Friday, June 29, 2012

PGVN


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAMTHỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG
Thanh Minh Thiền Viện
90 Trần Huy Liệu, P. 15, Q. Phú Nhuận, TP. Sài gòn

Phật lịch 2556
Số 08/VTT/TB/TT
THÔNG BẠCH
Kêu gọi tham gia biểu tình
chống ngoại xâm cứu nguy đất nước

Kính Gửi :

Quí vị Lãnh đạo các Tôn giáo, các Nhân sĩ, Trí thức, các Đảng phái, các Đoàn thể, Tổ chức, Sinh viên học sinh và toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.

Kính thưa Quí liệt vị,

Đã hàng ngàn năm qua, Trung quốc luôn xâm lăng tổ quốc Việt Nam, hết lần này đến lần khác, chưa bao giờ từ bỏ mộng bành trướng Đại Hán này. ( Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ (2007).

Hiện nay, các hải đảo Hoàng sa, Trường sa và một phần lãnh thổ Miền Bắc đã bị Trung cộng xâm chiếm. Các vùng Cao nguyên Trung phần và rừng núi 10 Tỉnh trên toàn quốc đã bị Trung cộng tìm cách lấn chiếm dưới hình thức khai thác Bau-xít hay thuê đất trồng rừng dài hạn 50 năm trở lên.

Trung cộng đã lập Huyện Tam sa bao gồm các hải đảo Hoàng sa, Trường sa của Việt Nam.

Từ năm 2005 đến nay, Trung cộng đã nhiều lần bắn giết, cướp bóc tàu thuyền, tài sản của ngư dân Việt Nam. Trung cộng lại còn bắt giam ngư dân, đòi tiền chuộc như những nhóm thảo khấu.

Hành động xâm lăng của Trung cộng rất ngang nhiên trắng trợn. Nhưng Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bị kẹt trong thoả thuận “16 chữ vàng và 4 tôt”, không phân rõ bạn thù, nên chỉ lên tiếng phản đối lấy lệ, làm cho Trung cộng được trớn, ngày càng xâm chiếm các vùng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam nhiều hơn, mạnh tay hơn.

Đồng thời biên giới phía Bắc lại bị bỏ ngõ, mặc tình cho người Hoa tự do xâm nhập vào lãnh thổ nước ta mà Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam không kiểm soát được.

Người Hoa đã thành lập các khu phố Tàu, khu khai thác biệt lập không ai vào được, ở Bình dương, Lâm đồng và nhiều nơi khác.

Nay, Trung cộng lại còn ngang nhiên cho đấu thầu khai thác 9 lô dầu khí trong hải phận Việt Nam.

Trước nguy cơ ngàn năm Bắc thuộc tái hiện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cất lời thống thiết kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam không phân biệt chính kiến, tôn giáo, già trẻ, nam nữ, dân tộc, đảng phái, trong và ngoài nước… hãy cùng nhau xuống đường biểu tình vào ngày Chủ nhật, 01.7.2012, để chống ngoại xâm, cứu nguy đất nước.

Nguyện cầu hồn thiêng sông núi, các anh hùng liệt nữ phù hộ cho đất nước Việt Nam thoát khỏi ách ngoại xâm.

Cầu chúc toàn dân Việt Nam thành công trong ý chí và hành động.

Sài gòn, ngày 28.6.2012
Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN
Đệ Ngũ Tăng Thống
Sa môn Thích Quảng Độ
(ấn ký)

Cờ Vàng

Thành Phố Louisville, KY
Công Nhận Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ

 Ngày 21 tháng 6 năm 2012 là một ngày đi vào lịch sử của thành phố và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại thành phố Louisville, Kentucky khi Nghị Quyết Cờ Vàng do Nghị Viên Dan Johnson bảo trợ đã được tất cả 24 Nghị Viên có mặt đồng thuận thông qua công nhận Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng cho cộng đồng người Việt Quốc Gia tại thành phố Louisville. (Ban Vận Động hoan nghênh nghị quyết được thông qua, Louisville, KY ngày 21/06/2012 (ảnh Ban Vận Động Cờ Vàng)

Ban Vận Động Cờ Vàng tại thành phố Louisville được thành lập từ tháng 9 năm 2011 với sự góp mặt của đại diện các tổ chức, hội đoàn, và đoàn thể tôn giáo. Trong những tháng qua đầu Ban Vận Động đã phải vượt qua nhiều trở ngại cam go.

Ngày hôm nay Cô Đinh Thị Ngọc Tuyết, đại diện Ban Vận Động Cờ Vàng và ông Robert Keller, Chủ Tịch Hội Cựu Chiến Binh Việt-Mỹ tại Louisville, đã điều trần trước Hội Đồng Thành Phố để kêu gọi tất cả các Nghị Viên hãy yểm trợ và bỏ phiếu thuận cho Nghị Quyết.

Điều thú vị là khi Nghị Viên Dan Johnson giới thiệu Nghị Quyết Cờ Vàng thì tất cả các Nghị Viên trong Hội Đồng Thành Phố đều đồng loạt đề nghị xin được bổ sung nội dung của Nghị Quyết để tất cả các Nghị Viên của Hội Đồng Thành Phố đều được đứng tên là người đồng bảo trợ cho Nghị Quyết Cờ Vàng.

Hơn 50 đồng bào Việt Nam đến tham dự cuộc họp của Hội Đồng Thành Phố đã vui mừng đứng lên vỗ tay vang dội và phất cờ vàng ba sọc đỏ khi Nghị Quyết Cờ Vàng được Hội Đồng Thành Phố thông qua. Ông Thị Trưởng Louisville sẽ chính thức ký ban hành nghị quyết này trong nay mai.

Nhiều người đã không ngăn được sự xúc động vì qua bao nhiêu năm mong mỏi, niềm mơ ước đã thành sự thật: Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu đã được chính quyền thành phố công nhận là biểu tượng chính thức của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Louisville, Kentucky.

Ban Vận Động đã thành công nhờ phối hợp nhịp nhàng hai phương thức vận động hậu trường và quần chúng với sự tham gia của những người trẻ cùng với thế hệ cha anh, theo mô thức của cuộc vận động tại Quốc Hội ngày 6 tháng 3 vừa qua.

Philippines vs VietNam


Người Việt và người Philippines ở Mỹ
 hô hào tẩy chay hàng hóa của Tàu

 Cali Today News - Cơn sốt Biển Đông đã lây lan qua đến Mỹ, với hàng chục người Mỹ gốc Việt và gốc Philippines hô hào phải tẩy chay hàng hóa “Made in China”

Eric Lachica, thuộc cơ quan U.S. Pinoys for Good Governance, vốn tổ chức cuộc tuần hành ngày 22 tháng 6 vừa qua trước cửa trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, cho hay: “Hãy tẩy chay hàng hóa Made in China”.( Kêu gọi tẩy chay hàng hóa Trung Quốc. Photo courtesy: Global Nation)

Philippines và VN là hai quốc gia Đông Nam Á tỏ ra chống đối bá quyền của TQ ở Biển Đông mạnh mẽ nhất trong thời gian qua. Sau vụ tàu TQ húc chìm tàu làm vài ngư dân Philippines chết và mất tích, tình hình càng thêm “nóng”

Bác sĩ Đỗ Văn Hội, Chủ Tịch cộng đồng người Việt ở Florida tuyên bố VN và Philippines đang đứng cùng nhau trên một chiến tuyến, ông nói: “Trung Cộng chế ngự thô bạo, chiếm đảo của VN và Bãi Đá Cạn Scarborough của Phi Luật Tân, người VN chúng tôi chống Trung Cộng và ủng hộ các bạn Phi chống Trung Cộng như chúng tôi”

Các lãnh tụ của các nhóm tranh đấu của người Việt và Phi ở Mỹ đã gặp gỡ giới lãnh đạo các đại công ty như Wal-Mart, Costco, K-mart, Home Depot... để thúc dục họ đừng bán ra các sản phẩm của Tàu Cộng.

Bác sĩ Hội và các gương mặt tranh đấu như Rene Ballenas và Bambi Lorica, còn đi xa đến mức cho hay họ “sẽ không đặt chân đến các nhà hàng Tàu trên đất Mỹ”

Joe Ramos, một thành viên tranh đấu khác, cho hay: “Là công dân khắp thế giới, chúng ta có thể tập hợp lại, khuấy động công luận chống Trung Cộng, nền kinh tế chỉ dựa vào xuất cảng của Trung Cộng rất mong manh”

Lachira nói “chiến dịch tẩy chay này sẽ thay đổi lịch sử”, với khoảng 4 triệu người Mỹ gốc Phi và 1,5 triệu người Mỹ gốc Việt, chiến dịch “People Power” sẽ đáng sợ. Ông nói: “Chỉ cần 1 triệu người Mỹ gốc Phi không mua hàng Tàu là Trung Cộng sẽ thấy “ra sao” liền”

Trường Giang
(nguồn Philippine Daily Inquirer)

NVHN


Diễn Hành Văn Hóa tại New York

Video Dienhanhvanhoa

Cũng như nhiều năm về trước, cuộc diễn hành văn hóa tại thành phố New York năm nay diễn ra với chủ đề Hội Nghị Diên Hồng mang đầy màu sắc văn hóa lịch sử của dân tộc Việt Nam. Ðặc biệt đây là năm đầu tiên cộng đồng Việt Nam thực hiện cuộc diễn hành văn hóa sau sự qua đời của nhà mạnh thường quân Trần Ðình Trường.(Bà Thu Cúc đến từ New Jersey đang dẫn đầu xe hoa. )

Ông Nguyễn Văn Tánh, chủ tịch cộng đồng Việt Nam tại New York cho biết, mặc dù ông tỷ phú qua đời nhưng sự ủng hộ bằng cách cung cấp nơi ăn ở ở giữa thành phố New York đắt đỏ không hề bị gián đoạn. Hơn 700 đồng bào Việt Nam với khoảng 400 người ghi danh ở lại khách sạn Carter đã biến cuộc diễn hành thành một tuyên ngôn văn hóa lịch sử đặc sắc trong các cộng đồng di dân tại Hoa Kỳ.

Ðặc biệt trước hôm trước ngày diễn hành văn hoá, với số lượng đồng bào đông đúc, đại diện các đoàn thể Việt Nam đã làm một cuộc biểu tình tố cáo nhà cầm quyền Trung Quốc và gặp uỷ hội nhân quyền tại Liên Hiệp Quốc

Chương trình vận động này đã thu hút các sắc dân khác tham gia như Tây Tạng và Phi Luật Tân. Ðây cũng là lần đầu tiên cộng đồng người Mỹ gốc Phi Luật Tân đã nối vòng tay với cộng đồng Việt Nam tố cáo Trung Quốc về vấn đề Biển Ðông qua vụ Trung Quốc xâm lấn bãi cạn Scarborough làm nhân dân Phi Luật Tân phẫn nộ.

Phái đoàn cộng đồng Việt Nam cũng đã gặp đại diện Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền là bà Ann Syauta tại trụ sở Liên Hiệp Quốc thành phố New York do ông Lại Thế Hùng từ Âu Châu và ông Trần Quán Niệm, chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia New Jersey hướng dẫn để trình bày vấn đề nhân quyền tồi tệ ở Việt Nam. Bà Ann Syauta đã ghi nhận và hứa sẽ đệ trình những vấn đề mà phái đoàn cộng đồng Việt Nam quan tâm lên Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền và hy vọng sẽ sớm có câu trả lời cho người đại diện. Bà cho biết về việc bầu Việt Nam thành thành viên Hội Ðồng Nhân Quyền là do quyết định của các quốc gia thành viên, có nghĩa là mọi người cần phải vận động các quốc gia trên thế giới.

Trung Quốc không còn tham dự lễ Diễn Hành Văn Hoá.

Cuộc diễn hành văn hóa lâu này chính ra như là một tuyên ngôn chính trị của cộng đồng Việt Nam hải ngoại tạo động lực thu hút các giới đồng bào tham dự. New York được xem là thủ đô chính trị của thế giới vì vậy biểu dương dưới màu cờ vàng ba sọc đỏ được bảo trở bởi tổ chức liên quan tới Liên Hiệp Quốc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hình ảnh của người Mỹ gốc Việt. Ở thế giới người Hoa, sự phân định quốc cộng cũng xảy ra. Trung Quốc đã dồn hết tiền bạc để đưa ra những chương trình đặc sắc nhất để áp đảo màu cờ của Ðài Loan và Tây Tạng.

Thế rồi những năm gần đây, cuộc diễn hành này như là một sự đối đầu Trung-Việt với những khẩu hiệu đả đảo vang trời. Phái đoàn Việt Nam cũng đông đảo ngang ngửa với Trung Quốc do đó sự đối đầu này là một thực tế. Nhiều người cho rằng phái đoàn Ðài Loan và Trung Quốc thỏa hiệp rút lui nhưng thực tế là nhóm Ðài Loan theo Dân Tiến Ðảng, đề cao văn hóa bản địa Ðài Loan, cổ vũ sự độc lập. Họ tìm Trung Quốc để đấu tranh. Nay Trung Quốc bị Việt Nam đối đầu trực tiếp, phá hỏng hình ảnh thì Ðài Loan cũng không còn có nhu cầu đấu tranh trực diện.

Ngoài ra các màu sắc văn hóa của Việt Nam đều lấy cơ sở lịch sử chống Trung Quốc làm chủ đề do đó Trung Quốc phải rút lui vì bị tố cáo trước dư luận về hình ảnh bành trướng bá quyền. Trung Quốc phải lặng lẽ rút lui là một điều thú vị đối với cộng đồng Việt Nam. Kể từ khi Trung Quốc rút lui rồi thì màu sắc của Việt Nam coi như là sáng giá nhất trong chương trình.(Xe hoa năm nay với chủ đề Hội Nghị Diên Hồng).

Cuộc diễn hành trúng vào dịp lễ thất tuần (49 ngày) của ông Trần Ðình Trường. Nhân dịp này gia đình ông cũng đã mở một thánh lễ cầu hồn trong khu vực tư gia và mời tất cả mọi người tham dự. Ðây là một kỷ niêm khó quên và là như một sự hứa hẹn rằng gia đình Trần Ðình Trường sẽ thực hiện một di ngôn nào đó của người quá cố để sắc màu văn hóa Việt Nam tiếp tục được trình diễn hàng năm tại New York.

Trần Ðông Ðức
@Người Việt Đông Bắc  -  dt/facebook

Thursday, June 28, 2012

VH

Trả Chữ Cho Đời


Ta đi đong chữ cả đời
Chẳng nên tích sự ta cười bâng quơ
Ta về chống gậy làm thơ
Nỉ non thương mảnh cơ đồ nát tan
Nhớ xưa sông núi huy hoàng
Hiếu Trung, hai chữ nạm vàng sử kinh
Quê hương thêu dệt chữ Tình
Hẹn thề hai kẻ chúng mình chữ Yêu
Gánh hoàng hoa bỗng hắt hiu
Gánh tương tư nặng những chiều lẻ loi
Đường trần mờ mịt trăng soi
Chữ Quên, chữ Nhớ một thời ngửa nghiêng
Trăm con sông chảy ưu phiền
Xóa nhòa chữ nghĩa hão huyền cuốn trôi
Thì thôi, trả chữ cho đời
Ta nương gậy trúc cho người bước theo
Cần chi chữ rụng ít nhiều
Cũng như lá mục quạnh hiu chỗ nằm
Đổi thay thế sự thăng trầm
Hãy còn tin chữ Tri Âm cuối đường.

Dương Quân
FL. June.12 /2012

WH

Câu chuyện đằng sau bức ảnh
 cậu bé sờ đầu Tổng thống Obama

Tờ New York Times hôm qua đã hé lộ câu chuyện đằng sau bức ảnh cậu bé da màu 5 tuổi sờ đầu Tổng thống Mỹ Obama tại Nhà Trắng từ 3 năm trước, khi ông mới lên nắm quyền được vài tháng.

Câu chuyện đằng sau bức ảnh cậu bé sờ đầu Tổng thống ObamaTrong suốt nhiều thập niên qua, ảnh chụp tổng thống làm việc và nghỉ ngơi được treo khắp Cánh Tây của Nhà Trắng và khi mỗi tấm mới được rửa ra, lại có tấm ảnh cũ phải nhường đường. Tuy nhiên, bức ảnh về cậu bé sờ đầu Tổng thống Obama vẫn được “yên vị” trong suốt 3 năm qua.(Bức ảnh cậu bé 5 tuổi sờ đầu Tổng thống Obama.)

Trong bức ảnh, Tổng thống Obama cúi đầu về phía một cậu bé da màu 5 tuổi, ăn mặc bảnh bao đứng cạnh chiếc bàn làm việc của tổng thống trong phòng Bầu dục, trong khi cậu bé giơ tay lên chạm vào tóc Tổng thống, để xem nó có giống với tóc của cậu hay không. Hình ảnh đã khiến rất nhiều phụ tá ở Nhà Trắng cũng như khách tham quan yêu thích, khiến yêu cầu giữ nó lại đã được “phê chuẩn”.

Khi là ứng cử viên và sau đó là Tổng thống, ông Obama thường tránh thảo luận đến vấn đề sắc tộc, trừ một số trường hợp đặc biệt khi ông không có lựa chọn khác, như phản ứng lại với bình luận phân biệt sắc tộc của cựu mục sư của ông, hay vụ bắn chết một cậu bé da đen không mang vũ khí ở Florida. Một số nhà lãnh đạo da đen chỉ trích ông Obama đã không trực tiếp phát biểu với thanh niên da đen hay đề xuất những chính sách đặc biệt cho họ.

Song bức ảnh là bằng chứng hiển hiện của các kết quả thăm dò: Ông Obama vẫn là biểu tượng mạnh mẽ của người da đen, với sự ủng hộ không giới hạn dành cho họ.

Cậu bé trong bức ảnh là Jacob Philadelphia ở Columbia. 3 năm trước, cũng vào tháng này, cha cậu, cựu lính thủy đánh bộ Carlton, chuẩn bị rời đội ngũ nhân viên Nhà Trắng sau 2 năm làm việc tại Hội đồng an ninh quốc gia, từ thời Tổng thống Bush. Như thông lệ đối với các nhân viên Nhà Trắng sắp rời đi, Philadelphia đã yêu cầu được chụp hình cả gia đình mình với tổng thống Obama.

Khi đã chụp ảnh xong và gia đình chuẩn bị rời đi, Philadelphia đã nói với Obama các con trai ông mỗi người có một câu hỏi dành cho Tổng thống. Trong các cuộc phỏng vấn sau này, Philadelphia và vợ cho biết họ đều không biết các con mình sẽ hỏi gì. Phóng viên ảnh Nhà Trắng Pete Souza cũng rất ngạc nhiên, và bức ảnh ông chụp cũng chứng minh điều đó: đầu cha mẹ cậu bé bị cắt, trong khi tay của Jacob che mất mặt và anh trai cậu bé, Isaac, thì bị mờ.

Jacob là người nói đầu tiên.

“Cháu muốn biết liệu tóc của cháu có giống tóc của ngài không”, cậu bé nói với Obama, nhỏ tới mức Tổng thống Mỹ đã phải bảo cậu bé nhắc lại. Và khi Jacob nhắc lại, ông Obama trả lời: “Sao cháu không thử tự sờ xem?”. Rồi ông Obam cúi thấp đầu xuống phía Jacob. Cậu bé ngập ngừng.

“Thử sờ xem”, Obama nói.

Và Jacob đã chạm vào đỉnh đầu tổng thống, Souza cho biết.

“Cháu thấy sao?”, ông Obama hỏi.

“Vâng, nó giống nhau”, Jacob trả lời.

Trong khi đó, Isaac, giờ đã 11 tuổi, kể lại cậu bé đã hỏi Obama vì sao ông lại ra lệnh bỏ chiến đấu cơ F-22. Ông Obama đã trả lời vì nó quá đắt.

Giữ thông lệ có từ thời Tổng thống Gerald R. Ford, mỗi tuần nhiếp ảnh gia Souza lại chọn các bức ảnh mới để trưng bày ở Cánh Tây. Và tuần đó, Jacob đã khiến công việc của ông trở nên nhẹ nhàng.

“Là một nhiếp ảnh gia, bạn biết khi nào bạn có khoảnh khắc độc đáo. Nhưng tôi không nhận ra hết được mức độ ảnh hưởng của bức ảnh này”, ông Souza cho hay. “Bức ảnh đó ngay lập tức đã được các nhân viên trong Nhà Trắng yêu thích. Tôi nghĩ mọi người bị ngạc nhiên trước việc Tổng thống của nước Mỹ sẵn sàng cúi đầu và để một cậu bé sờ lên đầu mình”.

David Axelrod, cố vấn lâu năm của ông Obama, cũng có một bản sao bức ảnh được lồng khung trong văn phòng của mình ở Chicago. Ông cho rằng: “Những gì cậu bé đang thực sự muốn nói là: Ồ ngài cũng như tôi thôi”. Và cũng không có gì là quá suy diễn khi cho rằng cậu bé đó có thể đã nghĩ: “Có thể ngày nào đó cháu cũng ở đây”.”

Một bức ảnh tương tự cũng được treo trong phòng khách của gia đình Philadelphia cùng với nhiều bức ảnh khác được chụp trong ngày đó. Ông Philadelphia, hiện đang làm việc cho Bộ Ngoại giao Mỹ tại Afghanistan, cho biết: “Việc thấy một người da đen làm tổng thống rất quan trọng đối với trẻ em da đen. Bạn có thể tin rằng người da đen có thể đạt được bất kỳ vị trí nào.”

Còn Jacob, giờ đã 8 tuổi, cho biết cậu bé dĩ nhiên là muốn trở thành tổng thống. “Hoặc là một phi công thử máy bay”.

Vũ Quý
Theo New York Times

USA VS CHINA


Hoa Kỳ và Trung Quốc
 gặp nhau dưới đáy biển

LTS - Thời sự dồn dập hàng ngày trên cả địa cầu có thể giúp chúng ta biết được là chuyện gì đang xảy ra trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta không hiểu được vì sao lại xảy ra một biến cố như vậy, và hậu quả sau này sẽ ra sao... Cũng vì lý do ấy, nhật báo Người Việt mở thêm một tiết mục và lưu trữ trên trang mạng Người Việt Online để quý độc giả tham khảo. Ðó là mục “Hồ Sơ Người-Việt,” xuất hiện Thứ Năm mỗi tuần, với nội dung trình bày khung cảnh khách quan của một vấn đề và, nếu có thể, một số dự báo về tương lai hầu độc giả khỏi ngỡ ngàng khi sự biến xảy ra. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả...

Từ 27 tháng 6 này đến mùng 7 tháng 8, 22 quốc gia trong vành cung Thái Bình Dương (RIMPAC hay Rim of the Pacific) sẽ có cuộc thao dượt hải quân hỗn hợp, hai năm lại tiến hành một lần. Lần này, có bốn quốc gia đã đưa tiềm thủy đĩnh (tầu ngầm) vào cuộc và Hoa Kỳ là nước duy nhất gửi tới loại tầu ngầm nguyên tử. (Chiến hạm Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương Hình: Adam K. Thomas/U.S. Navy via Getty Images)

Hiển nhiên là Hải Quân Trung Quốc và lãnh đạo Bắc Kinh theo dõi rất sát khả năng vận hành của Hoa Kỳ dưới đáy biển.Vì thế, “Hồ Sơ Người-Việt” kỳ này xin tìm hiểu khái quát về cuộc hội ngộ đó.Việc Trung Quốc xây dựng lực lượng hải quân lớn mạnh đã khởi sự từ 20 năm trước, tức là 10 năm sau khi quốc gia này bắt đầu cải cách kinh tế. Nhưng mục tiêu bành trướng ngày càng trở thành tinh vi và có trọng tâm. Ngày nay, sự kiện đó đã thành mối quan tâm cho nhiều quốc gia trong vùng và nhất là cho Hoa Kỳ.

Là siêu cường quân sự có thực lực từ cả trăm năm nay, mà cũng là một “quốc gia hải đảo” nằm giữa hai đại dương lớn nhất địa cầu, Hoa Kỳ cần phát triển khả năng lưu thông tự do trên mọi mặt biển để bảo vệ quyền lợi của mình. Ngược lại, Trung Quốc mới chỉ ra khỏi đại lục và vừa bước chân xuống biển. Sự gặp gỡ tất nhiên của hai nước là một biến cố đáng chú ý.
Chúng ta có nhiều giác độ khác nhau để nhìn vào cuộc gặp gỡ lịch sử này.

Trung Quốc ngoài Ðông Hải

Khái niệm Ðông hải hay “biển Ðông” là cách gọi tiện dụng, hàm ý mặt biển ở phía Ðông của Trung Quốc. Nếu không bị bó trong khuôn khổ tư duy và cảm nhận đó, người ta cũng có thể gọi biển Ðông này là... biển Tây của Hoa Kỳ. Nước Mỹ thực dụng không cần để ý đến cách gọi mà lại rất chú ý đến cách bảo vệ quyền lợi.

Khu vực Ðông Hải đó có hai phần.

Phía Bắc và đích thực là biển Ðông của Trung Quốc thì có vùng Ðông Bắc Á Châu, kéo dài từ lãnh thổ Nga qua bán đảo Triều Tiên, biển Nhật Bản xuống tới Eo biển Ðài Loan và dãy đảo Lưu Cầu hay Ryu Kyu của Nhật. Phía Nam, và đích thực là biển Ðông của Việt Nam, có vùng biển Ðông Nam Á. Nhìn theo giác độ kinh tế thì biển Ðông Nam Á mới là khu vực then chốt vì nối liền Thái Bình Dương với Ấn Ðộ Dương và là vùng sinh hoạt sinh tử của Nhật Bản phía Bắc với lãnh hải của Úc Ðại Lợi ở phía Nam. Ðây là nơi sinh sống của gần 600 triệu dân Ðông Nam Á và hai tỷ người chung quanh, từ miền Nam Trung Quốc đến bán đảo Ấn Ðộ.

Một số nhà tư tưởng hay lý luận của Trung Quốc và cả Tây phương nhắc đến chuyện xưa để bàn về chuyện nay. Nếu ngày nay Trung Quốc coi Ðông hải là khu vực chiến lược của họ thì chẳng khác gì Hoa Kỳ đã từng xem Tây Bán cầu, là đại lục Mỹ Châu nếu nhìn từ Âu Châu, là khu vực ảnh hưởng của Mỹ.

Họ nhắc đến “Chủ thuyết Monroe” của Hoa Kỳ xuất hiện từ đầu thế kỷ 19 dưới thời Tổng Thống James Monroe. Thật ra, chủ thuyết đó do Ngoại Trưởng John Quincy Adams đề xướng (trước khi cũng thành tổng thống) nhắm vào hai khía cạnh. Thứ nhất, sau hàng loạt cuộc chiến thời Napoléon, Hoa Kỳ không muốn can dự vào chuyện Âu Châu. Thứ hai, Hoa Kỳ cũng không muốn các nước Âu Châu lập thêm thuộc địa tại các quốc gia Trung Nam Mỹ.

Về sau, khái niệm hai mặt đó được thu gọn thành “Mỹ Châu là của người Mỹ.” Mà “người Mỹ” ở đây là Hoa Kỳ. Trung Quốc ngày nay cũng có thể lý luận trên các diễn đàn quốc tế rằng “Á Châu là của người Á” với hàm ý là không của Hoa Kỳ.

Chỉ nội lý luận đó đã nói lên mâu thuẫn không thể tránh với nước Mỹ, khi Hoa Kỳ khẳng định rằng mình là một quốc gia Châu Á và bảo vệ quyền lợi của Mỹ tại Á Châu là mục tiêu chiến lược. Lý luận này của Hoa Kỳ không xuất phát từ Ngoại Trưởng Hillary Clinton ngày nay mà từ lãnh đạo Mỹ vào đầu thế kỷ 20, trước tiên là Tổng Thống Theodore Roosevelt.

Hệ quả thứ hai của “chủ thuyết Monroe - với màu sắc Trung Hoa,” rằng Á Châu là của người Á, còn đụng vào một thực tế phức tạp khác của Châu Á. Về địa dư, lục địa này bao gồm các nước Tây Á như Iran hay Saudia Arabia đến Viễn Ðông, như Nga, Ðại Hàn, Nhật Bản qua bán đảo Ấn Ðộ đến các quốc gia quần đảo hay bán đảo tại Ðông Nam Á. Trong một chuỗi dài như vậy, Á Châu là của người Á nào?

Nói cách khác, Á Châu có thể là của người Á, mà không thể là của người Trung Hoa. Nhật Bản, Ðại Hàn, Ấn Ðộ và nhiều quốc gia khác tất nhiên cũng đồng ý như vậy!

Một cách nhìn cũng chiến lược, và đây là vấn đề của Việt Nam, thì nếu ngoài Ðông hải của Trung Quốc (khu vực Ðông Bắc Á), lãnh đạo Bắc Kinh gặp phải bốn nước cứng đầu là Nga, Nam Hàn, Ðài Loan Nhật Bản, tại Ðông hải của Việt Nam (khu vực Ðông Nam Á), họ không có đối thủ. Vì chỉ gặp các nước nhỏ yếu hơn, đó là 10 quốc gia trong Hiệp hội ASEAN.
Chiến lược Ðông hải của Trung Quốc tất nhiên nhắm vào Ðông Nam Á, gây ảnh hưởng tới 10 nước trong nhóm ASEAN. Ða số trong nhóm này lại là đồng minh hay đối tác của Hoa Kỳ.

Sau khi nhắc lại bối cảnh chung, chúng ta nên mò sâu hơn xuống đáy biển.
Hoa Kỳ là siêu cường đại dương từ cả thế kỷ. Hàng không mẫu hạm đầu tiên của Mỹ đã được hạ thủy từ 1911, 100 trước khi Hải Quân Bắc Kinh thử nghiệm “tầu sân bay” Varyag mua lại của Ukraine. Hoa Kỳ cũng là cường quốc thường xuyên lâm chiến ở mọi nơi trong mọi hình thái chiến tranh và có kinh nghiệm chiến trường hơn hẳn mọi quốc gia khác trên địa cầu. Binh lính và sĩ quan Mỹ lên lon là từ thành tích tác chiến và cải thiện phương pháp tổ chức hay chiến lược, chứ không từ các tiêu chuẩn nào khác, như đảng tịch, hay sắc tộc.

Kết hợp với sức mạnh kinh tế và khả năng sáng tạo về kỹ thuật từ cả trăm năm, Hoa Kỳ trở thành quốc gia không đối thủ ngoài đại dương. Ngoài đại dương tức là trên không gian và dưới cả đáy biển. Hoa Kỳ không có nhu cầu xâm lăng hoặc đưa quân vào kiểm soát Trung Quốc qua hình thức trận địa chiến, như Nhật Bản đã làm và thất bại. Siêu cường này chỉ cần bảo vệ quyền tự do và ưu thế của mình trên các đại dương, và dĩ nhiên ngoài Ðông hải của Trung Quốc và Ðông hải của Việt Nam.

Trước một đối phương như vậy, Trung Quốc không dại gì mà trực diện thách đố, gây hấn hay tấn công trong một cuộc chiến tất bại ở ngoài đại dương.
Lãnh đạo Bắc Kinh chỉ muốn cản trở sự xâm nhập của Hoa Kỳ ở ngoài biển và ngăn ngừa sự khống chế của Hoa Kỳ trên không gian. Họ nhắm vào hai mục tiêu “cản trở” và “ngăn ngừa” (Ngũ Giác Ðài của Mỹ gọi tắt là A2/AD, anti-access/area denial) với điều kiện là không bị thiệt hại. Họ thực hiện mục tiêu có điều kiện ấy qua tính toán về lẽ hơn thiệt: làm sao cho Hoa Kỳ cân nhắc lợi hại và e ngại tổn thất mà chấp nhận sự hiện diện của Trung Quốc ngoài biển.
Không thể trực diện đối đầu ngoài biển và trên không gian, Trung Quốc đi ngầm ở dưới: dùng tiềm thủy đĩnh làm sức mạnh hăm họa hay can gián. Ngày xưa, chúng ta có một chữ cho khái niệm “deterrence” này, là “gián chỉ,” xin hiểu là can gián và cấm chỉ.

Vì lối tính toán ấy, Hải Quân Trung Quốc ngày nay có lực lượng tiềm thủy đĩnh cổ điển lớn nhất thế giới. Cổ điển là chạy bằng dầu cặn, diesel. Song song, họ cũng có một số tầu ngầm chạy bằng năng lượng nguyên tử (hay hạt nhân, hạch tâm, nuclear). Gần đây, dường như họ còn cải tiến loại cổ điển bằng sức đẩy của phản lực để có thể nằm lâu hơn dưới đại dương. Hiện nay, Hải Quân Trung Quốc đã có 60 tầu ngầm đủ loại và đặt chỉ tiêu là nâng số này lên 75 trong thập niên tới.

Nhưng nằm im dưới biển để làm gì nếu không có khả năng tấn công?
Khả năng đó là loại phi đạn đối hạm ASBM, Anti Ship Ballistic Missile. Dùng ám khí bắn từ đáy biển để phục kích các chiến hạm của Mỹ. Nếu các ám khí này lại mang đầu đạn nguyên tử thì ưu thế của các hạm đội Mỹ có thể bị triệt tiêu. Các nhà nghiên cứu quân sự đều đang tìm hiểu khả năng này của Hải Quân Trung Quốc (được gọi tắt là PLAN, People's Liberation Army - Navy).

Vì thế, song song với cách dàn trận trên mặt đất, như xây dựng các đơn vị Công Binh của Hải Quân, loại Hải quân Công xưởng, ngoài biển Ðông Nam Á là chuyện đang xảy ra, Trung Quốc cũng bố trí phương tiện dưới đáy biển. Và tìm hiểu xem Hoa Kỳ biết được tới đâu và sẽ làm những gì để chống trả.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn vào không gian ba chiều này, trên không, ngoài biển và dưới đáy, như một hệ thống quân sự thống nhất, với sự phối hợp chặt chẽ về thông tin, điều động và tác chiến. Vệ tinh, tầu ngầm hay hỏa tiễn gì thì cũng do con người điều khiển căn cứ trên nhận thức và tổ chức với những phương tiện hiện đại nhất mà cũng phải là bí mật nhất.

Hoa Kỳ đã có cả trăm năm đào luyện, Trung Quốc mới chỉ bắt đầu. Khi nào các sĩ quan hải quân đời nay lên tới chức Ðô đốc, trong sự cải tiến đồng bộ của cả hệ thống quốc phòng, thì hải quân Trung Quốc mới trở thành một sức mạnh đáng kể. Nghĩa là cũng phải một thế hệ, 25-30 năm nữa. Trong khoảng thời gian đó, Hoa Kỳ không ngồi yên hoặc ngủ quên.
Ðiều đáng chú ý nhất của cuộc cờ đấu trí hơn là đấu lực, Hoa Kỳ lại thường hay hốt hoảng.

Tương quan lực lượng

Người ta có cảm tưởng là nước Mỹ chỉ có khả năng tập trung trong ngắn hạn vào những ưu tiên nhất thời, nên lâu lâu lại giật mình rằng họ có vấn đề và bị tụt hậu trong nhiều lãnh vực khác. Truyền thông và chính giới Hoa Kỳ thường có thói quen như vậy. Rồi trong cái trớn của sự “giác ngộ,” người ta mới vận động phương tiện (ngân sách) cho các ưu tiên mới đã bị lãng quên quá lâu...

Một thí dụ liên quan đến hồ sơ lần này là cuộc tranh luận về ngân sách quốc phòng để trang bị cho hải quân. Hoa Kỳ cần phải có 600 chiến hạm như dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan, chứ chỉ có 284 đơn vị như hiện nay thì không đủ, nhất là khi cần bố trí 60% lực lượng hải quân tại Thái Bình dương. Một thí dụ khác là từ năm 2000, so với Mỹ thì Hải Quân Trung Quốc đã thiết kế tầu ngầm nhiều gấp bốn lần, và qua năm 2005 thì tỷ lệ này lên gấp tám. Trong khi ấy, Hải Quân Mỹ mất dần khả năng tấn công tiềm thủy đĩnh và sẽ thua sút Trung Quốc. Một thí dụ cũng thời sự là lời báo động về cuộc thi đua võ trang do Trung Quốc đề xướng trong khi cả nước Mỹ lên cơn sốt về nhu cầu tiết giảm công chi và phải cắt bớt quân phí.

Trong cuộc thao dợt RIMPAC kỳ này, chắc chắn là truyền thông được nhắc nhở về tình trạng sa sút đó của Hoa Kỳ. Hoặc về sức mạnh của các tiềm thủy đĩnh Trung Quốc, ngày càng chìm sâu và lâu hơn, di động âm thầm hơn nên khó bị phát giác, với những ám khí hiện đại hơn. Song song, Hoa Kỳ cũng phải quan niệm lại chiến lược phòng thủ tích cực của mình qua sự hợp tác với các đồng minh tại Ðông Nam Á. Người ta nói đến khái niệm “trục bánh và nan hoa” (hub and poke) theo đó, Hoa Kỳ là trục bánh xe nằm ở giữa, chung quanh là những chiếc nan hoa nối kết với các đồng minh ở ngoài biển Ðông.
Các đề tài ấy rất hấp dẫn cho truyền thông báo chí và tất nhiên là được Trung Quốc mở ăng ten theo dõi rất sát để thẩm định tương quan lực lượng giữa hai bên.

Kết luận ở đây?

 Bắc Kinh có thể thấy mình đang có cơ hội nhấn tới. Khi nước Mỹ còn lúng túng bên trong về chuyện chi thu đến độ hụt hơi về quốc phòng thì đấy là lúc Trung Quốc phải nắm lấy thời cơ và đầu tư rất mạnh vào hệ thống gián chỉ của mình dưới đáy biển.

Nhưng chúng ta nghĩ sao nếu Hoa Kỳ cũng mong muốn điều ấy?
Gần một phần tư thế kỷ trước, dưới thời Tổng Thống Jimmy Carter, dân Mỹ cũng than vãn về kinh tế suy sụp và tâm lý bất an (malaise) của Hoa Kỳ và báo động về sự lớn mạnh của Liên Bang Xô Viết. Sau đó cuộc thi đua khiến Liên Xô sụp đổ - một cách bất ngờ như nhiều người đã bình luận!

Hùng Tâm

Wednesday, June 27, 2012

HSTS

Hoàng Sa ơi !

Hoàng Sa ơi! Đảo Hoàng Sa ơi!
Một mảnh giang sơn đã mất rồi
Ta như mất cả phần da thịt
Tổ Quốc còn đau một góc trời

Vẫn nhớ Hoàng Sa! Ôi Hoàng Sa!
Trận chiến năm xưa máu lệ nhoà
Sao không giăng trận cầu phao cũ
Chôn xác quân thù, trận Đống Đa

Hoàng Sa! Hoàng Sa! Ta vẫn đau
Biển như còn đỏ máu loang mầu
Máu ai thấm giữa lòng hải đảo
Xương trắng ai chìm giữa biển sâu?

Hoàng Sa! Hoàng Sa! Đã mấy trăng?
Sao không là sóng dậy Bạch Đằng!
Sao không báu kiếm, lời Sát Đát!
Sao sóng muôn trùng không thét vang?

Một mảnh cơ đồ giữa biển khơi
Ta con chim lạc cuối chân trời
Còn mơ Vạn Kiếp chôn thây giặc
Hoàng Sa đâu rồi, Hoàng Sa ơi

Hoàng Sa dưới bóng cờ Bắc phương
Giang sơn oan uất giữa bạo cường
Sóng nước ầm vang lời tủi hận
Hào kiệt đâu rồi? Hay khói sương

Huyền sử oai hùng, hay bãi hoang?
Hoàng Sa từng lớp sóng oai hùng
Hồn oan tử sĩ Nam quân vẫn
Theo dấu quân thù, theo dấu trăng!

Tổ Quốc còn đau mỗi mùa xuân
Âm ba hải chiến dậy sóng hờn
Xung phong! Hải kích bên bờ nước
Từng rặng san hô loang máu vương.

Hoàng Sa! Hoàng Sa! Mảnh trăng rơi
Một mảnh giang sơn, một mảnh đời
Một mái tóc xanh sầu điểm bạc
Tổ Quốc kêu gào! Hoàng Sa ơi!


Quốc Trần
@facebook/QT  -  xuanvn  -   danoan  -  rfa nhatkyyeunuoc

US illegal immigrations


Lại Chuyện Di Dân

Theo dõi tin tức báo chí và dư luận Hoa Kỳ chúng ta thấy nhiều người bị lẫn lộn giữa hai danh từ di dân và di dân bất hợp pháp. Cái việc gây nhức nhối cho chính quyền và gây khó chịu cho dân chúng là cái chữ bất hợp pháp tức là thiếu giấy tờ cư trú hợp lệ. Do đó, khi nói ngắn gọn "di dân" người ta ám chỉ bất hợp pháp.

Chính quyền bị nhức nhối là vì đây là một vấn đề đã có từ lâu, không rõ ràng được phân biệt như trắng với đen, và các tiểu bang có đông dân chúng thuộc thành phần di dân này cư ngụ đã phải tốn kém rất nhiều tiền bạc và công sức, đã gặp phải rất nhiều trở ngại và đã tỏ ra lúng túng, hầu như bất lực trong việc giải quyết rốt ráo vấn đề này. Hành động thế nào đi nữa kết quả sẽ là làm vừa lòng phe này và mất lòng phe kia. Hoặc là mỗi phe chỉ hài lòng một phần hay một nửa. Cái khó khăn này càng gia tăng khi mùa bầu cử càng tới gần. Chính phủ cần lá phiếu của cử tri để tiếp tục cầm quyền. Cử tri là những công dân có quyền đi bầu, quyết định vận mạng của nhà lãnh đạo. Cử tri lại có liên hệ chủng tộc, họ hàng với di dân bất hợp pháp cho nên quyết định bầu bán của họ không thuần pháp lý mà bị ảnh hưởng bởi cảm tính. Nếu không khéo léo giải quyết; có khi bị xem là mỵ dân, nhà lãnh đạo liên bang lẫn tiểu bang dễ bị mất ghế như chơi.

Người dân thì bực bội bởi vì họ thấy chính phủ liên bang không giải quyết được vấn đề một cách dứt khoát. Kết quả dân chúng tiểu bang phải gánh chịu một phần các chi phí giáo dục, y tế, nhà tù v.v...dưới hình thức thuế khoá do hậu quả của việc di dân bất hợp pháp mang lại.

Nếu ngồi chờ liên bang; hành pháp lẫn lập pháp, hành động thì không biết phải chờ đến bao giờ. Trong chương trình vận động tranh cử tổng thống của ông Obama năm 2008, ông ấy hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề di dân, nhưng có lẽ vấn đề này phải đến nhiệm kỳ tới của tổng thống may ra mới được đem ra bàn thảo và thông qua. Lòng dân phẫn uất, chi phí ngày càng tăng, không thể ngồi chờ mãi được. Thế là tiểu bang Arizona đã đi tiên phong. Quốc hội tiểu bang đã thông qua dự luật SB 1070 và nữ thống đốc Jan Brewer đã ký ban hành luật di dân vào năm 2010. Theo luật này, cơ quan công lực địa phương khi chận một người nào đó bị nghi ngờ có hành vi bất hợp pháp ngoài công lộ có quyền xét hỏi giấy tờ cư trú của người ấy. Ngoài ra, luật này bắt buộc tất cả người di cư phải mang theo giấy tờ hợp lệ trong người, và người cư trú bất hợp pháp đi tìm việc hay có làm việc bị xem là phạm luật, và cảnh sát được quyền bắt giữ cư dân bất hơp lệ mà không cần tới trát tòa. Dĩ nhiên luật này chỉ có hiệu lực trong phạm vi của Arizona mà thôi. Tuy nhiên, năm tiểu bang khác cũng đã hành động giống như thế, gồm có: Alabama, Georgia, Indiana, South Carolina và Utah. Cứ cái đà này các nơi khác sẽ làm mô phỏng theo.

Luật SB 1070 đã bị chính phủ liên bang phản đối. Một phần các nhà lãnh đạo các tiểu bang và thành phố địa phương khác và nhiều người dân cũng đã chống đối luật này. Cái lý do đưa ra là luật này vi phạm quyền tự do cá nhân của những công dân và những người cư trú hợp pháp vì từ nay mỗi khi ra đường họ phải luôn mang theo trong người giấy tờ hợp để đề phòng sự xét hỏi giấy tờ của cảnh sát, một việc mà dân chúng xưa nay không quen làm, Và luật này sẽ dẫn đến sự lạm dụng của nhân viên công lực. Trên nguyên tắc, cảnh sát thành phố hay county chỉ có thể xét hỏi giấy tờ của người dân khi họ vi phạm luật lệ giao thông. Xét định tình trạng di trú nằm trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan di trú liên bang, nhưng với việc thi hành luật này, tình trạng có thể xảy ra là cảnh sát sẽ chận xét bất cứ một ông bà nào mà bề ngoài có dáng dấp thiểu số dù rằng họ chẳng có hành động phạm pháp rõ rệt nào. Như thế dân chúng sẽ bị sống trong hoang mang, sợ hãi, ngại đi ra ngoài đường vì ngán gặp phải cái cảnh xét hỏi giấy tờ lôi thôi. Đó là chưa muốn nói có những nhân viên công lực mà đầu óc đầy sự kỳ thị chủng tộc sẽ lợi dụng dịp này bắt bớ bừa bãi, từ đó có thể dẫn đến các hành vi hối lộ hay bạo hành khác. Xã hội vì thế sẽ gặp ít nhiều xáo trộn không cần thiết và không phản ảnh một nước Hoa Kỳ tranh đấu cho tự do, sống vì tự do và sống cho tự do mà thế giới hằng biết đến và ngưỡng mộ bấy lâu nay.

Luật SB 1070 bị quan tòa liên bang không cho thi hành. Cuối cùng nội vụ đã phải đưa lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ để có một phán quyết tối hậu. Vào cuối tháng 6 này, khoá làm việc của TCPV sẽ tạm kết thúc như thông lệ để các quý vị thẩm phán đi nghỉ hè, nghỉ ngơi. Chính vì thế trong tuần này; tuần lễ cuối trong tháng, pháp đình sẽ có một số phán quyết quan trọng ảnh hưởng kết quả của kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11 sắp tới, trong đó có vấn đề di dân và cải tổ y tế.

Vào Thứ Hai, 25/6, TCPV đã xét về đạo luật SB 1070 với kết quả như sau:

-Tất cả các Thẩm phán đã nhất trí trong phán quyết chấp thuận điều khoản gây nhiều tranh cãi nhất, đó là, đòi hỏi cảnh sát xét hỏi tình trạng di trú của những người nào bị chận lại vì những lý do khác. Tuy nhiên, Tòa giới hạn hậu quả của hành động này. Nếu đương sự trong cuộc bị bắt giữ, đó là do hậu quả của hành vi bất hợp pháp, chứ không phải do từ việc cư trú bất hợp lệ. Nếu người ấy không phạm pháp mà chỉ cư trú không giấy tờ hợp lệ mà thôi, cảnh sát không được quyền giữ họ quá lâu. Như thế nào là quá lâu, Tòa không giải thích. Thế là từ vấn đề này nảy sinh một vấn đề khác. Trong tương lai sẽ có những vụ tranh tụng liên quan đến thời gian và hậu quả của việc giam giữ bị xem là quá lâu.

- Ba điều khoản chính khác bị các Thẩm phán đánh đổ với một tỉ lê không đồng đều:

Bắt buộc tất cả các người di dân phải xin và mang theo trong người giấy tờ cư trú hợp lệ, với tỉ lệ 6-2.

Người di dân sẽ phạm tội hình tiểu bang nếu tìm kiếm hay giữ một việc làm, với tỉ lệ 5-3.

Cho phép cảnh sát đươc bắt giữ cư dân bất hợp lệ mà không cần đến trát tòa, với tỉ lệ 5-3.

Nữ Thẩm phán Elena Kagan không tham dự trong vụ xử này vì bà đã từng làm việc cho chính quyền Obama.

Các Thẩm phán đã chia thành hai nhóm. Nhóm chống luật này gồm có Chánh Thẩm phán John Roberts, các Thẩm phán Stephen Breyer, Ruth Bader Ginsburg, Sonia Sotomayor và đại diện nhóm Anthony Kennedy. Nhóm thiên về luật này, gồm có Thẩm phán Antonin Scalia và Clarence Thomas cho phép thi hành toàn thể luật này, Thẩm phán Samuel Alito cho phép cảnh sát bắt giữ di dân đi làm mà thiếu giấy tờ và bắt giữ không cần lệnh tòa.

Chính phủ liên bang cho luật Arizona là vi phạm vào đời tư cá nhân, lấn vào lãnh vực của liên bang và như thế là bất hợp hiến.

Với phán quyết của TCPV lần này, tình hình di dân vẫn chưa ngã ngũ. Nếu hành pháp liên bang và tiểu bang bấy lâu nay chờ đợi một phán quyết rõ ràng của TCPV để dựa vào đó mà chấp hành thì kể như không có. Tình trạng chẳng khác trước khi luật SB 1070 được thông qua là bao nhiêu. Đây là một vấn đề phức tạp, liên hệ nhiều đến cảm tính, nếu chỉ dựa hoàn toàn vào pháp lý sẽ chẳng có chính quyền hay tòa án nào làm được, nhất là trên bình diện liên bang.

Quốc Hội California vào năm 2011 đã thông qua đạo luật California Dream Act cho phép những di dân trẻ tuổi được cha mẹ đưa sang đây bất hợp lệ vào lúc còn quá bé được xin trợ cấp học bổng của trường công cũng như trường tư.

Trong tháng 6 này chính phủ Obama đã đưa ra một sắc lệnh hành pháp theo đó chính phủ sẽ ngưng lại tất cả các vụ trục xuất những cư dân bất hợp pháp vị thành niên và cho phép họ đươc xin giấy phép đi làm. Mà đã là sắc lệnh thì hiệu lực của nó chỉ kéo dài trong thời gian ông Tổng thống còn tại chức, người kế nhiệm không bị ràng buộc bởi cái quyết định này.

Để giải quyết rốt ráo vấn đề, một đạo luật di trú liên bang cần phải được thông qua trong tương lai. Một tình trạng khó xử và lẩn quẩn. Nó pha lẫn tình cảm lẫn pháp lý. Người dân dựa nhiều vào tình cảm. Tòa án dựa vào luật pháp. Xử thuần túy theo lý trí và pháp lý không khó, nhưng thẩm phán cũng là con người với đầy đủ lý trí và tình cảm. Và do đó họ có cân nhắc, đo lường hậu quả của quyết định quan trọng đối với đời sống của hàng triệu người cũng như hai ngành lập pháp và hành pháp kia. Chính quyền do dân và từ dân mà ra, cứ mỗi 4 năm phải bầu lại, không theo ý cử tri thì nguy to. Được lòng nhóm này, lại mất lòng nhóm khác. Cho dù có một luật di trú liên bang đi nữa, cũng chẳng có gì bảo đảm là nó không bị một phe khiếu tố ra toà hay kháng án lên tòa trên để rồi cuối cùng lên đến TCPV, rơi vào cái vòng lẩn quẩn của luật SB 1070 hiện nay.

Còn nhớ Luật Cải Tổ Y Tế được ban hành sau bao nhiêu tốn kém, công lao bàn cãi của lưỡng viện Quốc Hội, ấy thế mà nó cũng nằm chờ phán quyết của TCPV. Một phần của luật này đã và đang được thi hành. Một số điều khoản khác sẽ có hiệu lực vào 2 năm tới, đặc biệt là điều luật bắt buộc mọi người phải mua bảo hiểm y tế, nếu không sẽ bị phạt tiền. Vào Thứ Năm tuần này, ngày 28/6, TCPV sẽ trình làng phán quyết liên quan đến Luật Y Tế. Dựa vào kinh nghiệm lần này và dựa vào sự bàn cãi của các Thẩm phán trong thời gian trước đây, chúng ta có thể tiên đoán rằng Luật Y Tế sẽ được TCPV chấp thuận hầu hết, ngoại trừ điều khoản vi phạm tự do cá nhân của công dân, đó là bắt buộc mọi người phải mua bảo hiểm nếu không sẽ bị phạt. Các Thẩm phán dĩ nhiên sẽ cân nhắc kỹ lưỡng hoàn cảnh đất nước và ý nguyện của người dân, làm thế nào để tránh gây thêm hay giảm thiểu sự hỗn loạn của xã hội, vì dẫu sao họ cũng phải có trách nhiệm trong quyết định tối hậu chi phối toàn thể quốc gia. Các điều khoản của luật nhằm ngăn cấm các công ty bảo hiểm không được từ chối bán bảo hiểm cho các khách hàng có mầm mống bệnh tật từ trước và các trẻ em đang sống chung với cha mẹ tiếp tục được hưởng chung bảo hiểm y tế với cha mẹ của họ cho đến năm 26 tuổi đã và đang được thi hành rồi và không có trở ngại gì, vì thế sẽ được giữ nguyên, không thay đổi.

Vì hiện nay là mùa bầu cử cho nên các ứng cử viên cần phải cho cử tri thấy sự khác biêt trong lập trường tranh cử của họ. Thời gian ông Mitt Romney còn là Thống đốc của Massachusetts trước đây, ông ấy là vị Thống đốc duy nhất tại Hoa Kỳ ký ban hành Luật Cải Tổ Y Tế của Massachusetts và được dân chúng tiểu bang hoan nghênh. Luật Y Tế liên bang lần này trên căn bản thì cũng giống luật của Massachusetts các năm trước nhưng ông Romney bảo rằng nếu ông ấy đắc cử Tổng thống vào tháng 11 năm nay, ông sẽ làm mọi cách để hủy bỏ luật y tế của ông Obama. Giản dị là vì nếu không nói thế thì cử tri không thấy sự khác biệt giữa Cộng Hòa và Dân Chủ, và nếu kinh tế và công ăn việc làm không quan trọng đến độ ảnh hưởng mạnh đến quyết định chọn lựa ứng viên của họ, thì việc gì dân chúng lại phải đi bầu cho người của đảng đối lập? Khi chính trị chi phối tình hình thì người dân khó mà phân biệt được đâu là lời nói đáng tin cậy và đâu là thực tâm của ứng cử viên, trừ phi họ phải thật là tinh tế suy xét. Chính vì muốn được thoải mái mà nhiều người đã chọn đứng "Độc Lập" thay vì làm cử tri Cộng Hòa hay Dân Chủ.

"Người ta không thể và cũng đừng cố công tẩy xóa dĩ vãng chỉ vì là nó không thích hợp với hiện tại." (One cannot and must not try to erase the past merely because it does not fit the present. - Golda Meir)

"Một người vĩ đại là người để lại cho người khác một sự mất mát sau khi họ ra đi."
(A great man is one who leaves others at a loss after he is gone. - Paul Valery)

Nguyễn Văn Huy
June.25/2012

QL/VN

Sao Hôm – Sao Mai

Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng Tây Nam. Trong hai ngày 14 & 15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82 /BĐQ/QLVNCH bị hai Trung đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 tháng Tư 1974 Cộng Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”. Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như một cơn dông mùa hè.

Rồi, tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của mình để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình. Tôi biết rõ Sư đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẫu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320/Điện-Biên, đã cảnh giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu”. Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.

Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng Nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó…” điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng Bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi. Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng Nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy Bình, thì từ biên giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ Lớn bị tử thương. Rồi tình hình lại yên…

Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng Bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu đoàn 82/ Biệt động Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/ Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng Bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đã gặp Đại tá Nguyễn hữu Thông (k16VB) trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.

Niên trưởng Thông hỏi:
- Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị:
- Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về Bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại tá Thông đồng ý ngay:
- Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…

Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách cơ Bình (TĐ Phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82. Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thầy trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.

Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngã ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn chì của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm Vương đã gọi. Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu… Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi:

- Thiếu tá! Có tiếng xe!
- Tao có nghe gì đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi:
- Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu:
- Dạ không. Em không nghe gì cả!…
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu:
- Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…

Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng Tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc. Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh:
- Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!

Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ… Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!…ì…ì…ì. ..Ỉm!…” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”.

Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm:
- Đồ phá thối!

Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn Bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.

- Tôi là người quen của Trung tá Danh… bà chủ xe be khoe với tôi.
- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng Sản à?
- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
- A ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.
Ngày kế tiếp…

Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên. “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc! …ụt! ụt! ụt!…” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng Tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.
“K’rọc! …K’rọc! …”
“Hừm! …Hừm!…”
Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá! Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng. Tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” -”Hừm!… Hừm!…” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa. “K’rọc!… K’rọc!…” -”Hừm!… Hừm!…” Trong nắng xế tà, một người đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!… Hừm!…” Còn tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o.. .” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám gãi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.

Chợt rừng chiều xào xạc… “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc!… ụt! ụt! ụt!…” Hướng Tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn rã, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, “Lộp cộp!… Lộp cộp!… Lộp cộp!…” Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.
“Lộp cộp!… Lộp cộp!… Lộp cộp!…” một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc giòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai. Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc, “K’rạch!”. Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mìn không nổ! Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời. “Hí!… Hí!… Hí!… í!.. .í!… í!…” Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí. Một cái bóng đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường. “Oành!” quả Claymore của Hạ sĩ Ba nổ! ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá gãy. Tiếp đó, “Rẹt! Rẹt! Rẹt!…” bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất. Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe be, miệng phì phì sùi bọt.

Tôi và Trung sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong vòng bán kính một trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích của chủ nó. Đại đội 3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt đang hoạt động vùng Tây Bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng Bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.
Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng Bắc con đường, chúng tôi tìm được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã thoát thân thẳng về hướng Bắc. Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến dòng điện bị ngắt, trái mìn câm. Chú Chi càm ràm:
- Chắc thằng “cội” này có bùa!…
Ít lâu sau…

Trung đoàn 42/SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về Bình Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82/BĐQ được thu hẹp lại về hướng Nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81/BĐQ. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân đã đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 81/BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngã ba làng Xổm.
Trưa 27 tháng Bảy 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung đoàn 64/SĐ320 CSBV hướng Bắc, Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV hướng Nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đã được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt Cộng đã chặt đầu Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81/BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đã bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TĐ81/BĐQ là Thiếu tá Trần văn Ngọc (k18 VB).

Trong khi đó, tại mặt trận phía Nam, Trung đoàn 48/SĐ320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 tháng Bảy 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở đường của TĐ82/BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dã ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82/BĐQ đã khiến Trung đoàn 48/SĐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.

Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung đoàn 48/SĐ320 đến Trung đoàn 64/SĐ320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ Plei-Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hãm Plei-Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đã chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây-Nguyên, Tiểu đoàn 82/Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung đoàn 48/SĐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.

Tới đầu năm 1975, Trung đoàn 48/Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột. Lúc đó Tiểu đoàn 82/BĐQ đã chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng Đức. Vì thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ320/Điện Biên CSBV không còn dịp nào chạm mặt nhau nữa…
o O o
Sàigòn, ngày 7/5/1975,
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2, Sàigòn. Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa chỉ. Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi:

- Phải nhà này có Vương Mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để tìm kiếm vợ con tôi.
- Phải! Các ông cần gì?
- Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời:
- Tôi đây!
- A! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?
- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói:
- Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?
- Vâng, mời ông vào nhà.
Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời:
- Anh Long có nhận ra tôi không?
- Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp ông lúc nào.
- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
- A…
- Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?
- Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của mình không có ý tầm thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại. Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng-Trị, ở Tây-Nguyên.
Ông khách thao thao:
- Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy hòa bình…
Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “Diplôme” thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn 320/ Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường Bình-Định, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đã thua tôi (TĐ82/BĐQ).
Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7 & 8 năm 1974) ông ta la lớn:
- Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!
Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nhìn tôi, tán dương:
- Lì thật! Tớ khen cậu đó!
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu. Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã ba lần, ông ta thắc mắc:
- Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, lì lợm như thế?
Tôi chỉ trả lời thật gọn:
- Vì chữ hiếu!
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.
Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về. Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm:
- Tôi còn ở Sàigòn ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.
- Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng Sản cất bước, tôi cố với theo:
- Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông. Thế là hòa. Còn trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
- Anh nói đúng. Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng. Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.

Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải. Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn. Từ tháng giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lý Ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (k19VB) và Lê văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín. Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành phố để hỏi hồ sơ của mình thì được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc Không-Quân đã giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Phòng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.
Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một vòng quanh Sàigòn, gặp người quen, xin viện trợ. Trung tá Bùi văn Huấn, cựu liên đoàn trưởng Liên đoàn 22/Biệt Động Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ văn Ích, một người anh con dì con già của tôi cũng giúp tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.
o O o
Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay ngoắc:
- Tìm nhà trọ phải không?
- Phải…
- Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
- Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn…
Tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn:
- Bên kia đường… theo tôi…
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá,
- Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:
- Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U”. Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ…

- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? Ông chủ nhà gợi chuyện.
- Hải-Dương
- Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
- Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…
- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?
- Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
- Có thường ghé Sàigòn không?
- Chuyến nào mà chẳng ghé…
- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
- Vâng, đông lắm, vui lắm… vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
- Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
- Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hiu…
- Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
- Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau… chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn…
- Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
- Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng… học sinh nghe theo răm rắp…
- Rồi sau đó…
- Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
- Tìm cái gì đấy hở?…
- Phố Hàng Bài…
- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười khì khì:
- Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:
- Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
- Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài:
- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…

Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô-Lan-Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở đầu sông, em cuối sông…” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng…leng keng…” làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi…

- Chè đỗ đen đi chú em…
- Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:
- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt mình, “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:
- Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
- Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức đánh… xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở:
- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…
- Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá..
- Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu… Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó đuổi mình ra, nó ăn cả, đồ chó má!
Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích:
- Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp quá!
Người phu xe già thở dài:
- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như… một vì sao rụng.
Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi:
- Xích lô! Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:
- Mai tôi giả tiền nhá! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
- Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…

Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.

Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ. Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ ví như… một vì sao rụng”
Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tròn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác hơn chúng em…”
Bố bịt mồm tôi lại:
- Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay… Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay. Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đã giết bố tôi…
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt:
- Bố ơi! Bố ơi!… Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!…
Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàigòn. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.
Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập lòe. Quán hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay”.

Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…

Vương Mộng Long