Tuesday, September 6, 2011

Báo chí VN


Kể chuyện làng báo Sài gòn 35 năm về trước


Cố văn sĩ Bình Nguyên Lộc có nói: «Trong làng báo có ba cây viết vừa nhà báo, vừa nhà binh cùng mang tật nói lắp. Đó là Nguyễn Bính Thinh, Nguyễn Đạt Thịnh và Nguyễn Ang Ca, cả ba đều cà lăm khi gặp phải chuyện xúc động hoặc trước... phụ nữ đẹp »(Hình: Nguyễn Ang Ca (1989)

Quả thật An Khê và tôi có lắm sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cùng họ Nguyễn và bút hiệu bắt đầu bằng chữ An, tuy chữ Ang của tôi có G, nhưng phần lớn khi biên thư, các bạn hay gọi tôi là An Ca. Anh An Khê và tôi cùng giống nhau giấy căn cước: sanh tại làng Tân Hưng, tỉnh Sa Đéc. Khi chánh thức lãnh lương nhà báo, mang danh xưng ký giả chuyên nghiệp trùng một năm:1950. Tôi và anh An Khê có một người anh chung trong nghề nghiệp, một «nghĩa huynh» mà chúng tôi kính yêu như cùng chung huyết thống: anh Bình Nguyên Lộc. Chưa hết, anh An Khê và tôi cưới vợ một lượt năm 1950.

Anh An Khê tên thật là Nguyễn Bính Thinh, con trai của cố bác sĩ Nguyễn Bính (không phải là nhà thơ Nguyễn Bính), gốc người Trà Vinh. Bác sĩ Nguyễn Bính là vị y sĩ Đông Dương xuất thân khóa đầu tiên ở trường Thuốc Hà Nội. Khi còn đi học, bác sĩ Nguyễn Bính làm thơ Đường và viết sách lấy biệt hiệu là Biến Ngũ Nhy.

Ông bà bác sĩ Nguyễn Bính (bà vốn là cô đỡ ở nhà thương Phủ Doãn, Hà nội) có tất cả 11 người con (4 trai, 7 gái). Trong số anh trai của An Khê có người anh thứ tư là dược sĩ kiêm tiến sĩ khoa học, ông Nguyễn Bính Tiên, từng có nhà thuốc tên Pharmacie Tiên ở đường Bonard (sau nầy là Lê Lợi) ngang bịnh viện Saigon. Xuất thân từ báo Đọc ThấyĐời Mới của cụ Trần Văn Ân, viết hai loại truyện dã sử (ký tên Cửu Lang) và tình cảm (ký Vân Nga). Có một thời, độc giả rất say mê theo dõi loạt truyện dã sử của Cửu Lang như Xương máu Phiên Ngung, Người anh hùng mặt sắt (Mai thúc Loan), Đoàn quân ma (Trần Quốc Toản), Ngai vàng sụp đổ. Còn loại truyện tình cảm của Vân Nga như: Ánh sáng đô thành, Cây kiếng vàng…rất được nữ độc giả hoan nghinh.

Khi giã từ anh Huỳnh Hoài Lạc (gốc người Long Xuyên), chủ nhiệm báo Thời Cuộc (thay cố chủ nhiệm Đinh Xuân Tiếu bị ám sát chết một lượt với ký giả Nam Quốc Cang), tôi sang đầu quân cho nhựt báo Tiếng Chuông của ông Đinh Văn Khai, cũng gốc người Long Xuyên.

Còn anh An Khê thì chia tay với cụ Trần Văn Ân (gốc người Thốt Nốt, Long Xuyên) sang giúp cho báo Dân Đen của ký giả Nguyễn Duy Hinh. Thời kỳ 1950-60, ký giả Nguyễn Duy Hinh có biệt tài viết phóng sự điều tra, rất sôi nổi, anh Hinh lại có tài «quậy», tạo nên nhiều tin giựt gân, hấp dẫn độc giả.

Ngoài ra, anh An Khê còn lãnh viết feuilleton cho báo Buổi Sáng của Tam Mộc Mai Lan Quế và báo Công Nhân của ký giả Trần Tấn Quốc (chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Trần Quốc Bửu cho mượn manchette). Vào thời nầy, anh chị Đinh Văn Khai rất phiền Nguyễn duy Hinh vì đang cộng tác và được ưu đãi ở nhựt báo Tiếng Chuông, anh Hinh tách ra lập báo Dân Đen và đăng một loạt bài công kích anh Đinh Văn Khai một cách kịch liệt.

Anh chị chủ nhiệm báo Tiếng Chuông cũng rất buồn anh Tam Mộc, bởi anh chủ nhiệm báo Buổi Sáng, ở phụ tranh hài hước, với bút hiệu Tám Móc hay phụ họa theo anh Nguyễn Duy Hinh để soi mói đời tư của anh chị Đinh Văn Khai. Lúc đó, người em thúc bá với Tam Mộc là tướng Mai Hữu Xuân có nhiều quyền uy, nên tuy tức tối, anh chi Khai chẳng dám có phản ứng gì!

Trong lúc An Khê có đất dụng võ ở ba tờ báo lớn, anh suýt chút nữa lại làm bể nồi cơm của một phóng viên. Số là ngoài bút hiệu Vân Nga, tên con gái đầu lòng, truyện tình cảm của An Khê viết cho Buổi Sáng, anh còn ký tên vợ là Trương Thanh Vân.

Ở tòa soạn báo Tiếng Chuông có phóng viên kiêm nhiếp ảnh viên Quốc Phượng (có khuôn mặt và nụ cười rất giống với tôi, nên tại tòa soạn báo Tiếng Chuông thường xảy ra lắm chuyện nực cười khi nữ độc giả đi tìm tên thiệt của Trương Thanh Vân). Thường chủ báo buộc cộng tác viên không được viết cho báo khác (ngoại trừ tiểu thuyết gia viết feuilleton và thông tín viên ăn tiền từng bản tin), huống chi báo Tiếng Chuông đang căng thẳng với báo Buổi Sáng, nên anh chị Đinh Văn Khai cằn nhằn Quốc Phượng» ăn cây nào sao không rào cây đó» lại nỡ «ăn cơm tôi mà lại tiếp tay kẻ khác để hại tôi».

Quốc Phượng thề bán mạng là tên Trương Thanh Vân trên báo Buổi Sáng không phải của anh, nhưng chủ nhiệm báo Tiếng Chuông nhứt định không tin, cho người móc nối với thợ sắp chữ Buổi Sáng đem bản thảo của Trương Thanh Vân về coi, nhưng vì bản thảo đánh máy nên oan tình của Quốc Phượng vẫn không giải tỏa, có miệng mà chẳng thể kêu oan, mà có kêu nào ai tin!

Một hôm Quốc Phượng nhờ An Khê chở đi sân Cộng Hòa xem đá banh, vì chiếc xe Lambretta của Quốc Phượng bị hỏng máy. Nhìn cái plaque ở xe mô tô của An Khê có mang tên chủ xe là Trương Thanh Vân, hỏi rõ, Quốc Phượng la lên :

- Trời ơi, ông báo hại tôi bị nghi oan, suýt bể nồi cơm đây, ông nội ơi!

Rồi thay vì nhờ An Khê đưa vào sân Cộng Hòa, Quốc Phượng kêu An Khê chở về đường Gia Long, đến tòa soạn Tiếng Chuông để làm sáng tỏ nỗi oan…Thị Kính.

Sau nầy, khi có dịp tâm sự với tôi, Quốc Phượng kể lúc ông bà Đinh Văn Khai giận, nếu không có sự can thiệp của họa sĩ Phạm Thăng và ký giả Phong Đạm (cũng như các anh Huyền Vũ, Lê Tân, Phong Đạm người gốc Phan Thiết, chuyên phụ trách trang trong. Nhỏ con mà kết duyên một lượt với hai chị em, sản xuất trên chục con…) thì QP đã bị tống ra khỏi báo Tiếng Chuông rồi !

Chỉ trong khoảng thời gian từ 1958-1972, An Khê đã viết trên 200 loạt truyện đủ cỡ, đủ loại, và có lúc, anh dám lãnh viết feuilleton một ngày cho…13 tờ báo. Nhiều anh em trong làng thấy mỗi ngày, anh và con gái anh thay nhau chạy giao bài cho các báo, có lúc phải đưa thẳng bản thảo cho nhà in, vì ấn công đang ngóng cổ đợi bài, anh em đã gọi đùa An Khê là phụng hoàng Lê Thành Các, cua rơ đại tài của làng xe đạp đã tạo nhiều kỷ lục phi thường trên lộ trình có nhiều đèo cao dốc cả!

Mà quả thật, trong làng văn làng báo từ xưa đến lúc đó, chưa ai viết nhanh, viết khỏe như An Khê, và trong cuộc đời sở trường viết feuilleton của An Khê, có lắm giai đoạn thật ly kỳ đặc biệt mà anh em chúng tôi còn nhớ kỹ.

Hại anh Trần Tấn Quốc gần nổi khùng

Viết truyện trinh thám, gián điệp, sau Phú Đức Nguyễn Đức Nhuận (Châu về hiệp phố), Viên Hoành, Nam Đình…nhưng trước Phi Long (Bàn tay máu), Bùi Anh Tuấn (Z28) rất lâu; anh An Khê dành bút hiệu Nguyễn Bính Long (tên một người anh đã qua đời) viết một loạt truyện điệp báo, mật vụ, phản gián (X30 trong lưới nhện)

Sau 1975, Cộng Sản có cho phát hành một cuốn truyện trinh thám và chúng đã mượn tên X30 của Nguyễn Bính Long. Đó là quyển X30 phá lưới có nhắc lại thời kỳ ông Thiệu khi còn là trung úy, tùng sự ở Huế. Quyển truyện nầy nghe đâu do nhà văn Nguyễn Minh Lang ở Hà Nội viết, nhưng về sau lại có hai người khác giành quyền tác giả với Nguyễn Minh Lang.

Sau đây tôi nhắc lại chuyện anh An Khê đáp lời mời của ký giả Trần Tấn Quốc viết truyện Rừng Sát hấp hối cho báo Công Nhân. Lúc đó là trào chánh phủ Ngô Đình Diệm, cụ Ngô mới dẹp xong Bình Xuyên, đang xúc tiến tổ chức quốc hội lần 2. An Khê về Rạch Giá ứng cử dân biểu, nhưng bị ăn gian nên lọt sổ. Vì kẹt ở Phú Quốc nên phải viết bài gởi về qua « Air VN » cho nhà báo. Thay vì đề Trần Tấn Quốc, chủ nhiệm nhật báo Công Nhân, 216 Gia Long Saigon, An Khê lại viết chình ình ngoài phong bì: Rừng Sát hấp hối, rồi địa chỉ nhà báo. Có lẽ An Khê nghĩ rằng đề phong bì như vậy, anh chủ nhiệm khi được thơ khỏi phải mở ra coi mà đưa thẳng cho ấn công để tranh thủ thời gian không bị trể bài.

Bấy giờ Bộ Thông Tin uy quyền rất rộng lớn, chế độ kiểm duyệt báo chí khắt khe, ngoài giám đốc báo chí trực thuộc Bộ Thông Tin, anh em làng báo còn bị đè nặng do áp lực của cơ quan Mật vụ. Cơ quan nầy cũng có văn phòng đặc trách báo chí mà các ông chủ báo rất ngán hai ông Thái Đen, Thái Trắng còn hơn thợ săn đêm ngán gặp cọp.

Tại Tổng Nha Bưu Điện, nhân viên soạn thơ, kiểm duyệt thơ thấy có một phong bì dầy cộm có đề chữ Rừng Sát hấp hối, sợ hỏa tam tinh nên báo cáo lên trưởng phòng. Ông nầy ớn da gà không dám mở ra xem mới trình lên chánh sự vụ, ông nầy cũng phát hoảng hớt ha hớt hải đi trình ông phó giám đốc. Ông Phó đưa phong bì cho ông giám đốc xem.

Trong lúc đó, ở tòa soạn, anh Trần Tấn Quốc ngóng đợi bài của anh An Khê, vì anh em ấn công thúc hối, đang sốt ruột cả mấy bữa thì được thư mời khẩn lên gặp Giám đốc Bưu Điện Saigon. Đến chừng anh Quốc gặp ông giám đốc Nhà Dây Thép, thư được mở ra, mới biết đó là truyện dài của An Khê. Lòng vòng cả tuần lễ và dĩ nhiên anh chủ nhiệm báo Công Nhân phải thay chuyện Rừng Sát hấp hối bằng một chuyện khác.

Trong làng báo lúc bấy giờ, anh Trần Tấn Quốc nổi tiếng có tay nghề cứng, lại vô cùng tôn trọng độc giả mà phải để bài đăng dang dở, lại thêm phải mất công mặc đồ lớn đi gặp chánh quyền khi đang bù đầu «mise » tờ báo, khiến anh Quốc gần phát khùng, nổi sùng An Khê luôn!

Thoạt đầu, Nguyễn Bính Thinh rất bất mãn anh Bình Nguyên Lộc

Phi Vân nghỉ Tiếng Chuông đi làm cho báo Dân Chúng, Nguyễn Kiên Giang được ông bà Đinh Văn Khai mời về làm Tổng thơ ký. Kiên Giang liền mời An Khê về thay Phi Long (tức Ngọc Sơn) để viết truyện gián điệp. Nhưng chủ nhiệm báo Tiếng Chuông lại muốn An Khê viết chuyện dã sử ký là Cửu Lang vì bút hiệu nầy được nhiều độc giả các báo quen biết.

An Khê đánh máy 25 trang bài tóm lược câu chuyện đưa cho tòa soạn Tiếng Chuông. Y ngày hẹn, An Khê đến tòa báo, hỏi điều kiện thì chủ nhiệm và chủ bút Tiếng Chuông đưa An Khê đi gặp nhà văn Bình Nguyên Lộc. Khi đó, Bình Nguyên Lộc vừa về xem trang trong cho Tiếng Chuông, sắp xếp lại bài vở, phụ trang. Gặp An Khê, anh Lộc nói :

- Tôi có đọc các truyện của anh, từ gián điệp đến dã sử. Theo tôi, anh viết truyện tình cảm ướt át lâm ly và hấp dẫn lắm. Anh lại có «fond» hơn bà Tùng Long nhiều, anh yên chí và tự tin đi. Tuần sau, anh đem bài truyện tâm tình đến tôi.

Khi đó, An Khê trong bụng oán trách anh Bình Nguyên Lộc vì từ chủ nhiệm đến chủ bút đều OK cốt chuyện, tại sao anh Lộc lại còn làm khó dễ? Anh Bình Nguyên Lộc còn góp ý :

- Bút hiệu Vân Nga, Trương Thanh Vân đã cũ, Nhuyễn Bính Long thì có vẻ đấm đá quá! Anh nên lấy một bút hiệu mới, không ai biết…là ai mới được! Mình phải tạo cho độc giả yếu tố bất ngờ, tò mò, tìm hiểu...

Rồi chính anh Bình Nguyên Lộc đề nghị :

- Anh là một sĩ quan từng chết hụt trên đoạn đường Qui Nhơn-Pleiku cùng với tướng Nguyễn Khánh. Theo tôi, anh nên chọn bút hiệu An Khê để kỷ niệm cuộc vào sanh ra tử trong cuộc đời binh nghiệp.

Sau nầy, tại tòa soạn báo Tiếng Chuông, có lần anh An Khê nói cho tôi biết :

- Anh Bình Nguyên Lộc đã chơi đòn tâm lý, nói tôi không lẽ lại chẳng thể viết bằng Ngọc Linh, Sĩ trung, Thanh Thủy, Dương Hà, Trọng Nguyên hay sao? Và khi tiểu thuyết Người vợ hai lần cưới được đăng ở báo Tiếng Chuông dưới bút hiệu An Khê, báo Tiếng Chuông tăng số bán ở đô thành lên cả ngàn số. Anh Đinh Văn Khai tươi rói nét mặt, cả anh Bình Nguyên Lộc và tôi cũng không ngờ kết quả khả quan ngoài sức tưởng tượng.

Ba mươi năm trước, tôi còn là một ký giả trẻ trung, nhanh nhẹn hay chọc đùa anh em ở tòa soạn. Mỗi lần thấy anh An Khê cỡi mô tô lại tòa báo giao bài, tôi gọi Việt Quang, Trường Sơn, Phong Đạm, Phạm Thăng rồi nói:

- Ê, người vợ chưa từng tắm lại kìa !!

Về sau, soạn giả Thái Thụy Phong điều đình với An Khê để lấy cốt chuyện Người vợ hai lần cưới dựng thành vỡ tuồng Hai chuyến xe hoa cho Thanh Minh, Thanh Nga. Tại rạp Hưng Đạo, dù trời mưa, đoàn TMTN đã diễn vỡ tuồng nầy trọn 19 đêm, đợt sau ba tuần lễ mà vẫn đông khách nhờ tiểu thuyết đã đăng báo Tiếng Chuông và tài diễn xuất của nữ nghệ sĩ Thanh Nga.

Bạn Hoàng Anh Tuấn nhanh tay lấy cốt chuyện quay phim và nhà xuất bản Sống Mới cũng hốt bạc bộn bàng khi xuất bản quyển Người vợ hai lần cưới.

Một tiểu thuyết thứ hai của An Khê cũng được đưa lên sân khấu Thanh Minh, đó là truyện Bơ vơ, do Nhị Kiều dựng, mà tôi thường gọi đùa là Bỏ vợ. Một đêm nọ, khi gặp tôi trong hậu trường Thanh Minh Thanh Nga, An Khê khều tôi bảo nhỏ :

- Nè, từng mê «kỳ nữ» Kim Cương, đừng có làng chàng đến «tài nữ» Thanh Nga nghe, tía nó !

Tôi phá lại An Khê :

 -Còn anh? Coi bộ anh cũng mê mệt bà Bầu Thơ lắm đó nhe. Và anh nên nhớ là tôi lớn hơn Thanh Nga nhiều.

An Khê lắc đầu:

- Mà anh lại nhỏ tuổi và bảnh tẽn hơn…Đổng Lân ! Anh có đọc truyện nầy không ? «Xin đừng gọi anh bằng… chú»!

Không chịu thua, tôi hù An Khê :

- Anh mà chạy theo Bà Bầu, coi chừng tướng Lam Sơn. Ỏng dữ lắm, hay bắn bậy lắm đấy!

Vợ tôi đứng bên cạnh nghe nói, cằn nhằn:

- Anh An Khê thật thà lắm, đừng phá ảnh.

An Khê phát cà lăm:

- Nè, bồ gi..ỡn điệu đó, bà xã tôi nghe được bã đô.. ốt xe mô..m.tô của t.. ôi đó !

Những cuộc «đảo chánh» trong làng báo

Ngoài đời, có những cuộc đảo chánh, binh biến để giành quyền lực, còn trong làng báo cũng có những cuộc đảo chánh nữa sao?

Từ thập niên 1960-1970, trong làng báo miền Nam có xảy ra hai cuộc đảo chánh làm chấn động dư luận.

Cuộc đảo chánh thứ nhứt do anh Nguyễn Kiên Giang chủ động. Từ vai tuồng Tổng thơ ký tòa báo Tiếng Chuông, « anh Hai » chiêu dụ Trường Sơn và mấy cây viết chủ lực về giúp anh Dương Chí Sanh làm một tờ báo mới (dường như tờ Saigon Thời Báo?). Nghĩ rằng không phải ký giả chuyên nghiệp như các anh Nam Đình, Trần Tấn Quốc, Phạm Việt Tuyền, Vũ Ngọc Các, Tam Mộc, Hồ Anh, Hà Thành Thọ…, nên nếu tòa soạn mất thành phần chủ lực, anh Đinh Văn Khai sẽ phải sập tiệm tức khắc. Anh Nguyễn Kiên Giang còn điều đình các cây bút chuyên viết feuilleton cúp ngang xương truyện đang viết cho Tiếng Chuông để sang viết cho tờ báo mới ra lò.

Nhưng anh Giang quên rằng trong làng báo, có nhiều người tuy không phải là thợ viết, nhưng lại có lắm sáng kiến, có tài tổ chức, biết cách điều hành tờ báo. Trong số nầy có bạn Trương Hồng Sơn (tổ chức biên tập cho báo Tin sáng) và anh Đinh Văn Khai.

Có gần gũi anh Đinh Văn Khai mới biết được biệt tài của anh. Biết khai thác các tin «local», theo dõi từng feuilleton từ báo nhà đến báo người để xem bộ truyện nào ăn khách, và các bài xã luận đều do ý anh đề ra. Anh cũng đích thân xem «bản vỗ cuối cùng» trước khi đem trình bộ Thông tin kiểm duyệt, duyệt xét lại cái «tít» bài, để khỏi sơ suất có thể bị đóng cửa (vì ấn công, đa số còn trẻ, hay trửng giỡn như trường hợp một tờ báo kia có cái tít : «Cuộc kinh lý của Tổng Thống Ngô Đình… Chậu», báo hại tờ báo suýt bị sạt nghiệp)

Để phá anh Đinh Văn Khai, vợ chồng Nguyễn Kiên Giang đến nhà An Khê bảo đem tiểu thuyết «Người yêu không thể cưới» đang đăng dở dang ở Tiếng Chuông sang Thời Báo. Biết An Khê là người tình cảm, rất yêu quý bạn bè, Nguyễn Kiên Giang cầm tay bị thương của anh và nói :

 -Tụi mình là bạn nối khố, không bao giờ bỏ nhau!

An Khê đang lưỡng lự chưa dứt khoát thái độ thì anh chị Đinh Văn Khai đi đòn tâm lý cao đến năn nỉ bác sĩ Nguyễn Bính, thân phụ của An Khê, nhờ can thiệp vì nếu Người yêu không thể cưới bỏ ngang Tiếng Chuông mà sang cưới nhau ở Thời Báo thì Tiếng Chuông chắc chết.

Cha mẹ An Khê từ lâu là độc giả Tiếng Chuông khuyên anh ăn ở sao cho phải đạo.

Tình cờ gặp tôi, An Khê hỏi :
- Ca ơi, mỏa phải làm sao? Anh chị Khai rất điệu với mỏa, còn Nguyễn Kiên Giang là bạn cũ, cùng dân Rạch Giá, cùng lận đận từ thời Đọc Thấy của anh hai Ân.

Tôi đáp :

- Anh và tôi là hai thằng…duy tâm. Chủ trương của anh em mình giống như đại ca Bình Nguyên Lộc, thà người phụ mình chớ mình đừng phụ người.

Anh Bình Nguyên Lộc cũng lên tiếng :

- Có một giải pháp tốt, không ai phiền hà anh hết. Cứ để nguyên Người yêu không thể cưới cho Tiếng Chuông, anh viết một truyện khác cho Nguyễn Kiên Giang.

Thế là An Khê viết một tiểu thuyết mới tựa là « Người đàn bà hai tim » cho Thời Báo.

Ngày nào báo ra, hai bà Dương Chí Sanh, Nguyễn Kiên Giang đều đọc trước phê bình :

- Tiểu thuyết mới cũng hay mà sao không mùi mẫn hấp dẫn như Người yêu không thể cưới.

Còn cuộc đảo chánh thứ hai xảy ra ở báo Dân Ta của anh Nguyễn Vỹ.

Người chỉ huy cuộc đảo chánh là Nguyễn Thế Trung, cựu phát hành viên và quản lý báo Lẽ Sống. Anh Trung không phải là ký giả, nhưng có tài phát hành báo, giao dịch mật thiết với các nhà phát hành như Nam Cường, Đồng Nai, Thống Nhứt và cặp rằng phân phối báo.

Là quản lý của Dân Ta, thấy tờ báo đang bán mạnh, Nguyễn Thế Trung điều đình với Nguyễn Minh Châu (anh Châu đã có giấy phép xuất bản Dân Tiến mà chưa có phương tiện ra báo nên nhường quyền khai thác cho Nguyễn Thế Trung) để ra báo Dân Tiến và kéo cả ban biên tập Dân Ta về Dân Tiến.

Buổi sáng, Nguyễn Vỹ ôm cartable đến tòa báo làm việc, chưng hửng khi thấy tòa soạn vắng tanh, trước sự việc như vậy chỉ còn biết kêu trời. Báo Dân Ta phải tự đình bản cả tuần, nhưng khi tái bản bị mất trớn, mất độc giả, lỗ lả nặng nề.

Nguyễn Ang Ca

Monday, September 5, 2011

Nguyễn Phương


Tu
i thơ trôi dt ca Su n Út Bch Lan


Hồi xưa, ở Việt Nam, khán giả ái mộ cải lương, mến thương nghệ sĩ nên tùy theo từng giọng ca mà tặng cho nghệ sĩ một mỹ hiệu hay biệt danh. Khi nghe nhắc Vua vọng cổ là biết nói tới danh ca Út Trà Ôn, nhắc tới Nữ Hoàng vọng cổ, sầu nữ… là người ta biết nói tới nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan, một người có giọng ca rất buồn, một giọng ca hiếm có trong sân khấu cải lương suốt nửa thế kỷ qua.(Nữ Hoàng vọng cổ, sầu nữ Út Bạch Lan)

Nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan tên thật là Đặng Thị Hai, sanh năm 1935, tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Thân phụ của cô là ông Nguyễn Văn Chưa, làm nghề nài ngựa đua, qua đời năm 1966. Mẹ của cô là bà Đặng Thị Tư dẫn bé Hai ( tên của Út Bạch Lan hồi nhỏ ) lên Chợ Lớn. Hai mẹ con sống lang thang lề đường xó chợ. Lúc đó bé Hai được tám tuổi, ban ngày em phụ mẹ rửa chén, làm chân sai vặt cho những người trong chợ Bình Tây, buổi tối bé Hai ngủ trên sạp thịt, không mùng màn chiếu gối.

Bà Tư, mẹ của bé Hai làm quen với một người đàn bà nghèo đồng trạc tuổi, cùng cảnh ngộ nên hai bà kết nghĩa chị em. Con của bà bạn là một em bé mù nhưng biết đàn guitare thùng khá giỏi. Đó là Văn Vĩ. Bé Vĩ mù bẩm sinh, được một nhạc sĩ thương tình dạy cho bé Vĩ đờn guitare cổ nhạc. Văn Vĩ dạy lại cho bé Hai ca. Bé Hai đã học được những bài vọng cổ Đêm Khuya Trông Chồng, Mẹ Dạy Con, Trọng Thủy Mỵ Châu, đó là những bài vọng cổ mà bạn hàng chợ thường hát dĩa nên bé Hai học thuộc lòng.

Bé Hai thấy người mù đi hát dạo trong chợ được người ta cho tiền nên rũ Văn Vĩ lén mẹ đi hát dạo, từ Chợ Lớn đến Chợ Bến Thành, chợ Bàu Sen, chợ Cầu Ông Lãnh. Nơi nào hai em bé Hai và Văn Vĩ hát dạo cũng được đông đảo người tụ tập nghe và cho tiền. Hai em đem tiền về cho mẹ nên cuộc sống đở đói khó, vất vã như xưa.

Lúc đó, năm 1946, 1947, đang có cuộc chiến tranh Việt Pháp, Ban Công Tác Thành Saigon liệng lựu đạn những nơi có đông người tụ tập, các rạp hát, các bar dancing. Bé Hai và Văn Vĩ đờn ca hát dạo, dân chúng tụ tập đông đảo nên lính cảnh sát Tây bắt bé Hai và Văn Vĩ về nhốt trong bót quận Nhì ở đường Hammelin, đường đi hướng về cầu Ông Lãnh.

Ông xếp bót là người Pháp lai Việt Nam, bạn thân của nhạc sĩ Jean Tịnh đờn vĩ cầm cổ nhạc nên ông bảo Jean Tịnh đến bảo lãnh cho hai em đó ra.

Nhạc sĩ Jean Tịnh và ca sĩ Thành Công đến bót, nghe Văn Vĩ và bé Hai đờn ca. Thành Công bảo lãnh hai em ra, anh theo hai em về chợ Bình Tây, gặp hai bà mẹ để xin cho hai em theo Ban cổ nhạc Thành Công ca trên đài Pháp Á.

Ca sĩ Thành Công rất mến mộ ngón đàn guitare sắc sảo của Văn Vĩ và giọng ca có chất buồn man mác của bé Hai nên Thành Công đặt nghệ danh Bạch Lan cho bé Hai để đối lại với ca sĩ tí hon Bạch Huệ trên đài Phát Thanh Saigon. Bé Hai xin giữ thêm chữ Út mà mẹ cô thường dùng để gọi cô, từ đó bé Hai có nghệ danh Út Bạch Lan.

Ngoài việc đờn ca cho Đài Pháp Á, Út Bạch Lan và Văn Vĩ còn được mời đờn ca giúp vui cho các cuộc tiệc, đám cưới, đám giỗ, được dân chúng ở chợ Bàu Sen mời về nhà họ đờn ca. Những lần được mời đờn ca, Văn Vĩ và Út Bạch Lan được thưởng nhiều tiền, người ta cho quần áo đẹp và cho ăn uống phủ phê. Cô Năm Cần Thơ chủ quán ca nhạc Họa Mi ở khu giải trí trường Đại Thế Giới Chợ Lớn, mời Út Bạch Lan và Văn Vĩ đờn ca thường xuyên cho quán Họa Mi.

Út Bạch Lan được ca sĩ Thành Công, cô Năm Cần Thơ, nhạc sĩ Jean Tịnh và nhạc sĩ Mười Lương dạy ca thêm nhiều bài bản cổ nhạc.

Năm 1952, Út Bạch Lan gia nhập đoàn hát Kim Khánh của ông bầu Ba Cang, nhưng đoàn Kim Khánh lúc đó đang có 4 cô đào trẻ Thu Ba, Bé Hoàng Vân, Kim Nên, Ngọc An nên chỉ khi nào một trong bốn nữ diễn viên đó bịnh thì Út Bạch Lan mới được đóng thế vai. Thấy ở đoàn Kim Khánh không có tương lai, Út Bạch Lan tìm đi gánh hát khác.

Năm 1953, Út Bạch Lan theo đoàn hát Tô Huệ, cũng chỉ được cho làm thế nữ, quân hầu nên cô trở về Saigon cộng tác với Ban Cổ Nhạc Thành Công trên đài phát thanh Saigon.

Năm 1955, Út Bạch Lan gia nhập đoàn hát Kim Thanh do bốn danh ca vọng cổ Út Trà Ôn, Thanh Tao, Kim Chưởng, Thúy Nga hùng vốn làm bầu. Ở đoàn Kim Thanh, Út Bạch Lan cũng không được giao một vai tuồng quan trọng. Soạn giả Viễn Châu biết giọng ca của Út Bạch Lan rất được khán giả tán thưởng nên trong tuồng “Đời Cô Nga “ anh viết thêm hai câu vọng cổ cho Út Bạch Lan ca. Thành công quá sức tưởng tượng: khán giả vổ tay nhiệt liệt không thua gì khi họ nghe Út Trà Ôn vô vọng cổ. Vãn hát, khán giả đứng nghẹt ở cửa sau rạp hát để chờ đón xem mặt Út Bạch Lan.

Hình của Út Bạch Lan được đăng rất lớn trên các trang kịch trường, ký giả Nguyễn Ang Ca viết:” Út Bạch Lan, một ngôi sao lạ vụt sáng trên vòm trời sân khấu cải lương”

Ký giả Trần Tấn Quốc viết:” Út Bạch Lan, một giọng ca vọng cổ thảm sầu, bứt ruột bứt gan người nghe!”

Ký giả Kiên Giang viết:” Sầu nữ Út Bạch Lan, chất giọng đồng pha thổ nghe thương cảm chơi vơi, đêm đêm khơi nguồn lệ của hàng ngàn khán giả ái mộ cải lương.”

Đại diện các hãng dĩa Hồng Hoa, Hoành Sơn, Tứ Hải mời Út Bạch Lan ca thu dĩa vọng cổ. Điều bất ngờ là soạn giả Viễn Châu không được phép viết thêm bài ca vọng cổ để giới thiệu Út Bạch Lan với lý do là không được phép viết thêm khi tuồng đã kiểm duyệt. Út Bạch Lan biết có người sợ soạn giả Viễn Châu viết vọng cổ cho cô ca sẽ làm lu mờ họ nên tung tin ngăn cản.

Ông bầu Nghĩa đoàn Thanh Minh hay tin này, mời Út Bạch Lan ký hợp đồng 150.000 đồng để Út Bạch Lan về hát. Út Bạch Lan đứng chung sân khấu với các nghệ sĩ Út Trà Ôn, Thanh Hương, Hữu Phước, Kim Anh, Thu Ba, Văn Chung, Minh Tấn, hề Kim Quang và đã có những vai hát quan trọng trong các tuồng Biên Thùy Nổi Sóng, Cánh Bườm Lửa, Tình Tráng Sĩ, Đồ Bàn Di Hận, Nhớ rừng, Cung Đàn Trên Sông Lạnh, Núi Liễu Sông Bằng, Hồi Trống Vân Lâu, Áo Gấm Khôi Nguyên, Cầu Gổ Hoàng Mai Thôn, Người Đẹp Bạch Hoa Thôn.

Năm 1958, Út Bạch Lan ký hợp đồng hai triệu đồng về hát cho đoàn hát Kim Chưởng, hát cặp với kép chánh Thành Được.

Thành Được và Út Bạch Lan là một cặp diễn viên lý tưởng nhất trong hai thập niên 60, 70…Út Bạch Lan cùng với dàn diễn viên của đoàn Kim Chưởng Thành Được, Trường Xuân, Kim Nên, Nam Hùng, Mộng Thu, Hề Minh, Phượng Liên, Diệp Lang đã ghi dấu một thời hoàng kim của cải lương với các tuồng Chưa Tắt Lửa Lòng, Bên Đồi Trăng Cũ, Thuyền Ra Cửa Biển, Áo Trắng Nàng Mộng Trinh, Nửa Bản Tình Ca, Người Đẹp Thành Bát Đa…

Trên sân khấu Kim Chưởng, mối tình đầu nẩy nở giữa Út Bạch Lan và Thành Được đưa tới một cuộc hôn nhơn có hôn thư giá thú đàng hoàng, cô Phùng Há đứng làm chủ hôn.

Năm 1961, Út Bạch Lan – Thành Được rời đoàn Kim Chưởng, thành lập gánh hát lấy bảng hiệu Út Bạch Lan – Thành Được, hai nghệ sĩ Phùng Há và Ba Vân làm chỉ đạo nghệ thuật. Đoàn Út Bạch Lan Thành Được có những tuồng Trảm Mã Trà, Đêm Huyền Diệu, Chân Trời Hạnh Phúc, Khi Rừng Mới Sang Thu, Bốn Mùa Hoa Nở, Bao Giờ Vườn Xứ Mưa Hoa, Cuối Đường Hoa Mộng, Thuyền Về Bến Ngự, Khi Hoa Anh Đào Nở, Cầu Sương Thiếp Phụ Chàng, Sầu Qua Mấy Nhịp Cầu Duyên…

Cuối năm 1962, đoàn Út Bạch Lan - Thành Được rã gánh, Cặp vợ chồng nghệ sĩ này về cộng tác với đoàn hát Thanh Minh – Thanh Nga, hát tuồng Nửa Đời Hương Phấn của Hà Triều Hoa Phượng. Thời gian này soạn giả Viễn Châu viết tặng cho Út Bạch Lan bài vọng cổ Tâm Sự Một Loài Hoa, kề về cuộc đời nhiều gian truân của Út Bạch Lan.

Trên sân khấu Thanh Minh Thanh Nga, Út Bạch Lan – Thành Được hát những tuồng xã hội Nửa Đời Hương Phấn, Con Gái Chị Hằng, Đôi Mắt Người Xưa, Bóng Chim Tăm Cá, Ngược Dòng Sông Lỗi, Áo Cưới Trước Cổng Chùa, Ngả rẽ Tâm Tình, Đời Hai Mặt, Thầy Cai Tổng Bồi, Đời cô Nga…

Năm 1965, hôn nhơn của Út Bạch Lan và Thành Được gảy đổ. Út Bạch Lan ký hợp đồng hát cho đoàn Kim Chung của Bầu Long. Thành Được ký hợp đồng hát cho đoàn Thanh Minh Thanh Nga.

Năm 1967, Út Bạch Lan lập gánh Tân Hoa Lan hát các tuồng Ai Cho Tôi Tình Yêu, Cổ Xe Độc Mã, Anh Hùng Xạ Điêu, Đi Biển Một Mình.

Sau năm 1975, Út Bạch Lan hát cho đoàn cải lương Saigon 1 rồi cô trở về quê hương Long An hát cho đoàn cải lương của tỉnh nhà.

Những năm gần đây, sầu nữ Út Bạch Lan được mời sang Hoa Kỳ, hát tái ngộ với nghệ sĩ Thành Được nhân dịp Phượng Liên tổ chức kỷ niệm 45 năm sân khấu. Út Bạch Lan được khán giả hải ngoại nhiệt liệt ngợi khen giọng ca bi thảm của cô, dù tuổi trên bảy mươi, giọng hát của Út Bạch Lan vẫn êm dịu, mượt mà, thu hút tâm hồn người nghe.

Út Bạch Lan đã quy y phật pháp, cô thường đi hát giúp gây quỷ từ thiện và hát giúp trong các lễ ở các chùa chiền. Sầu nữ Út Bạch Lan, một giọng ca hiếm có trong nền nghệ thuật Cải lương. Khán giả ái mộ gọi cô là Sầu Nữ, Nữ Hoàng Vọng Cổ, Vương Nữ Sương Chiều…hơn nửa thế kỷ qua, Út Bạch Lan đã rút hết tơ lòng để nhả cho đời những sợi tơ vàng óng ả đẹp vô ngần.

Lắng đọng gồm thâu những cuộc đời,
Vào hồn “ sầu nữ “ thấm tình người,
Cho nên nghệ thuật thanh xuân mãi,
Tiếng hát ngàn xa vượt tuổi trời.

Nguyn Phương

Sunday, September 4, 2011

Ngô Nhân Dụng


Mùa Xuân Ðịa Trung Hải


Một nước Libya Tự Do đang thành hình. Khi quân nổi dậy chiếm được thành phố Tripoli ký giả Al-Mustaqbal ở Lebanon mô tả đây là “Một Mùa Xuân Ðịa Trung Hải.” Người Libya gọi thủ đô Tripoli là “Vị hôn thê của Ðịa Trung Hải.” Arusat Al-Bahr - Người vợ chưa cưới - mới được giải phóng, thoát khỏi vòng tay anh đại tá độc tài “vũ phu” Muammar el-Qaddafi (cũng viết là Moammar Gadhafi hoặc Muammar Kadhafi; chúng tôi sẽ viết theo lối chung của nhật báo Người Việt là Gadhafi).

Mười ngày sau khi quân nổi dậy tiến chiếm Tripoli, điều khiến nhật báo Times ở London reo mừng là “Không xẩy ra một vụ Iraq!” Những mối lo ngại trước đây về một cảnh hỗn loạn vô chính phủ đã không diễn ra. Không có những người dân bình thường biến thành đám côn đồ đi hôi của! Không có cảnh giết chóc để trả thù những tay sai suốt 42 năm của chế độ Gadhafi. Một phần, đó là nhờ Ủy Ban Quốc Gia Chuyển Tiếp (NTC) đã dự phòng.

Trước khi chiến dịch đánh Tripoli bắt đầu, từ thành phố Benghazi, NTC thành lập một lực lượng cảnh sát, có từ 10 ngàn đến 15 ngàn dân vệ, để lo bảo vệ trật tự khi chiếm được thủ đô. Ông Mahmoud Jibril, chủ tịch ủy ban đã lên ti vi, phát hình từ vương quốc Á Rập Qatar trong vùng Vịnh, kêu gọi dân chúng thủ đô hãy kiềm chế không tự mình đi trả thù, hãy để mọi nỗi oán hờn cho công lý xét xử sau này. Khác với Iraq năm 2003, các cảnh sát, công an của chế độ cũ được kêu gọi trở lại nhiệm sở, cũng như các quân nhân không bị sa thải tức khắc, tạo nên một đạo binh thất nghiệp vừa sợ hãi vừa có súng trong tay như ở Iraq. Tại nhiều nơi, những ủy ban nhân dân tự động lập ra lo việc bảo vệ trật tự, an ninh trong khu phố mình. Ðiều đáng mừng không kém là các mỏ dầu lửa bắt đầu hoạt động và những ngân khoản ở ngoại quốc của chính quyền cũ được Liên Hiệp Quốc giải tỏa, tiền bắt đầu được tháo khoán cho chính quyền mới sử dụng!

Và chính quyền mới cần ngay rất nhiều tiền. Trong thành phố Tripoli nhiều nơi còn bị cúp điện, nước. Công chức khắp nước chưa được trả lương trong mấy tháng qua. Ðiều quan trọng nhất là chính phủ lâm thời, dưới cái tên Ủy Ban Quốc Gia Chuyển Tiếp cần phải có mặt ở thủ đô ngay, để tạo niềm tin rằng chế độ cũ đã chấm dứt thật sự. Và họ phải chứng tỏ đang nắm quyền quyết định. Ðể tránh cho Libya khỏi lâm vào cảnh nội chiến như ở Iraq sau năm 2003.

Một công trình của Ðại Học Columbia nghiên cứu 323 cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài từ năm 1900 đến năm 2006 cho biết sau khi “cách mạng thành công” có 43% trường hợp đã đưa tới nội loạn. Lybia cũng giống Iraq, có đủ các mầm mống đưa tới nội chiến, vì họ không phải là một dân tộc có truyền thống thuần nhất và chưa có ý thức quốc gia theo nghĩa hiện đại của danh từ này. Người dân Lybia hướng lòng trung thành của họ vào các bộ lạc nhiều hơn là vào một thực thể quốc gia. Ngay những nhóm dân quân nổi dậy cũng không thuần nhất. Dân Berberes ở phía Tây đã nổi lên chống Gadhafi sau khi cuộc nổi dậy ở Benghazi tại miền Tây thắng thế. Những người Berberes đầy tinh thần độc lập và tự hào của dân du mục đóng vai trò thiết yếu trong trận đánh giải phóng thành phố Misrata, họ không hoàn toàn tuân phục Ủy Ban Quốc Gia Chuyển Tiếp. Ngay trước khi thắng thế, trong phe nổi dậy đã xẩy ra những rạn nứt lớn. Vào Tháng Bẩy, nhà chỉ huy quân sự Abdel Fatah Younès được triệu hồi từ mặt trận về Benghazi tham khảo; mấy ngày sau người ta thấy xác ông và hai cận vệ ở bên ngoài thành phố, thi hài có dấu vết bị tra tấn và bị đốt cháy. Phe nổi dậy nói ban ám sát của Kadhafi đã giết ông Younes, nhưng nhiều người không tin. Sau đó, ủy ban hành pháp, tức chính quyền lâm thời đã phải từ chức. Ông Younes thuộc bộ lạc Obeidi, bộ lạc này đã yêu cầu mở cuộc điều tra tìm thủ phạm. Những bất đồng như vậy sẽ gây nhiều trở ngại cho một nước Libya mới sắp ra đời!

Ủy ban NTC do ông Mustafa Abdel Jalil, một cựu bộ trưởng Tư Pháp cầm đầu. Ông đã tuyên bố trước là sẽ không giải giới quân đội và công an cảnh sát của chế độ cũ, để họ an lòng. Ông hứa sẽ thành lập một chính phủ lâm thời trong vòng 30 ngày sau khi cả nước được hoàn toàn giải phóng, chính phủ này sẽ bao gồm nhiều khuynh hướng chính trị và nhiều bộ lạc. Trong vòng 8 tháng sẽ tổ chức bầu cử tự do, để soạn một bản Hiến Pháp mới trong vòng 20 tháng.

Ðiều khó khăn nhất sẽ là làm cách nào giải thể các toán dân quân độc lập để họp lại thành một quân đội quốc gia chuyên nghiệp, đứng ngoài chính trị!

Ông Mustafa Abdel Jalil là viên chức chính phủ Gadhafi đầu tiên từ bỏ nhà độc tài để gia nhập dân quân nổi dậy, sau khi các sinh viên ở Bengahzi biểu tình ngày 15 Tháng Hai năm nay. Ông được nhiều người kính trọng vì ngay khi làm bộ trưởng đã can đảm chỉ trích nhiều chính sách đàn áp đối lập của Gadhafi. Nhưng Jalil không được coi là một lãnh tụ mạnh có khả năng khuất phục người khác. Sau ông Jalil, nhiều nhân vật trong chính quyền Kadhafi cũng kéo về thành phố Bengahzi thủ phủ tạm thời của phe nổi dậy, lấp vào khoảng trống chính trị của một phong trào quần chúng tự động bột phát. Trong số đó có ông Mahmoud Jibril, đang cầm đầu ủy ban hành pháp của phe nổi dậy, và ông Ali al-Essawi, đứng đầu về ngoại giao.

Jibril là một cựu sinh viên Ðại Học Pittsburgh ở Mỹ. Trong cuốn “Viễn Tượng Lybia 2025” ông đã vẽ ra hình ảnh một chế độ mới, trong đó các quyền tự do được tôn trọng, kinh tế thị trường mở cửa, và quyền hành của chính phủ được giới hạn trong đời sống xã hội. Người đóng vai trò bộ trưởng Tài Chánh trong phe nổi dậy là Ali Tarhouni, một giáo sư Ðại Học Washington, ông đã bỏ ngang nghề giáo sư ở Mỹ để về nước “làm cách mạng!”

Nhân vật trong phe nổi dậy có thể bị nghi ngờ chống Tây phương là Abdul Hakim Belhaj' người đang cầm đầu Ủy Ban Quân Sự Tripoli.

Abdul Hakim Belhaj có bí danh là Abu Abdullah al-Sadiq vốn là chỉ huy của một nhóm kháng chiến mang tên Ðạo Quân Hồi Giáo Lybia (Libyan Islamic Fighting Group - LIFG), đã tổ chức chống chính quyền Kadhafi từ năm 1990, ở miền Ðông Lybia. Ông Belhaj 45 tuổi, đã âm mưu ám sát Kadhafi hai lần không thành vào những năm 1995, 96. Nhóm Ðạo Quân Hồi Giáo Libya (LIFG) bị chính phủ Mỹ ghi trong danh sách các tổ chức khủng bố Hồi Giáo quá khích. Năm 2004 ông Belhaj đã bị bắt ở Mã Lai Á, sau đưa qua nhà giam của CIA tại Thái Lan, và ở đó ông đã bị tra tấn. Khi được trả tự do, ông được đưa trả cho chính quyền Gadhafi, bị giam giữ; mới được “ân xá” năm 2010.

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Belhaj nói ông không thù hận nước Mỹ. Ông cũng nói đã từng chống lại tổ chức khủng bố Al Qaeda mà ông cho là cực đoan, không theo đúng giáo lý Hồi Giáo. Nhóm LIFG nay đã đổi tên thành Phong Trào Hồi Giáo Chuyển Hóa để biến thành một đảng chính trị.

Những tổ chức dân quân kháng chiến như LIFG có hy vọng thoát xác trở thành các đảng chính trị hay không? Người ta có thể hy vọng điều đó sẽ diễn ra, theo tấm gương của Nghị Hội Quốc Gia Nam Phi (Africa National Congress ANC). Sau khi được người da trắng ở đó trao quyền hành, ANC đã tự giải tán, gia nhập quân đội quốc gia. Một diễn trình tương tự đang thành hình ở Ai Cập, nơi các nhóm Hồi Giáo võ trang đông người hơn LIFG cũng đã tự giải tán và thành lập đảng chính trị Kiến Thiết và Phát Triển.

Các nước Tây phương đã giúp cho phe cách mạng thành công, nhờ những cuộc không tập và viện trợ vũ khí, gồm các nước Anh, Pháp và Mỹ. Ðiều này được cả nước Lybia biết ơn. Ðối với nước Mỹ, cuộc nổi dậy thành công ở Lybia là một tin mừng hiếm hoi, trong lúc thị trường chứng khoán đang xuống vì mối lo nạn thất nghiệp không giảm! Biến cố này đã tạo cho nước Mỹ một hình ảnh mới trong thế giới Á Rập. Một nhà báo Mỹ viết cho tờ New York Times hôm qua đã mô tả chuyến đi của ông từ biên giới Tunisie tới Tripoli, đi đâu cũng thấy mọi người hoan hô chính phủ Mỹ trong việc hỗ trợ quân nổi dậy.

Trong khi đi bộ trong thủ đô Tripoli, nhà báo được một người lái xe gọi lại cho đi nhờ, và nhắn: Cảm ơn người Mỹ! Một người khác nhận xét: Nếu không có nước Mỹ giúp, chúng tôi không có ngày hôm nay! Một người lính biên phòng biết nhà báo từ New York tới đã hỏi thăm về trận bão Irene đang tấn công New York, tỏ ý hỏi anh ta có thể làm gì để giúp người Mỹ hay không! Belgassim Ali, một kỹ sư dầu lửa nói: “Tôi muốn cảm ơn nước Mỹ đã giúp bảo vệ dân tôi. Nếu không có nước Mỹ thì chúng tôi không đang được mừng ngày thành công như thế này! Chắc chúng tôi đang nằm trong nghĩa địa!” Chàng thanh niên Abdul Hakim al-Hasadi, một quân thánh chiến cũ (jihadist) nói với nhà báo Mỹ: Thái độ của chúng tôi đã thay đổi. “Trước đây tôi ghét Mỹ 100%, hôm nay chỉ còn dưới 50%!”

Bài học có thể rút ra từ biến cố ở Libya là: Một chế độ độc tài có thể tan rã rất dễ dàng! Mùa Xuân Ðịa Trung Hải đã bắt đầu ở Tunisia từ đầu năm, lan sang Ai Cập và các nước Á Rập khác, nay đã tới Libya và có thể sẽ tràn tới Syria trong những ngày sắp tới. Nhà báo Ali-Mustaqbal ở Lebanon mới nhớ lại, trong thập niên 1970 cả vùng Ðịa Trung Hải toàn là những chế độ độc tài. Tito ngự trị ở Nam Tư, Enver Hodja ở Albania. Các ông đại tá nắm quyền ở Hy Lạp. Thổ Nhĩ Kỳ cũng nằm trong tay các ông tướng. Chế độ Franco ở Tây Ban Nha chỉ chấm dứt khi nhà độc tài này qua đời năm 1975. Chế độ độc tài ở Bồ Ðào Nha chấm dứt năm 1974 sau cuộc Cách Mạng Hoa Cẩm Chướng. Sáu nước phía Bắc Ðịa Trung Hải và tất cả các nước Á Rập ở phía Nam đều sống dưới chế độ độc tài trước đây 40 năm! Ngày nay, mùa Xuân đã tới miền Ðịa Trung Hải!

Ngô Nhân Dụng
@nguoi-viet

Saturday, September 3, 2011

Thơ Nguyễn Thu Thủy


Tình mùa

"Trời trong xanh như một giấc mơ gần
Phố dịu dàng xòe hàng cây cổ tích
Em đạp xe có nghe mùa trong tóc
Chút thầm thì xao xác gió heo may

Anh khạo khờ giấu nhớ giữa bàn tay
Và hồi hộp viết bài thơ nho nhỏ
Này mắt nâu anh vẫn chờ qua ngõ
Thấy em cười khúc khích với xôn xao

Phố giao mùa nắng rất lạ xanh xao
Hương ngọc lan thơm như nỗi nhớ
Anh mở ra trái tim run bỡ ngỡ
Con dế giật mình tròn xoe mắt hồn nhiên

Thương mùa thu khóm cúc dại ngủ quên
Anh đánh thức bằng ban mai ẩm ướt
Mỗi buổi sớm là một lời hò hẹn
Em thấy không và em có tin không...?

Nhút nhát ơi! Anh đãng trí đi tìm
Khúc thương nhớ chẳng bao giờ dám ngỏ
Nên một mình cùng câu thơ dạo phố
Nghe nỗi buồn gặm nhấm thật dễ thương."

Nguyễn Thu Thủy

Friday, September 2, 2011

Tràm Cà Mau


ĐỨA CON DÂU


Bà Năm rất hãnh diện vì Tâm, đứa con trai học hành chăm chỉ. Tâm tốt nghiệp bằng bác sĩ y khoa, thực tâp tại bệnh viện sắp xong, và chuẩn bị đi làm việc.

Tâm thường ôm đàn, búng tưng tưng và hát nghêu ngao.Tâm thường lập đi lập lại những câu hát ca ngợi "người em gái" nào đó. Lời rất dịu dàng, êm ái. Bà Năm nghe Tâm hát mãi, nói rằng:

- Em gái của anh, thì anh la mắng, nạt nộ, sai làm chuyện nầy, bảo làm chuyện kia, còn bắt phạt, bắt quỳ. Còn em gái người ta, thì bốc lên thấu tận trời xanh.

Tâm trả lời yếu đuối:

- Bài hát mà má. Thì rồi em Hương nhà mình, cũng sẽ được mấy anh con trai dại dột khác, bốc lên thấu trời xanh thôi.

- Sao anh không bốc em của anh lên một chút, cho nó vui, sung sướng. Có hơn là đi bốc thiên hạ không?

Bà Năm thường làm hết mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Anh con trai chưa bao giờ mó tay vào làm bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào trong gia đình nầy, từ rửa chén bát, hút bụi nhà, sửa cái bóng đèn đứt dây, cắt cỏ, quét lá trong vườn. Anh như một người khách thuê khách sạn, trong ngoài, mọi sự đã có người khác lo.

Một buổi sáng chủ nhật, bà thấy Tâm đem máy ra, cắt cỏ sân trước nhà. Bà ngạc nhiên, há hốc miệng đứng nhìn đứa con trai đang hì hục, vụng về đẩy chiếc xe cắt cỏ. Xưa nay, anh chưa hề đụng đến việc nhà. Anh đã quen thói. Có nhờ được anh cũng khó khăn, và chưa chắc đã làm. Anh cứ lần khân mãi, rồi quên việc người khác nhờ... Hôm nay bà thấy Tâm cắt cỏ cẩn thận, cắt đi cắt lại, nghiêng đầu nhìn ngắm mãi, cho đến khi vừa lòng mới thôi. Bà Năm đứng chống nạnh, âu yếm nhìn con:

- Sao hôm nay con giỏi thế? Cắt cỏ giúp cho bố mẹ. Lại cắt cẩn thận, cắt đẹp nữa!

Tâm nhìn mẹ cười, và nói tỉnh bơ:

- Tuần trước, Lam ghé đây chơi, thấy cỏ cao, bảo con sao không cắt cho đẹp vườn.

- Lam là ai?

- Là bạn gái của con.

Bà Năm hừ một tiếng nhỏ tức tối. Con của Bà sinh ra, nuôi nấng, thương yêu, bà nhờ không được, bà nói không nghe, thế mà cái con Lam nào đó, mới mở miệng một tiếng, thì nó lại răm rắp làm. Trong lòng bà, bỗng thấy không ưa cái con Lam kia. Bà cảm thấy hơi buồn.

,,,

Sáng chủ nhật, bà pha cà phê cho chồng, và pha luôn cho Tâm một ly. Bà biết hai bố con đều ghiền, buổi sáng không có ly cà phê thì xem như mở mắt không ra. Thấy anh con trai không buồn động đến ly cà phê thơm, bà hỏi:

- Sao con không uống liền đi, để nguội mất ngon, hương cà phê bay đi hết.

- Thôi, con không uống cà phê nữa má à. Con đang tập bỏ cà phê.

- Sao vậy?

- Lam bảo con bỏ cà phê! Uống cà phê không tốt.

Nghe con nói mà bà điên tiết, muốn lộn máu lên. Lam là đứa nào, có quyền lực gì, mà làm cho thằng con trai cưng, thương yêu của bà răm rắp tuân lời? Bà thương con, muốn cho con vui, bà ra lệnh:

- Uống đi. Mẹ đã pha ra rồi. Ðừng uống quá nhiều thì thôi, chứ vừa phải, cà phê cũng tốt cho sức khỏe.

- Anh con trai cưng của bà, đánh trống lảng, rồi bỏ lên lầu, không đụng đến ly cà phê bà đã pha. Bà Năm bực bội, quậy ly cà phê và uống từng ngụm nhỏ. Bà nói với chồng:

- Thằng Tâm nhà mình thế mà dại gái. Cha mẹ nói cho rát họng, thì không nghe, cái con nhỏ vất vơ nào đó, nói ra cái gì, thì nó răm rắp nghe theo như kinh điển. Thiệt là bực. Con mình sinh ra, dạy dỗ, nuôi nấng, mà nó không xem mình bằng ...

Ông chồng bà cắt ngang:

- Thôi bà ơi. Nó cũng đã lớn rồi, khi mới yêu, thì ai cũng vậy, mai mốt sẽ khác. Bà có nhớ không, hồi xưa khi tôi mới yêu bà, tôi cũng nghe theo bà răm rắp ...

- Bây giờ thì ông không thèm nghe theo tôi bất cứ chuyện gì nữa. Lại còn nạt nộ, gầm gừ.

- Có chứ, khi nào bà nói đúng thì tôi nghe theo, chứ bà sai, bắt tôi theo sao được? Ngay cả bà nội tôi, nếu nói sai, thì tôi cũng phải thưa lại cho đúng, chứ huống chi là vợ?

- Ừ, bây giờ anh có tôi rồi, thì xem thường nhé!

- Vẫn quý vợ như thường. Nhưng đúng sai, phải làm cho ra lẽ.

Mỗi lần bà thấy Tâm không hớt tóc theo kiểu cũ, lối tóc xửng ra như rễ tre, mà hớt lối mới trông gọn gàng, lịch sự hơn. Bà khen Tâm. Tâm nói rằng Lam không thích kiểu tóc cũ. Nghe mà bà giận, bực mình. Nhưng bà công nhận kiểu tóc mới, con bà trông đàng hoàng hơn.

Mấy tuần sau, khi Hương đi chơi về, báo cho bà Năm biết:

- Mẹ ơi, Con gặp anh Tâm đang bưng thức ăn cho khách tại tiệm Hương Bình. Anh còn cắt rau, nhặt tôm, phụ bếp nữa.

- Mẹ không hiểu con nói gì.

- Tiệm của bố mẹ chị Lam ấy mà! Anh ấy đến đó làm việc, lấy điểm với ông bà già chị Lam.

Bà Năm mặt mày nhăn nhó, thở dài, thất vọng nói:

- Tiền bạc nó đâu có thiếu. Ở nhà thì chưa bao giờ rửa cái bát. Chưa bao giờ nấu nồi nước sôi giúp mẹ. Chắc cũng làm không công. Thế mà, thế mà ...

Ngay tức thì, bà kêu Hương lái xe cho bà đi xem mặt mũi cái con Lam kia ra thế nào, mà sai khiến được ông con cưng của bà như vậy.

...

Bà Năm hầm hầm đi theo con gái, miệng mím lại. Hương dặn bà đừng vào tiệm, đi ngang qua bên ngoài dòm vô thôi. Hai mẹ con đi qua tiệm nhiều lần. Khi được nhìn thấy mặt đứa con gái tên Lam, bà càng giận hơn. Trở về nhà, bà bứt rứt, đi lui đi tới, chờ anh con trai cưng về; bà sẽ cho một trận tơi bời cho đã giận. Khi Tâm về nhà, chưa kịp thay áo, đã bị bà Năm gào to:

- Khôn nhà dại chợ, việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Việc nhà không đụng móng tay vào, ra ngoài thì làm mọi không công cho thiên hạ. Học hành cho giỏi, đỗ đạt bằng cấp nầy nọ, mà vẫn cứ ngu dại như thường.

- Thưa mẹ, mẹ nói gì?

- Thằng ngu! Cái con Lam đó, xấu xí, da ngăm, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, ngực lép, mông teo. Ðã ăn phải bùa mê thuốc lú của nó chưa, mà đi làm mọi cho gia đình nó? Nếu nó đẹp đẽ, nghiêng nước nghiêng thành, mà mê nó, thì không nói làm chi. Xấu xí như vậy, mà cũng mê muội, mới tức chứ. Cha mẹ nói thì không nghe, lại nghe lời đứa con gái vất vơ đó. Tưởng cành vàng, lá ngọc, con vua, cháu chúa chi cho cam, con nhà tiệm ăn ...

- Mẹ đừng kỳ thị. Mẹ từng nói với con, nghề nào cũng quý. Sao bây giờ mẹ chê nghề tiệm ăn? Mẹ thấy Lam xấu, mà con thấy đẹp thì sao? Tùy theo khiếu thẩm mỹ của mỗi người.

Bà Năm cười chán nản, và chế nhạo. Lặp lại một lần nữa, cái nhận xét của bà về cô Lam:

- Ừ, cái khiếu thẩm mỹ của anh lạ lắm, đen điu, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, người lép kẹp, là đẹp, đẹp lắm. Ha ha ha ...

- Nhưng tổng hợp tất cả lại, thì nhìn rất có duyên mẹ à. Con gái, có duyên thì thu hút và hấp dẫn hơn đẹp. Con không cần vợ đẹp. Mấy cô đẹp, thì kênh kiệu, vác cái mặt lên, đòi hỏi đủ điều, và tham vọng không bao giờ ngừng. Họ khó khăn, họ tưởng đâu có cái đẹp là có quyền hành như bà hoàng. Lấy mấy cô nầy làm vợ, mệt lắm, và chưa chắc đã được lâu bền.

Bà Năm há miệng ra vì ngạc nhiên, nhìn ông con trai của bà chòng chọc. Bà nói:

- Khiếp, ăn nói như cụ già tám mươi. Ai dạy cho anh những điều đó? Thôi, anh đã khôn đến vậy, thì mẹ chịu thua.

- Thì ba mẹ vẫn thường nói vậy, và kinh nghiệm riêng của con cũng thấy thế.

Thương và cưng con, bà không muốn con bà thương ai hơn, nghe lời ai hơn là nghe lời bà. Cái ác cảm với cô Lam không làm sao vơi được trong lòng bà.

...Những khi Tâm mời Lam về nhà chơi, bà Năm cố tình làm mặt lạnh nhạt, và để lộ ra rằng, bà không ưa cô. Bà còn nói bóng gió xa gần rằng, đàn bà không có ngực, sau nầy khó nuôi con. Ðàn bà vòng mông nhỏ, sinh con khó, hiếm muộn. Lam vẫn vui vẻ, bình thường, làm như không biết bà Năm đang ám chỉ cô. Thấy thái độ của mẹ, Tâm không dám đem Lam về thăm nhà thường xuyên. Ông Năm khuyên vợ rằng:

- Bà càng tỏ ra chống đối, thì chúng nó càng khắng khít. Tình yêu là một thứ kỳ cục, càng có nhiều trắc trở, thì càng nhiều nồng nàn, cháy bỏng. Tình yêu xuôi chèo thuận mái quá, thì cũng không bền. Bà cứ để cho chúng nó tự do tìm hiểu nhau, đừng gây trắc trở, khó khăn, mà sau nầy có hậu quả không tốt, con dâu nó xa lánh gia đình chồng, và mình cũng mất con luôn.

Bà Năm cũng hiểu thế. Nhưng cái ghét bỏ cô Lam vẫn tiềm tàng trong lòng bà. Có lẽ tại vì Tâm nghe lời cô nầy răm rắp, mà không nghe lời bà, là người mẹ đã dành hết yêu thương cho con. Nó coi người khác quan trọng hơn bà. Ông Năm nói rằng, việc chi mà ganh tị tình thương? Khi còn trẻ, thì ganh với bà mẹ chồng, bây giờ thành bà mẹ chồng, thì lại ganh với con dâu.

Cứ cái vòng luẩn quẩn quay đi quay lại mãi, không được gì, mà chỉ gây thêm sứt mẻ, lộn xộn. Dân Á đông, thì mẹ chồng nàng dâu lục đục.Dân Âu Mỹ, thì mẹ vợ và con rễ không ưa nhau. Có cả ngàn câu chuyện chế giễu bà mẹ vợ do các ông viết ra. Như chuyện diễu về ông Adam, thủy tổ loài người, bảo rằng ông nầy là người đàn ông sung sướng nhất, vì ông không có một bà mẹ vợ.

Dù cho bà Năm có bóng gió, nói xấu cô Lam đến mấy, anh con trai cưng của bà vẫn không suy suyển cái tình si dành cho cô nầy. Bà mẹ có dàn cảnh, giới thiệu cho anh bao nhiêu cô gái khác, đẹp hơn, anh cũng không màng liếc mắt đến.

Bà Năm cắn răng chấp nhận cho Tâm cưới cô Lam. Bà tiếc rằng, từ nay những bà bạn có con gái đến tuổi cặp kê, hết o bế bà , bớt nồng nàn, tử tế như xưa.

...

Sau đám cưới, bà Năm xuống nước năn nỉ Tâm khoan dọn ra riêng. Anh con trai không trả lời dứt khoát, và cho biết tùy theo ý kiến của vợ. Bà Năm phải nói thẳng với cô con dâu rằng, nếu các con khoan dọn ra riêng, thì sẽ tiết kiệm được một số tiền, mua nhà sớm hơn, và tốt hơn.

Cô con dâu vui vẻ trả lời rằng, nếu ba mẹ cho chúng con ở chung trong thời gian đầu, thì chúng con mừng lắm, được ba mẹ cho ở, cho ăn, và gia đình sum vầy, thì vui hơn là tách biệt ra. Câu nói của đứa con dâu làm bà mát ruột. Sau thời gian đầu bỡ ngỡ, đứa con dâu dần dần thích nghi với sinh hoạt của gia đình. Ban đầu, bà Năm nghĩ rằng, lại phải hầu hạ thêm một cô nương nữa. Bà không ngại, miễn sao giữ anh con trai cưng của bà lại trong gia đình là được. Mỗi khi cô con dâu tự ý làm giúp cho ông bà việc gì, bà Năm nói nhỏ với chồng:

- Cô dâu nầy, ưa làm màu lắm.

Ông chồng bà trả lời:

- Thà có đứa con dâu làm màu, còn hơn là đứa ngang ngạnh, không coi ai ra gì.

Nhiều buổi sáng rất sớm, bà Năm nghe tiếng thở phì phò, tiếng huỳnh huỵch ngoài phòng khách, bà tưởng hai vợ chồng anh con trai đang làm trò khỉ. Một lần bà hé cửa nhìn xuống lầu, thấy Tâm và Lam đang múa tay, múa chân tập thể dục. Bà lắc đầu. Con trai bà, chưa thấy tập thể dục bao giờ, nay vì vợ mà tập. Bà cho rằng, con trai mà nghe lời vợ quá, cũng không tốt. Bà thử múa tay, uốn éo thân mình theo các cử động của hai người, bà nghe khoái cảm trong bắp thịt, xương cốt, và tiêu tan bớt rất nhiều mỏi mệt. Không lâu sau đó, nhiều buổi sáng, bà tập thể dục theo con, và cả ông Năm cũng tham gia. Trong phòng khách buổi sáng, theo tiếng hô của Lam, bốn người nhịp nhàng múa tay chân, hít thở trong vòng hai mươi phút trước khi ăn điểm tâm và đi làm việc. Mỗi sáng thứ bảy, chủ nhật, Tâm lái xe ra công viên rất sớm, cùng cha mẹ và vợ, chạy bộ vòng quanh sân cỏ, hít thở không khí trong lành, tập những động tác uyển chuyển.

Sau đó, cùng đi ăn sáng. Bà Năm cảm thấy, nhờ có đứa con dâu mà tình mẹ con của bà gần gũi hơn, sau bao nhiêu năm gần như gián đoạn, kể từ ngày anh bước vào tuổi mười tám, hai mươi.

Hai ông bà Năm trở nên mê cái món cháo gạo lức, nấu đặc rền, ăn với cá nục kho khô, mặn, có tiêu ớt. Ăn vào buổi sáng, do cô con dâu nấu. Ban đầu bà Năm cười cái món ăn nầy của người nhà quê. Nhưng cô dâu nói rằng, đây là món ăn vua chúa, chứ không phải món nhà quê. Sử sách có chép rõ, các ông vua triều Nguyễn rất khoái ăn cháo trắng buổi sáng. Ông bà Năm cũng phải công nhận ăn cháo vừa ngon, vừa tốt cho sức khỏe, bớt được chất béo, chất đường.

...

Mỗi buổi chiều, bà Năm về nhà trước con dâu chừng nửa giờ. Bà vào bếp chuẩn bị, cắt rau, cắt thịt. Cô con dâu vất xong cái cặp vào phòng, chạy vội xuống bếp, phụ mẹ chồng sửa soạn cơm tối. Thời gian đầu, cô phụ làm các việt lặt vặt, chỉ làm những chuyện mẹ chồng sai bảo. Cô con dâu phụ bếp, dù không phụ được gì nhiều, nhưng bà Năm thấy vui, tự ái của bà không bị tổn thương. Bà có thể hầu chồng, hầu con, chứ không muốn mang tiếng làm mọi cho cả con dâu. Nhìn thấy cô con dâu vui vẻ, hát hò trong khi làm bếp, bà cũng vui lây. Thì ra, cô làm với tấm lòng, với sự chia xẻ, chứ không phải miễn cưỡng. Cô con dâu múa dao lia lịa, cắt hành, cắt rau, ớt, nhanh như các anh đầu bếp Tàu chiếu trên truyền hình. Thỉnh thoảng, cô con dâu đề nghị bà Năm nấu món ngon cho cả nhà, ăn chơi cho vui, ăn chơi ngon hơn ăn thật, cô lảnh trách nhiệm nấu các món nầy. Cô nấu phở, bún bò, cháo lòng, hủ tiếu, bánh canh, bún riêu, mỗi chiều ăn một món thay cơm. Cả nhà vui vẻ hơn, ông Năm nói rằng, nấu ở nhà ngon như thế nầy, thì đi tiệm làm gì. Bà Năm học thêm được những bí quyết nấu ăn của cô dâu, và cộng thêm kinh nghiệm cũ, bà nấu càng ngon hơn. Bà mời bạn bè chồng đến, trổ tài nấu nướng. Nhiều người khen và khuyến khích bà ra mở tiệm ăn. Bà con, bạn bè đòi hùn vốn mở tiệm. Bà Năm sung sướng và quyết định thôi việc, ra làm kinh doanh. Trong một bữa ăn, cô con dâu nói với ông bà:

- Dì Chính bảo rằng, nếu mình ghét ai thậm tệ, muốn trả thù, thì cứ đem tiền cho mượn, xúi họ mở tiệm ăn, cho họ khổ, bỏ ghét. Làm tiệm ăn, khách ít thì lo, khách đông thì khổ, làm một ngày mười sáu, mười tám giờ cũng không hết việc. Nắng cũng lo, mưa cũng lo. Cực lắm, đầu bếp cũng cực, phụ bếp cũng cực, chủ tiệm còn cực hơn. Dì Thu bạn của mẹ con mở tiệm phở, bị ông đầu bếp bóp cổ, phải kêu cảnh sát can thiệp. Ông đầu bếp mệt và cực quá, mà Dì thì quá lo lắng, thúc hối, hỏi han. Ông nổi khùng, bóp cổ Dì. Bố mẹ con, lỡ mở tiệm, không lui được nữa, cực lắm lắm, ông bà mệt quá, gây gỗ nhau hoài. Nếu mẹ muốn mở tiệm ăn, thì hãy suy nghĩ cho kỹ lại. Ít nhất cũng giả vờ đi làm công cho thiên hạ, phụ bếp hoặc làm đầu bếp vài ba tháng cho biết đá biết vàng. Rồi quyết định.

Nghe con dâu nói bà hoảng hồn. Không dám ra làm kinh doanh nữa.

...

Nhiều hôm, cô con dâu hớt hải chạy về kêu bà Năm thay áo quần ra xe đi gấp, ra phố mua hàng với cô. Vì hàng hạ giá, chỉ còn một hôm nữa là hết hạn. Cô ríu rít khoe rằng có người mách cho biết, hàng hạ xuống trên bảy mươi lăm phần trăm, không mua uổng lắm.

Bà vui vẻ ngồi bên đứa con dâu, cô vừa lái xe vun vút trên xa lộ, vừa nói chuyện vui vẻ. Khi vào tiệm, cô ép bà thử áo nầy, thử váy kia, tíu tít. Rồi cô con dâu dành trả tiền mua áo quần cho mẹ chồng. Để bà khỏi thắc mắc, cô nói:

- Tiền nầy do anh Tâm làm ra, mẹ có quyến xài. Anh Tâm sẽ rất vui, khi biết mẹ dùng tiền nầy.

Sau đó, hai mẹ con rủ nhau đi ăn, ngồi nói chuyện trong quán, và mua thức ăn về cho cả nhà.

Có lần bà Năm giận ông chồng, ngồi khóc. Cô con dâu đến ôm bà, vuốt ve và hôn lên trán bà mà an ủi. Cô kéo bà đứng dậy, đi rủ bà lên San Francisco chơi.

Hai mẹ con đi bộ long rong qua chợ Tàu. Khi đã mỏi chân, cô con dâu cùng bà vào quán cà phê, ngồi ở dãy bàn dọn lấn ra trên lề đường cùng uống trà, ăn kem. Ngồi nhìn thiên hạ qua lại, cô con dâu nói với bà:

- Ngồi đây, đôi khi cũng thấy tâm hồn thư giản. Nhìn cái tất bật của thiên hạ, thấy cái nhàn nhã của mình, rồi biết quý cái hạnh phúc đơn sơ mà mình đang có.

Bà Năm cũng thấy vui vui, và quên bớt đi cái giận hờn ông chồng. Cô dâu nói với bà:

- Trời có khi nắng khi mưa, vợ chồng có khi vui khi buồn. Rồi mọi sự đều qua. Khi nào buồn, con đem mẹ đi chơi, giải trí. Hôm nào hai mẹ con mình rủ nhau đi xem chớp bóng, khuya mới về, để cho các ông ở nhà chờ, và đói một bửa chơi. Như vậy, các ông mới biết quý cái không khí ấm áp của bữa cơm bình thường mỗi ngày trong gia đình.

Mỗi buổi sáng, ông Năm đều nhắc rằng, nhờ có cái máy cà phê áp suất do cô con dâu mua tặng, nên ông có cà phê ngon mà uống. Đến sở khỏi phải tốn tiền mua cà phê áp suất bên góc đường. Nhiều hôm cô con dâu mua thức ăn ngon bên ngoài đem về. Ríu rít nói là cô ăn ngon quá, mua về cho cả nhà ăn cho vui. Không cần ăn ngon hay dở, nghe thế là bà Năm đã cảm động. Xưa nay, con bà, chồng bà, chưa hề thấy ngon mà mua về cho bà.

Sau một thời gian ở chung với cô con dâu, đi đâu, bà Năm cũng khoe là bà có thêm một đứa con gái, có thêm một người bạn thân để tâm sự khi vui buồn. Bà nói thêm, từ ngày anh con trai có vợ, gia đình thấy vui vẻ, hạnh phúc và thương yêu nhau hơn. Bà khen anh con trai khôn ngoan và khéo chọn bạn trăm năm. Bà không còn chê cô dâu là trán ngắn, mắt hí, miệng móm nữa.

...

Một hôm đã khuya, bà Năm thức giấc xuống lầu uống nước, thấy có bóng người thấp thoáng ở sân sau nhà, bà ghé mắt nhìn. Trăng vằng vặc trải ánh vàng xuống khắp vườn. Bà thấy Tâm quàng tay qua vai vợ ngồi tựa ngữa, chân gác lên ghế. Bà nghe tiếng thì thầm:

- Đôi khi thấy mẹ anh thương, và bênh em, làm anh phát ghen lên. Em làm gì mà mê hoặc được mẹ anh đến thế?

Tiếng cô con dâu trong trẻo đáp lại:

- Thương yêu và thông cảm. Đem hết tấm lòng mình ra mà đãi người, rồi sẽ được đáp lại bằng tấm lòng. Nhờ em biết thương yêu ba mẹ anh như ba mẹ ruột, thì ông bà mới thương yêu em như con ruột. Em có thêm một ông bố, một bà mẹ, một cô em, có thêm nhiều tình thương. Từ đó, vợ chồng mình hòa thuận hơn, thương yêu nhau hơn, và lâu bền hơn, hạnh phúc hơn.

Bà Năm len lén trở lại phòng, chíp miệng và nghĩ rằng, bà đã già một đời mà còn ngu dại, cứ ganh ghét với gia đình chồng, ganh ghét với con dâu. Bọn trẻ con ngày nay, có nhiều đứa khôn nứt hạt.

Tràm Cà Mau

Viet Nam


Tuổi học trò - Trường cũ tình xưa

Thursday, September 1, 2011

VietTuSaiGon's blog


Phật thầy Huỳnh Phú Sổ tái sanh?

Thời gian qua, clip có tên “Bé Như Ý thuyết giảng đề tài tu hành” được post lên YouTube, thu hút mấy chục ngàn lượt xem, không “hot” như chuyện giới showbiz hay lãnh tụ phát ngôn bậy bạ, nhưng như vậy cũng là khá nhiều với một đề tài quá nghiêm túc.

Nhiều người quen chuyện thuyết pháp, xem clip này xong, thấy phong độ khác lạ một cách đĩnh đạc của Như Ý (9 tuổi), đều dễ có sự so sánh rồi đi đến nhận định: Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay khó tìm được ai ăn nói từ tốn, hòa nhã như vậy.

Thật khó tin một cô bé 9 tuổi thể hiện được phong thái thu hút, nhất là vốn từ và vốn Phật pháp mà cô thể hiện còn đáng kinh ngạc hơn, nên đây đó có nhiều ý kiến trong dân gian cho rằng Phật thầy Huỳnh Phú Sổ tái sanh?!

Khi ngài Huỳnh Phú Sổ ra đi, phần lớn đạo hữu vẫn tin rằng ngài tạm lánh đời để quay trở lại trong thời gian sau đó.

Bé Như Ý giống Phật thầy ở khả năng giác ngộ từ rất sớm. Phật thầy giác ngộ lúc lúc 17-18 tuổi, Như Ý lúc 8-9 tuổi.

Mà khi nghĩ đến ngài Huỳnh Phú Sổ thì nhiều người đầy lo lắng, vì mãi đến sau này vẫn chỉ biết ngài mất tích hoặc bị thủ tiêu (năm 1947), mà không có bên nào đứng ra chịu trách nhiệm về việc này.

Mãi đến tới tháng 6/1999, Ban tôn giáo Chính phủ của Việt Nam mới ra quyết định công nhận Phật giáo Hòa Hảo được hoạt động chính thức ở Việt Nam. Nhưng hơn 10 năm qua, đạo này vẫn bị xếp vào khu vực nhạy cảm, bị theo dõi, bị giám sát cực độ. Gần 3 triệu tín đồ vẫn phải sinh hoạt âm thầm, luôn bị kì thị.

Từ sau 1945 đến nay, số người theo Hòa Hảo bị ám hại bao nhiêu thì thật khó nói, nhưng có thể lên đến hàng ngàn. Cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo vẫn còn ghi chép các vụ ám hại, bắt bớ đây đó.

Trong hồi ký Lớn lên với đất nước của Vy Thanh, trang 417, có đoạn viết: “Ngày 5-9-1945, bộ tham mưu của Huỳnh Phú Sổ vạch kế hoạch cướp chính quyền ở thị xã Cần Thơ… huy động tín đồ mang theo cây roi, gậy gộc ‘đi rước đức Thầy’, nhưng thực chất dùng lực lượng đông đảo tín đồ để cướp chính quyền tỉnh dự định vào ngày 9-9-1945. Các lực lượng vũ trang của chúng ở các tỉnh phía Bắc sông Hậu, tập trung tại Tổng hành dinh Cái Vồn. Số tín đồ phía Nam sông Hậu thì tập trung sớm ở thị xã Cần Thơ.

Ngày 7-9-1945, Tỉnh ủy Cần Thơ đã nắm được kế hoạch này. Ta chủ trương kiên quyết trấn áp bọn phản động đầu sỏ, còn đối với tín đồ thì giáo dục, thuyết phục, làm chọ thấy được âm mưu và hành động của bọn cầm đầu phản động. Chúng đã dự định huy động 15.000 tín đồ tiến vào thị xã Cần Thơ ngày 9-9, nhưng chúng thất bại. Lực lượng vũ trang của chúng ở Cái Vồn đã bị ta đánh tan khi chúng dự định vượt sông Hậu sang thị xã Cần Thơ.

Ta bắt Nguyễn Xuân Tiếp [bút hiệu Việt Châu], người chuyên thảo kịch sấm cho Huỳnh Phú Sổ, Trần Văn Hoành [con của Năm Lửa], Huỳnh Phú Mậu [em của Huỳnh Phú Sổ]. […] Cuộc bạo động ở Phụng Hiệp, Ô Môn cũng bị dẹp tan. Qua những ngày điều tra, thành lập tòa án nhân dân [nhiều thành phần]. Tòa tuyên án tử hình: Huỳnh Phú Mậu, Trần Văn Hoành, Nguyễn “Văn” Thiệp. Chưa kể 3 người chết và 27 người bị thương, không ai bị vết đạn nào, toàn là gươm giáo đâm lẫn nhau và chết đuối”.

Khoảng 15 ngàn người đi biểu tình, “lực lượng vũ trang của chúng ở Cái Vồn đã bị ta đánh tan”, vậy mà tác giả có thể dễ dàng hạ một câu như giỡn: “không ai bị vết đạn nào, toàn là gươm giáo đâm lẫn nhau và chết đuối”.

Nhiều lần trước đây, trong các cuộc phỏng vấn Trần Văn Giàu, người khá rành và có những quan hệ hữu cơ với Huỳnh Phú Sổ, từng trực tiếp ra lệnh bao vây, bắt bớ và ám sát hụt vài lần, nhưng đều quy trách nhiệm và sai lầm cho địa phương.

Serei Blagov, giáo sư người Nga, tác giả các sách Honest Mistakes: The Life and Death of Trình Minh Thế (1922-1955): South Vietnam's Alternative Leader và đồng tác giả Hòa Hảo Buddhism in the course of Viet Nam History đã có dịp phỏng vấn Trần Văn Giàu, ông Giàu cũng quy trách nhiệm cho địa phương.

Với nhiều thủ thuật tuyên truyền và cô lập thông tin trong nhiều thập niên, tiếng nói của người dân về những “oan ức” của nhiều người theo Hòa Hảo đã không đến được nhiều nơi; không được hiểu đúng. Đến mức, trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học, những nhà nghiên cứu có tính trung lập đây đó vẫn cho rằng Huỳnh Phú Sổ bị mất tích do chủ trương vũ trang.

Trong hồi ký của Nguyễn Hiến Lê, chương 18 có tên “Tôi qua Long Xuyên - Huỳnh Phú Sổ bị thủ tiêu”, viết: “Mùa xuân năm 1947 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ đồ bà ba đen và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về làm một tễ thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Liệp.

Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả miền quê hương thầy Tư Hòa Hảo từ phía trên Chợ Mới xuống tới phía dưới Mĩ Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hòa Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì có tin thầy Tư bị thủ tiêu trong buổi họp đêm 16-4-47 ở địa phận làng Tân Phú, cách nhà bác tôi độ vài cây số. Huỳnh Phú Sổ quá tín, chỉ dắt theo bốn vệ sĩ nên bị hại. Tôi đã hỏi vài người bạn trong nhóm đồ đệ thân tín của thầy, họ bảo tất cả tín đồ đều tin rằng thầy không thể chết được, thầy chỉ tạm lánh mặt trong một thời gian thôi rồi sẽ trở về. Họ dẫn vài câu thơ của thầy nói trước về vụ đó nữa. Tới nay họ vẫn còn nói như vậy. Họ cố bám vào một hi vọng hão huyền chăng?

Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại Long Xuyên vài tháng cho yên vụ đó đã, không dè tới trên sáu năm”.

Thông tin ngoài xã hội và giới nghiên cứu thì như vậy, chứ trong ngành an ninh Việt Nam thì hoàn toàn khác.

Cuốn Từ điển nghiệp vụ phổ thông do Viện Nghiên cứu khoa học công an (Bộ Nội vụ) biên soạn và xuất bản 1977 tại Hà Nội, mục từ “Đạo Hòa Hảo” (trang 168, cột bên trái, dòng thứ 2 từ dưới lên, và cột phải, dòng 1 tới 5 từ trên xuống), có viết như sau: “Năm 1947, Sổ bị ta giết, tổ chức bị phân hóa, chia làm 5 nhóm tranh giành ảnh hưởng, thế lực nhưng tất cả đều do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ điều khiển và lợi dụng...” (tiếp theo, trang 169, dòng 1 tới 8, từ trên xuống, cũng thuộc mục từ trên, viết: “Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, những tên cầm đầu ngoan cố chống lại cách mạng đã bị ta bắt với tang chứng đầy đủ, buộc chúng phải tuyên bố giải tán Ban trị sự trung ương và Ban trị sự các địa phương”.

Trở lại chuyện thuyết giảng của bé Như Ý, với các buổi nói chuyện về đạo pháp (toàn chuyện tốt đẹp) với hàng trăm, hàng ngàn người nghe, đáng lý phải vui, nhưng cũng khiến cho những người hiểu việc lo lắng. Bởi trong một xứ sở toàn trị, chỉ thượng tôn mỗi tôn giáo vô thần, mọi mê tín chỉ xoáy vào danh lợi, việc lên kế hoạch thủ tiêu một ai đó đi khác nhu cầu đảng phái, vẫn còn là chuyện quen tay và có vẻ khá dễ dàng.

Cho nên việc bảo vệ và tạo hành lang thông thoáng để Như Ý có thể phát dương quang đại là việc không của riêng những tín đồ, đạo hữu Hòa Hảo, mà còn lạ việc của một xã hội dân sự, với ước mong có một đời sống bình thường, cơ hội cá nhân được tôn trọng.

VietTuSaiGon's blog
Đọc thêm : wikipedia Hoahao.org  -  levantrung  - Nammo  -  yume  -  Khoi8406  -  motgoctroi