiều trách nhiệm hơn nữa”.

Hiện nay, Quỹ từ thiện của hai vợ chồng bà đã thu thập được 37,6 tỉ USD, trong đó, 3,5 tỉ USD là phần góp của nhà tỉ phú Warran Buffet, người đứng đầu công ty Berkshire Hathaway. Sắp tới đây, Warren Buffet dự định chuyển cho quỹ Bill & Melinda Gates thêm 9.000 cổ phiếu nữa với trị giá 41 tỉ USD. Như vậy, cùng với các khoản lạc quyên và hàng tỉ USD của chính hai vợ chồng Bill Gates, tổng số vốn của quỹ trong vài năm tới sẽ đạt đến con số khổng lồ là 100 tỉ USD. Cả hai vợ chồng đều sẵn sàng chi tiêu toàn bộ số tiền này vào việc giúp đỡ những người nghèo khổ không chỉ ở nước Mỹ. Đến nay, quỹ đã chi gần 20 tỉ USD cho nhiều hoạt động từ thiện.

Bill Gates thừa nhận rằng vợ ông hiểu biết về con người hơn ông. Khi động chạm đến việc nên chi tiền trong quỹ vào những lĩnh vực gì, bà Melinda bao giờ cũng có những ý tưởng thông minh hơn chồng. Melinda nói: “Hai vợ chồng chúng tôi đã cùng soạn lập danh mục những hiện tượng bất công nhất trên thế giới. Và chúng tôi lựa ra những hiện tượng mà chúng tôi có thể đấu tranh”.

Trong hoạt động nhân đạo chung của cả hai vợ chồng, vai trò của bà Melinda dường như nổi bật hơn. Không phải vô cớ mà người bạn thân của họ - nhà tỉ phú Warren Buffet - đã có nhận xét rất đáng chú ý: “Bill Gates cực kỳ thông minh. Nhưng khi ta nhìn toàn bộ bức tranh chứ không phải một phần riêng biệt nào đó thì Melinda hiển nhiên là vượt xa chồng. Nếu như Melinda không làm việc trong quỹ từ thiện của hai vợ chồng họ thì liệu tôi có trao tiền cho Bill không? Có lẽ không”.

Như vậy, điều kiện chủ yếu thúc đẩy Buffet chuyển giao tài sản chính là người vợ nhanh nhẹn, hiểu biết, thấu tình đạt lý của Bill Gates. Buffet đã khiến Bill phải thốt lên: “Melinda đúng là vận may lớn nhất cuộc đời tôi”.

Yêu thích cuộc sống bình lặng

Là vợ người thường xuyên giữ vị trí giàu nhất thế giới, Melinda không tránh khỏi những phiền toái của cuộc sống. Dù cố gắng thế nào đi nữa, Melinda cũng rất khó khăn để có được cuộc sống bình thường. Nhưng đến nay, sau nhiều nỗ lực, người phụ nữ dịu dàng này vẫn có cách để cuộc sống của mình đi theo những quỹ đạo mong muốn.

Trước khi kết hôn với Bill Gates, Melinda cũng chịu nhiều áp lực từ khối tài sản đồ sộ này. Melinda luôn băn khoăn con người mải mê công việc và cạnh tranh thương trường của Bill Gates có thích hợp với cuộc sống gia đình hay không. Câu hỏi: “Cái người có thể phát điên lên vì công việc này nếu làm chồng mình sẽ ra sao?” luôn quẩn quanh trong đầu Melinda.

Cuối cùng bà cũng nói thẳng điều này ra với Bill, rằng: “Nếu muốn em dọn đến ở cùng anh, anh cần phải tạo nên một ngôi nhà thực sự ấm cúng của gia đình giống như em tưởng tượng”. Sau 6 tháng thảo luận, bàn bạc với vị hôn phu, Melinda đã đã đích thân thuê kiến trúc sư cải tạo khu nhà ở 3700m2. Đến nay, cứ cuối tuần Melinda đều cho đội ngũ làm thuê trong tư gia nghỉ, để gia đình có thể trải qua những giây phút quây quần bên nhau như những gia đình bình thường khác.

Có 3 con, điều đáng ngạc nhiên là chính Melinda đã tuân thủ các quy định nuôi con bằng sữa mẹ như các bác sĩ khuyến cáo. Trong việc nuôi dạy bọn trẻ, Melinda cũng khuyến khích các con tự lập và làm việc chăm chỉ. Bà cũng tranh thủ đưa các con đi cùng trong các chuyến đi từ thiện để vừa rèn luyện sức khỏe, vừa mở rộng tầm nhìn về thế giới cho chúng.

Melinda và Bill cũng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con. Sẽ không quá 5% tài sản của họ sẽ trở thành tiền thừa kế của 3 con, còn khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa. Thực ra, ban đầu Bill và Melinda thậm chí không muốn để lại tài sản gì cả nhưng người bạn thân Buffet đã khuyên: “Một người có rất nhiều tiền nên để lại cho con cái họ đủ số tiền để chúng thực hiện ước mơ của mình nhưng cũng không được nhiều đến mức chúng không muốn làm gì nữa".

Không thích mua sắm, ghét những nhãn hàng xa xỉ và chỉ trang điểm nhẹ nhàng, Melinda vẫn giữ được vẻ đẹp trẻ trung suốt những năm qua. Một trong những bí quyết của bà là luyện tập thể thao đều đặn. Melinda đã tập chạy marathon từ gần 15 năm qua, thậm chí còn tham dự cả giải Seattle Marathon. Dù bận rộn đến mấy, mỗi tuần bà cũng có một cuộc chạy việt dã, trong 1 giờ vượt qua 11km. Việc Bill tham gia chạy trong 2 năm trở lại đây cũng là do Melinda động viên và thôi thúc.

Hình trái từ trên xuống

Melinda Gates
Vợ chồng Bill & Melinda Gates và tỉ phú Warren Buffett.
Vợ chồng Bill & Melinda Gates.


MỸ TRANG

Monday, March 23, 2009

What a traitor !


MONTANA RESTAURANT


This is a great story! The radio station America FM was doing one of its "Is Anyone Listening?" bits this morning. The first question was, "Ever have a celebrity come up with the 'Do you know who I am?' routine?"

A woman called in and said that a few years ago, while visiting her cattle rancher uncle in Billings , MT , she had occasion to go to dinner at a restaurant that does not take reservations. The wait was about 45 minutes; many ranchers and their wives were waiting.

Ted Turner and his ex-wife Jane Fonda came in the restaurant and wanted a table. The hostess informed them that they'd have to wait 45 minutes. Jane Fonda asked the hostess, "Do you know who I am?" The hostess answered, "Yes, but you'll have to wait 45 minutes." Then Jane asked if the manager was in. When the manager came out, he asked, "May I help you?" "Do you know who we are?" both Ted and Jane asked. "Yes, but these folks have been waiting, and I can't put you ahead of them".

Then Ted asked to speak to the owner. The owner came out, and Jane again asked, "Do you know who I am?" The owner answered, "Yes, I do. Do you know who I am? I am the owner of this restaurant and I am a Vietnam veteran. Not only will you not
get a table ahead of my friends and neighbors who have been waiting here, but you also will not be eating in my restaurant tonight or any other night. Good bye."

Only in America , is this a great country, or what?

To all who received this, it is a true story and the name of the steak house is:

Sir Scott's Oasis Steakhouse, 204 W. Main, Manhattan , MT 59741,

If you ever get there, give this fellow a sharp salute, buy a steak, and tip the waitress. Keep passing this on. We should never forget our national traitor!

Hình trái :
-Sir Scott's Oasis Steakhouse restaurant
-Jane Fonda

Read more vietvet

Sunday, March 22, 2009

Thơ Đặng Dung


感 懷

世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨

鄧容

CẢM HOÀI

Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

ĐẶNG DUNG

CẢM HOÀI

Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.


TẢN ĐÀ dịch
Đọc thêm Thanglong.educ

Saturday, March 21, 2009

Bình Ngô Đại Cáo


Audio Bình Ngô Đại Cáo

Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết.
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khứ bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thật vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực kí thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hảo đại dĩ xúc vong.
Toa Đô kí cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỉ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kì sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kì sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lí chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kì ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kì ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lí.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kì sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp kì nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kì trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kì:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kì.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh kí vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lí;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, kí kiêu kì thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lí loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền kí tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kì phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kì thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kì dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang Lượng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kì Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kì Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vị ngã quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ kí trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ kí uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kì thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn kí bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt kí hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã
Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.

Nguyễn Trãi

Bình Ngô Đại Cáo

Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay
.


Ngô Tất Tố dịch

Friday, March 20, 2009

Thơ Hoàng Châu

BẬU ƠI, CÒN NHỚ...
Qua chép bài thơ, bậu có quên !...


Bậu nhồi đất sét, nặn tu-na
Thoăn thoắt tay non nét ngọc ngà
Bậu vỗ kêu to như pháo nổ
Miểng đất bay lên tận nóc nhà .

Qua vụng về, lại chẳng khéo tay
Tu-na kêu bẹp, đất không bay
Qua chung mấy lượt không còn đất
Chịu thua vì đã trắng gia tài !

Ông qua bà lại... ai qua lại ?
Nhảy bụi xương rồng, chổng cẳng lên
Quần dài, ống rộng sao qua khỏi
Bậu thua, sao lại bắt qua đền!

Cây dừa, cây mộng... cây cao thấp ?
Chồng tay chỉ trúng có ai ngờ
Năm mười đếm ngược cho ai chạy
Không bắt, không thùng cột để trơ ...

Bỏ khăn bịt mắt, còn thiên vị
Ra dấu dùm cho bậu mấy phen
Nhẹ tay bậu quất như âu yếm
Coi chừng chúng bạn nó hờn ghen!

Hột keo đánh búng, bậu thua rồi
Nắm tay chịu phạt dạ bồi hồi
Búp măng trắng nõn, nào ai nỡ
Nương tay, qua búng cánh bông rơi...

Ốp lá khoai, mười hai chong chóng
Qua bắt kim-thang rước bậu về
Bậu còn đánh đũa, mê cò nhảy
Qua đành cút-bắt giữa sông mê.

Cuốn chiếu phơi khô chập chuồn chuồn
Đâu lưng cụng mặt thấy mà thương
Mong mưa cuốn chiếu, trời mưa thật
Ướt tuổi thanh xuân, khóc đoạn trường!

Đã qua - qua trót cho rồi chuyện
Nhắc lại làm gi chuyện trẻ thơ
Trò chơi mà ngỡ y như thật
Thật cũng là chơi, khéo ỡm ờ !... 

HOÀNG CHÂU
 10-2005

Thursday, March 19, 2009

Flying car


Terrafugia Transition flying car







Read more

Người Việt Quốc Gia


NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐỘC TÀI CỌNG SẢN
(Tiếp theo)

Phan Châu Trinh và chủ trương hoạt động công khai chống Pháp.

Phan Châu Trinh (1872-1926) nhận biết phong trào Cần Vương qua cuộc khởi nghĩa tại kinh thành Huế năm 1885 thất bại và vua Hàm Nghi phải chạy ra Tân Sở-Quảng Trị,sau đó bị bắt và bị đày qua Algéria và nhất là sau khi Phan Đình Phùng mất năm 1897,các hoạt động bí mật vũ trang chống Pháp gần như không còn hoat động hữu hiêu bởi lẽ,ngay sau khi k‎ý hiệp ước năm 1884,người Pháp đã xử dụng chi phí chiến tranh tại nước ta lên đến 5,5 triệu đồng Franc,lực lượng quân sự Pháp đã lên tới 15.000 quân,một hạm đội tàu chiến…trong khi quân dân ta quân số có hạn,lương thực thiếu thốn,vũ khí thô sơ,chỉ hoạt động và chiến đấu được trong vùng rừng núi . Do đó,Phan Châu Trinh chủ trương Dân biến(minh xã:công khai)mà không chủ trương Binh biến(ám xã:bí mật)như Phan Bội Châu.

Tuy cũng nhận biết,con đường thực thi chủ trương chống Pháp không bằng vũ trang này rất khó trong tình thế lúc bấy giờ,khi mà toàn dân đang nức lòng chống Pháp qua chủ trương bạo động của Phan Bội Châu,nhưng nhìn lại tổng cục tình hình đương thời và lâu dài trong tương lai nên Phan Châu Trinh chủ trương hoạt động công khai chống Pháp,ỷ Pháp ngay tại phần đất mà Pháp cai trị,tạm thời chấp nhận luật lệ hiện hành,nhưng chống lại chính sách đô hộ hà khắc của Pháp về mọi phương diện kinh tế,xã hội,chính trị,văn hóa…bằng các phương thức đấu tranh trong các xã hội dân chủ như,đấu tranh nghị trường tại các Hội đồng quản hat Nam kỳ,tại Viện dân biểu Trung kỳ… biểu tình,diễn thuyết,viết báo…Điển hình cao nhất là vụ biểu tình chống thuế tại các tỉnh miền Trung năm 1908,còn được gọi là Trung kỳ Dân biến mà Cụ phải chịu án tử hình,được giảm thành chung thân biệt xứ tại đảo Côn Lôn và Trần Quý Cáp bị án yêu trảm tại tỉnh Khánh Hòa,cũng như vụ kêu gọi toàn dân biểu tình chống án tử hình của Phan Bội Châu năm 1925.
Tương tự,sau đó ở Ấn độ,phong trào quốc gia bất bạo động do M.Gandhi lãnh đạo,cũng tổ chức tuần hành đi bộ 400km qua các thành phố,chống thuế muối do thực dân Anh áp đặt năm 1930.

Phan Châu Trinh sau khi xem xét lại các công cuộc nỗi dậy chống Pháp từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta năm 1858,đều thất bại vì nhiều nguyên do:dân trí còn thấp,kinh tế lạc hậu,yếu kém vũ khí,không thể trông cậy người nước ngoài giúp sức vì quyền lợi xung đột,vọng ngoại tắc ngu,do đó phải tự lực tự cường mới mong chống Pháp được,nên chủ trương phong trào Duy Tân(yêu nước,canh tân) đặc biệt chú trọng và truyền bá thuyết dân quyền,nâng cao văn hóa,chấn hưng kinh tế,cải tạo xã hội… là quốc sách hàng đầu,được viết ở trong nhiều sách của Cụ,đặc biêt trong 2 tác phẩm Tân Việt NamĐông Dương chính trị luận nên có chủ trương :

-Tạm thời hòa hoản hoản với Pháp,kể cả có thể dựa vào nước Pháp để tiến hành cải cách trong nước,chú trọng mở mang dân trí ,dân sinh phú cường…phổ biến chữ Quốc ngữ,cải cách và mở mang nông nghiệp,công nghiệp và thương nghiêp,nâng cao đời sống,tự lực tự cường tạo đà chống Pháp công khai lâu dài,cũng như tự tin vào sức mình,không cầu mong sự giúp đở của nước ngoài.

-Cổ súy dân quyền,hủy bỏ chế độ quân chủ,thực thi chế độ dân chủ,nhằm thiết lập nền cọng hòa Việt Nam,dựa trên triết thuyết chính trị là quyền lực tối thượng của quốc gia thuộc về toàn dân. Và quan điểm chính là có tự do,có dân chủ ắt sẽ có độc lập

-Những thành tựu có được,theo chủ trương “chấn dân khí,khai dân trí,hậu nhân sinh”của Phan Châu Trinh cùng các sĩ phu giai đoạn đó,bao gồm:

* Thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 ở phố Hàng Đào Hà Nội,do Lương Văn Can làm hiệu trưởng nhằm mục đích giảng dạy chữ Quốc ngữ,yêu cầu hủy bỏ chữ Hán,du nhập tư tưởng mới thông qua giáo dục nhằm nâng cao dân trí,phát triển văn hóa.Cơ quan ngôn luận của trường gồm hai tờ báo là Đăng cổ tùng báo và Đại Việt tân báo.
* Các cơ sở kinh tế cho phong trào Đông Du khắp ba miền đất nước như :Nam Đồng hương,Đồng Lợi tế,Minh Tâm công nghệ xã… tại Hà nội ,Quảng Nam,Bình Thuận,Mỹ Tho…
* Hình thành công nghiệp hóa sản xuất,các nhà máy xay lúa,nhà máy nhuộm,nhà máy in ấn…đã bắt đầu hoạt động tại Nam kỳ là đất thuộc địa của Pháp.

Ảnh hưởng kết quả công cuộc Duy Tân của vua Minh Trị tại nước Nhật từ 1868,đặc biệt từ cuối thế kỷ 19,tư tưởng của Fukuzawa Yukichi qua sách” Văn minh khái luận lược” hầu như cũng đã góp phần lớn trong bước tiến thúc dục thành quả duy tân tại nước ta trong giai đoạn đó,với tư tưởng tương đồng”để bảo vệ đọc lập không còn cách nào ngoài con đường tiến đến văn minh”. Phan Châu Trinh cùng các nhà ái quốc khác đã diễn thuyết chống Pháp khắp nước kêu gọi lòng ái quốc và bổn phận con dân nước Việt trước ngoại xâm,nhưng thực dân Pháp không dám bắt,đã khích lệ và làm nức lòng dân chúng khắp 3 miền đất nước chúng ta.

Cũng trong thời kỳ này tại Nam kỳ,Đảng Lập Hiến của nhóm Bùi Quang Chiêu thành lập năm 1917,cũng theo chủ trương Duy Tân và công khai chống Pháp dành lại độc lập qua văn hóa,kinh tế và nghị trường chính trị,tham gia ứng cử và bầu cử tại địa phương.Đặc biệt có ra tờ Diễn Đàn Bản Xứ(La Tribune Indigene)làm cơ quan ngôn luận từ năm 1926 đến năm 1941 .Các nhân sĩ yêu nước thuộc đảng Lập Hiến gồm: Lê Quang Liêm, Diệp Văn Cương, Trần Văn Khá, Trương Văn Bền,Nguyễn Phan Long… Trường hợp đảng Quốc Đại chống thực dân Anh ở Ấn Độ cũng cùng một mục đích như thế.

Tình hình sinh hoạt tổng thể tại nước ta trong giai đoạn này ,đã tiếp cận được với văn minh nhân loại so với thời kỳ trước rất nhiều,về văn minh cơ khí,tư tưởng triết học Tây phương,sinh hoạt chính trị nghị trường,văn hóa nghệ thuật cải biên,du nhập như cải lương(1917),kịch nghệ(1919),phim ảnh(1920),tiểu thuyết,thi ca,hội họa.Đặc biệt hơn cả là sự phát triển mạnh mẽ của báo chí,cả nước đã có đến gần 15 tờ nhật báo,hơn 5 tờ nguyệt san,nỗi tiếng có tờ Đông dương tạp chí,Nam phong tạp chí,và Tự lực văn đoàn sau năm 1930…tất cả nhờ sự phổ biến của chữ Quốc ngữ,đã có tác động rất lớn đối với tình trạng dân trí so với trước đó,về quan niệm độc lập tự do,dân chủ,nhân quyền và ai ai cũng hiểu được rằng tranh đấu để đòi lại độc lập cho đất nước,không tất yếu phải vũ trang,đổ máu … Cũng như người dân Ấn Độ,dưới sự lãnh đạo của Gandhi với chủ trương bất bạo động,được áp dụng từ sau năm 1920,và đấu tranh công khai của đảng Quốc Đại,đã dành được độc lập từ thực dân Anh trong năm 1947.

Thông qua chủ trương Duy Tân và công khai tranh đấu của Phan Châu Trinh cùng với những thành quả của nó,người dân Việt đã thấy được rỏ con đường trước mặt phải tiến tới nhằm mục đích thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp,để rồi sau đó,từ năm 1930 trở đi,sau khi Phan Châu Trinh mất ,khuynh hướng công khai chống Pháp dành độc lập cho đất nước,đã được chính Phan Bội Châu xem xét lại,tán đồng,cổ vũ và các nhà ái quốc Việt Nam xem như là sách lược mẫu mực dẫn đường cho công cuộc đấu tranh dành độc lập,từ đó cho đến khi toàn dân hoàn thành sứ mệnh vào năm 1949 với Hiệp định Élysée được ký giữa vua Bảo Đại và Tổng thống Auriol Vincent của Pháp ngày mồng 8 tháng 3,chiếu theo công pháp quốc tế.

(Còn tiếp)

CAO KIM LIÊN

Đọc thêm
Tân Việt Nam
Quân trị và dân trị
Bùi Quang Chiêu