Saturday, April 20, 2024

 NHỚ VỀ QUẢNG TRỊ

Thơ: Tạ Nghi Lễ
Nhac: Nguyễn Tất Tùng 
Nguyễn Lợi hát
Bolero Mái Lá



Thursday, April 18, 2024

 CON ĐƯỜNG BUỒN THIU 

Nước buồn thiu con đường đổ lệ,
Những oan khiên đè nặng đôi đường.
tth

 Nghe nhạc: Con đường buồn thiu – Quảng Trị yêu dấu

Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương lần 1(1946-1954) hay còn gọi là chiến tranh Việt-Pháp vùng Trị-Thiên khói lửa là nơi xảy ra các trận giao tranh lớn, nhỏ giữa 2 bên.

Quân đoàn Viễn Đông Pháp(French Far East Expeditionary Corps)gần nửa triệu binh sĩ gồm Pháp, Algeria, Maroc, Madagascar, Senegal, Tunisia…và Binh đoàn Lê dương (Foreign Legionnaires) là lực lượng viễn chinh thuộc địa của Quân đội Liên Hiệp Pháp, từ sau năm 1946, những người lính trong các binh đoàn lính lê dương này đã đặt cho tên gọi Con Đường Không Vui(La Rue Sans Joie) với chỉ 1 chi tiết nhỏ là  nếu không mang áo giáp thì không nên đi trên con đường này. Sau này thế giới biết tên con đường này qua quyển sách Con Đường Buồn Thiu (Street Without Joy) của ký giả người Pháp là Bernard B. Fall.(Hình phải: Con Đường Buồn Thiu theo tài liệu quân sự Mỹ, bản đồ Ray Smith)

Con Đường Buồn Thiu là một đoạn của con đường đất dài  khoảng 25km thuộc  tỉnh lộ 68-QT nay đổi thành Quốc lộ 49C, dọc theo sông Vĩnh Định chạy dài từ làng Phương Lang, Phú Hải, qua các làng Cổ Lũy, Ba Du, Đa Nghi, Đơn Quế, Kim Long, Kim Giao, Đồng Dương cho đến làng Xuân Viên, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Đoạn đường dài hơn 10km chạy qua các thôn, làng nhỏ nằm dọc theo cồn cát ven biển và các cánh đồng lúa, cách Quốc lộ 1 khoảng 9km và Biển Đông 6km mà tâm điểm chính là làng Đơn Quế, huyện Hải Lăng này được đặt tên gọi là Con Đường Buồn Thiu từ trận chiến chính và ác liệt nhất trong cuộc hành quân Camargue năm 1953 nhằm tiêu diệt Trung đoàn 95, trung đoàn chính quy đầu tiên thành lập trên đất Quảng Trị, cùng Tỉnh đảng bộ cọng sản, du kích địa phương đang đóng quân nơi này, đồng thời tái lập chính quyền quốc gia tại đây.

  Theo dấu vết các cuộc hành quân của quân đội Pháp và Mỹ trong 2 cuộc Chiến tranh Đông Dương(1945-1975)thì có thể Con Đường Buồn Thiu nối dài thêm 2 đoạn phụ, tùy theo theo bản đồ hành quân:

   – Đoạn dọc theo biển từ làng Xuân Viên, đến làng Thanh Hương, xã Điền Hương, vô tới làng Thế Chí, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế .

   – Đoạn đi từ làng Xuân Viên, vượt sông Ô Lâu đến làng Vân Trình, qua làng Lai Hà, lên tới Sịa thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế, hoặc từ làng Vân Trình theo quốc lộ 49C hiện nay lên đến Mỹ Chánh, gặp Quốc lộ 1.

Tại Con Đường Buồn Thiu, 2 năm trước khi xảy ra trận đánh dữ dội trong số các trận đánh  hàng đầu trong chiến tranh Đông Dương qua cuộc hành quân Camargue, hay trận Đơn Quế, có :

   – Trận Thanh Hương  xảy ra trong 3 ngày, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 3 năm 1951, phía Pháp xử dụng 2.200 quân lính Lê dương và Quân đôi quốc gia cùng lực lượng thiết giáp, hải quân và không quân. Chiến lược của Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, là “bình định cấp tốc, phản công quyết liệt” bao vây 2 trung đoàn chủ lực  95  Quảng Trị và trung đoàn chủ lực 101 Thừa Thiên cùng du kích địa phương tại vùng duyên hải  mà trận chiến chính tại làng Thanh Hương-Vĩnh Xương, phía Bắc Thừa Thiên giáp Nam tỉnh Quảng Trị, được viết  trong hồi ký Những ngày khói lửa của Trung tướng Quân đội Nhân dân VN Trần Quý Hai.

   – Cuộc hành quân Châu chấu (Operation Sauterelle) tảo thanh từ ngày 25 đến 28 tháng 8 năm 1952 tại các vùng thuộc phía Đông tỉnh Quảng Trị.

Hành  quân Camargue(Operation Camargue)hay là Trận Đơn Quế, qua tài liệu từ trang 386 đến trang 389 cuốn Lịch sử Đảng bộ Cọng sản tỉnh Quảng Trị.

Hành  quân Camargue năm 1953 xuất phát từ bối cảnh lịch sử của hành động quân sự chiến lược của người Pháp sau 8 năm chiến tranh, dựa trên thực tiển tình thế xung đột vùng châu Á-Thái Bình Dương: chiến tranh Triều Tiên kết thúc ngày 27 tháng 7 năm 1953. Mao Trạch Đông chiếm lục địa Trung Hoa(1949) và là hậu phương lớn viện trợ tài lực nhằm bành trướng đại Hán và chủ nghĩa cọng sản tại Việt Nam,  Hoa Kỳ can thiệp vào Đông Dương sau khi Pháp yếu thế, cùng diễn biến tình hình quân sự ba nước Đông Dương và cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ thành lập nhằm bảo vệ thương Lào và là mồi nhử Quân đội Nhân dân VN trong trận chiến cuối cùng.

Tháng 5 năm 1953, Tướng Henri Navarre nắm quyền chỉ huy lực lượng Pháp khi chiến tranh Việt- Pháp đã kéo dài 8 năm. Navarre quyết định một chiến thuật tấn công mới ở Đông Dương “dựa trên các lực lượng mạnh, di chuyển nhanh” và Chiến dịch Camargue hình thành là hiện thực hóa điều đó. Hành quân Camargue được đặt tên theo vùng đầm lầy và đồi cát ở Camargue phía tây Marseille, giữa biển Địa Trung Hải và hai nhánh sông ở vùng hạ lưu sông Rhône, trong trận chiến Pháp-Đức năm 1944(Hình phải trên: Vùng Camargue bên Pháp). Địa hình hiểm trở gồm đồi cát và đầm sình lầy mà Operation Camargue đối đầu là yếu tố quyết định tạo cơ hội và lợi thế lớn cho Việt Minh.

Cuộc hành quân Camargue từ  ngày 28 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1953, suốt 13 ngày nhằm bình định và truy lùng Trung đoàn 95 cùng các cơ quan của tỉnh, huyện đóng tại làng Đơn Quế và du kích quân, đồng thời bình định, tái lập chính quyền quốc gia tại vùng duyên hải này.

 Cuộc hành quân do Thiếu tướng Georges Leblanc, Tư lệnh Quân đội Pháp tại miền Trung Việt Nam chỉ huy, cùng 2 đại tá, 2 trung tá phụ trách 4 cánh nhằm bao vây, tiêu diệt Trung đoàn chủ lực 95 , đơn vị chủ lực của Phân khu Bình Trị Thiên hồi bấy giờ, là một trong những chiến dịch lớn nhất của Quân đoàn Viễn Đông Pháp và Quân đội Quốc gia Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất tại vùng duyên hải tỉnh Quảng Trị, được so sánh với các cuộc hành quân lớn trong thế chiến thứ 2 tại châu Á.

Địa bàn trải dài 20km rộng 300m trong bản đồ hành quân thuộc  vùng duyên hải  gồm hơn 24 ngôi làng với địa hình là các đồi cát cao thấp, cát lún đầm lầy cạnh phá Tam Giang, vòng vây thu hẹp còn lại 1 nửa, chiều dài là 10km mà trận chiến chính xảy ra tại làng Đơn Quế, trung tâm điểm của Con Đường Buồn Thiu này. Thế trận 2 bên :

– Lực lượng phía VM có Trung đoàn 95 gồm 2.600 binh lính, đã đóng quân tại làng Đơn Quế từ năm 1951 cùng lực lượng du kích địa phương . Đại tá  Việt Minh là Trần Quý Hai chỉ huy trận chiến này.

– Lực lượng Pháp phối hợp ba lực lượng không quân từ Hà Nội, hải quân từ Đà Nẳng và bộ binh 30 tiểu đoàn, hai trung đoàn thiết giáp và hai trung đoàn pháo binh. Bản đồ hành quân Camargue trong sách Street Without Joy của Bernard Fall dẫn giải cuộc hành quân bắt đầu gồm 4 cánh  A-B-C-D cùng các đơn vị tham gia hành quân:(xem địa hình).

- Cánh A: tàu thuyền đổ bộ vào biển Mỹ Thủy, huyện Hải Lăng.
. Cánh B: bộ binh từ tỉnh lỵ Quảng Trị theo Tỉnh lộ 68/QT tiến vào làng Đơn Quế, huyện Hải Lăng.
. Cánh C: Bộ binh và thiết giáp từ Mỹ Chánh theo Tỉnh lộ DT6/TT hướng về Đông xuống làng Vân Trình.
. Cánh D: từ biển đổ bộ lên làng Thế Chí Tây, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Mỗi cánh quân bao gồm các đơn vị chuyên biệt đi kèm(xem bản dồ hành quân trên)

Và thắt chặt vòng vây bởi các đơn vị tham chiến từ làng Đơn Quế đến làng Lai Hà, cạnh vùng đầm lầy bên Phá Tam Giang(The net closes, D-day nightfall) tâm điểm tại làng Vân Trình sau 7 ngày, cho đến khi cuộc hành quân kết thúc, ngày 4 tháng 8.


Để rõ hơn trận chiến này, xin vui lòng đọc thêm bản dịch Chương 7-Con Đường Buồn Thiu từ trang 144 đến trang 179 trong Street Without Joy, Stackpole books, Harrisburg,Pa. ấn bản năm 1994 của Bernard Fall mô tả toàn bộ cuộc hành quân Camargue của nhà văn Tuệ Chương Hoàng Long Hải .

Báo chí giai đoạn đó cho rằng chiến dịch này đã thành công hoàn toàn, một lần nữa chứng tỏ tính mạnh mẽ và cơ động mới của quân Pháp. Tuy nhiên, trong những ngày sau khi chiến sự kết thúc, báo chí đưa tin về việc Pháp không bắt được số lượng lớn Việt Minh như dự liệu. Mặc dù tờ báo Anh, The Times, đã công bố con số thương vong là 1.550 về phía Việt Minh, 200 trong số đó đã bị giết. Con số ước tính này đã được người Pháp công bố là 600 người chết hoặc bị thương và 900 người bị bắt. Ngược lại, những con số này, Bernard Fall ghi nhận 182 Việt Minh chết và 387 bị bắt làm tù binh. Tịch thu 51 khẩu súng trường, 8 súng máy, 2 súng cối và 5 khẩu BAR đã bị thu giữ.

Phía quân Pháp gồm 17 người chết và 100 người bị thương.

Trung  tướng Lâm Quang Thcủa Quân lực Việt Nam Cọng Hòa viết trong hồi ký “Thế Kỷ Hai Mươi Lăm Năm: Một Vị Tướng Miền Nam Nhớ Chiến Tranh Đông Dương Đến Sài Gòn Thất Thủ” (The Twenty-five Year Century: A South Vietnamese General Remembers the Indochina War to the Fall of Saigon)cho rằng Chiến dịch Camargue hay Trận Đơn Quế, là một trong những hoạt động quân sự thành công nhất của Pháp trong Chiến tranh Đông Dương .

Bernard B. Fall(1926-1967)viết 8 quyển sách về Chiến tranh Đông Dương(1946-1975)trong đó có cuốn Street without Joy: The French Debacle in Indochina, nhà xuất bản Stackpole books, Harrisburg,Pa. ấn bản năm 1994, sách dày 408 trang (in lần đầu năm 1961).

 Quyển sách này có 15 chương, gồm: Lời giới thiệu, Lời nói đầu, Tựa đề của tác giả.

  1. Chiến tranh diễn ra như thế nào, 2. Trận chiến theo quân I, 3. Trận chiến theo quân cờ II, 4. Nhật ký: Kiếm sữa, 5. Tiền đồn Lào, 6. Nhật ký: Những người Phụ Nữ, 7. “Con dường buồn thiu”, 8. Nhật ký: Chuyến khảo sát, 9. Kết thúc Đội Đặc nhiệm, 10. Nhật ký: Những người đàn ông, 11. Hành trình chết chóc, 12. Tại sao là Điện Biên Phủ? 13. Lào Mất, 14. Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, 15. Tương lai của chiến tranh cách mạng.

Các phụ lục: I, II, III, IV.

Chương 7-Con dường buồn thiu trong Street Without Joy mô tả toàn bộ chi tiết cuộc hành quân Camargue.

Street without Joy là một tiểu luận về lịch sử chính trị quân sự của cuộc chiến chủ yếu diễn ra giữa Quân đội Pháp và Việt Minh, phác thảo đường lối, chủ trương chống chiến tranh du kích với tư cách nhà báo tại chiến trường và giáo sư trên bục giảng tại Mỹ.

Nhà báo hay học giả về chiến tranh Đông Dương Bernard Fall đã ghi lại một cách sống động những cảnh tượng, âm thanh và mùi vị của cuộc xung đột tàn khốc và phức tạp về mặt chính trị giữa người Pháp và người lãnh đạo Cộng sản ở Đông Dương. Người Pháp đã chiến đấu đến cùng, nhưng ngay cả với những lợi thế chết người của quân đội hiện đại, họ cũng không thể ngăn chặn được cuộc nổi dậy của Việt Minh bằng chiến thuật đánh rồi bỏ chạy, phục kích, bẫy mìn và đột kích vào ban đêm. Thất bại cuối cùng của Pháp xảy ra tại Điện Biên Phủ năm 1954, tạo tiền đề cho sự tham gia của Mỹ và một chương đẫm máu hơn trong lịch sử Việt Nam. Fall kết hợp báo cáo bằng hình ảnh với kiến ​​thức học thuật sâu sắc về Việt Nam và lịch sử thuộc địa tại đây trong một cuốn sách đáng nhớ với những mô tả về chiến đấu trong rừng rậm, vùng sình lầy với những lập luận sâu sắc,  nhưng người Pháp lẫn Mỹ lại không muốn quan tâm.

Bernard B. Fall vốn là lính trong quân đội Pháp lúc 20 tuổi(1946), nên khi qua Việt Nam với tư cách nhà báo, ông dễ dàng và thuận tiện theo chân Quân đội viễn chinh Pháp để viết về chiến tranh tại 3 nước Việt-Miên-Lào.

Lại thêm là một giáo sư giảng dạy tại Đại học Howard,Washington D.C, Hoa Kỳ (1962) sau này Fall ủng hộ sự hiện diện của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tin rằng nó có thể ngăn đất nước này khỏi rơi vào vòng chủ nghĩa cộng sản, nhưng ông chỉ trích mạnh mẽ các chiến thuật mà quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam cùng sự thiếu hiểu biết về lịch sử dân tộc này.

Khi xung đột giữa lực lượng Mỹ và cộng sản ở Việt Nam leo thang trong suốt những năm 1960, Fall ngày càng bi quan về cơ hội thành công của người Mỹ. Ông dự đoán nếu không rút kinh nghiệm từ sai lầm của Pháp thì Việt Nam cũng sẽ thất bại. Fall đã viết nhiều bài báo phân tích chi tiết về tình hình Việt Nam và thuyết trình rất nhiều về ý tưởng của ông về Chiến tranh Việt Nam. Nghiên cứu của Fall được nhiều nhà ngoại giao và quan chức quân sự Mỹ coi trọng, nhưng những ý kiến ​​tiêu cực của ông thường bị phản bác. Ngoại trưởng John Foster Dulles năm 1958, đã phản đối ý tưởng của Fall về chống nổi dậy ở Việt Nam (Hình phải: Hình B.Fall trên bìa sách của Dorothy).

Bernard Fall tiên đoán những thất bại của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam vì chiến thuật và sự thiếu hiểu biết về xã hội tại đây.

Giới trách quân sự Pháp-Hoa Kỳ ít chú trọng quan điểm, phương sách chống du kích cọng sản, cách mạng nổi dậy của  Bernard B. Fall. Việt Nam Cọng Hòa cảnh giác về việc xem chừng Fall tỏ ra lưu tâm Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa khi gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh và phỏng vấn Phạm Văn Đồng.

Trong cuốn tự truyện My American Journey Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Colin Powell, 2 lần(1962,1968)phục vụ tại VN, được huân chương Chiến sĩ dũng cảmvì hy sinh cứu đồng đội, cùng giẫm phải bẫy chông VC, xuất bản năm 1995, viết: “Gần đây tôi đã đọc lại cuốn sách về Việt Nam của Bernard Fall, Con Đường Buồn Thiu. Fall cho thấy rõ một cách đau đớn rằng chúng tôi hầu như không hiểu gì về những gì chúng tôi đã dấn thân vào. Tôi không thể không nghĩ rằng nếu Tổng thống Kennedy hay Tổng thống Johnson dành một ngày cuối tuần yên tĩnh ở Trại David để đọc cuốn sách sâu sắc đó, họ sẽ quay trở lại Nhà Trắng vào sáng thứ Hai và ngay lập tức tìm ra cách thoát khỏi bãi cát lún của Việt Nam.”

Ngày 21 tháng 2 năm 1967, tác giả người Mỹ gốc Pháp Bernard Fall, trong cuộc “Hành quân Chinook II” khi đang tuần tra cùng các đơn vị của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 9 Thủy quân lục chiến gần Huế dẫm mìn định hướng bị tử thương cùng và Trung sĩ Pháo binh Byron G. Highland, cũng là 1 nhiếp ảnh gia gần đó thiệt mạng tại làng Lai Hà(Hình bên: Cấp cứu Bernard Fall và Byron Highland sau vụ nổ mìn).

“Đầu tiên, khoảng 4 giờ 30, bóng tối đang kéo dài. và chúng ta đã đạt đến một trong những ranh giới phía sau cuộc đọ súng và nó có mùi rất khó chịu, có nghĩa là nó hơi đáng ngờ… Có thể là một kế nghi binh…..” Bernard Fall chết trước khi kịp nói hết câu. Quả mìn nổ đã gây thử thương ngay cho Bernard Fall và Trung sĩ Pháo binh Byron G. Highland, khi Fall đang tường thuật trực tiếp về đài CBS tại Mỹ vào chiều ngày 21 tháng 2 năm 1967 trên con đường đất hai bên trồng lúa. Thi hài được người vợ đau khổ qua Đà Nẳng đưa về Mỹ và an táng tại nghĩa trang Rock Creek ở Washigton D.C.

                                                 Ngay sau cái chết của Bernard Fall, cuốn sách Những Suy Ngẫm Cuối Cùng Về Một Cuộc Chiến (Last Reflections on a War), được xuất bản (lần đầu 1967), như là một sự tưởng nhớ cuộc đời ông. Tài liệu  bao gồm tự truyện duy nhất được biết đến về công việc của ông, một số bài báo chưa được xuất bản trước đó, những ghi chú lại  và các bản ghi âm về các đoạn băng ghi âm của Tiến sĩ Fall, bao gồm cả những lời được ghi âm cuối cùng của ông. (Hình phải:Bia mộ Bernard B.Fall)

Vợ của ông, Dorothy Fall đã bày tỏ lòng kính trọng đối với ông với tư cách là một học giả quân nhân, Fall cũng là một nhà báo từng đoạt giải thưởng Polk với các bài báo xuất hiện trên Tạp chí New York Times, The Nation, The New Republic và tạp chí Ngoại giao. Bernard Fall là một nhà lý luận về chiến tranh, một người đã nhìn thấy nó từ mặt đất. Fall đã nói với một sĩ quan Thủy quân lục chiến vài ngày trước khi chết, rằng Fall muốn có mặt ở “nơi hành động”. Nhất quyết trải nghiệm Chiến tranh Việt Nam như những ngườì lính.

Năm 2018, nhà báo Matthew  Stevenson chụp con đường năm 1967 (xem 1′.03″video) nơi mà Bernard Fall tử nạn vì mìn tại làng Lai Hà, xã Quảng Lợi,(hình dưới) huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cạnh Phá Tam Giang, cách chợ Sịa khoảng 8km, cách trung tâm(tại làng Đơn Quế) Con Đường Buồn Thiu khoảng 15km, nằm trên đường  4 ĐT Thừa Thiên-Huế hiện nay. Bài báo viêt:

“Nhiều năm sau khi chồng mất, năm 1997 Dorothy Fall cùng các con gái đến làng Lai Hà. Nhưng họ chỉ đến gần được địa điểm chính xác, nơi mà lẽ ra đã bịến mất trong sương mù chiến tranh. Cô ấy viết: Chúng tôi đi bộ đến một địa điểm vắng vẻ ở rìa làng trông giống như điểm bắt đầu của Con Đường Buồn Thiu. Với tất cả sự nổi tiếng của nó, nó chỉ là một con đường dẫn vào vùng đầm lầy. Chúng tôi đã không đến tận nơi Con Đường Buồn Thiu. Mà như thế cũng đã đủ.”

Vợ của nhà báo quá cố Bernard Fall, Dorothy Fall  là 1 nghệ sĩ, viết cuốn “Bernard Fall: Memories of a Soldier“-Scholar-Potomac books – 2007 kể về chồng, câu chuyện về người 1 Pháp dũng cảm và có ảnh hưởng, người đã trải qua nhiều sự kiện lớn của thế kỷ XX. Mẹ chết ở Auschwitz, cha bị Gestapo giết, và bản thân Bernard Fall đã chiến đấu trong quân kháng chiến Pháp . Nhưng tất cả tập trung vào Việt Nam và hai câu chuyện tình yêu. Những chi tiết đầu tiên về tình yêu của Fall dành cho Việt Nam và những nỗ lực cứu đất nước khỏi bị tàn phá và cứu nước Mỹ khỏi thảm họa. Phần thứ hai cho thấy một người chồng và một người cha cống hiến hết mình. .

Hậu quả của cuộc Chiến tranh Đông Dương(1946-1954)làm:

– Phía Pháp và Quốc gia VN có :

. Liên Hiệp Pháp: 74.220 người chết (20.685 là người Pháp), 64.127 người bị thương.
. Quân đội Quốc gia VN: 58.877 người chết hoặc mất tích.
Tổng cộng:  134.500 người chết hoặc mất tích

– Phía Việt Minh có 175.000–300.000 người chết hoặc mất tích

– Khoảng 400.000 thường dân thiệt mạng

 Có khoảng hơn 63 nhà báo chết và mất tích trong khoảng thời gian 20 năm, từ năm 1955 đến năm 1975.

Đó là chưa nói đến cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 (1954-1975) cùng những hậu quả tàn khốc vô lường của nó.

Con Đường Buồn Thiu(1953) và Đại Lộ Kinh Hoàng(1972) là những khổ đau chồng chất mà nhân dân Quảng Trị phải hứng chịu do chủ trương bạo động dùng súng đạn để giải quyết những tranh chấp chính trị tại Việt Nam, quả là sai lầm tệ hại.

Học giả Phạm Quỳnh nhân danh là một người quốc gia, trong thư gửi  Bộ trưởng thuộc địa Pháp Paul Reynaud để thuyết phục, đồng thời cũng để đả thông dư luận trong nước, năm 1932 viết: “Chúng tôi là một dân tộc đi tìm kiếm một đất nước và chưa tìm thấy đất nước đó….. Các bạn đến đất nước này bằng vũ lực và đô hộ. Các bạn đã chinh phục mảnh đất này. Các bạn còn phải thực hiện một cuộc chinh phục khác cao quý hơn: chinh phục trái tim và khối óc”. Đừng nói đến súng đạn.

Trong tác phẩm Chính đề Việt Nam, ông Ngô Đình Nhu viết:

“Các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở miền Bắc đã trụ vào lý thuyết Cộng Sản… là một lối bế tắc cho sự nghiệp tiến hóa của dân tộc. Chẳng những như chúng ta đã phân tích, sự tiếp tục trụ đóng vào lý thuyết Cộng Sản sẽ không làm sao giải quyết được công cuộc phát triển cho dân tộc, mà lại còn mở cửa đưa các thế hệ sau này, vào một đời sống vô cùng đen tối không lối thoát. “. Cuộc xung đột ở Việt Nam là chính trị chứ không chỉ đơn giản là quân sự.(Hình phải: Bản đồ hành chánh tỉnh Quảng Trị)

Năm 1946 khi phát động chiến tranh Việt-Pháp,  lãnh đạo Cộng sản Hồ Chí Minh nói: “Các người có thể giết 10 người của tôi,  tôi chỉ cần giết các người 1, ngay cả với cả tỉ lệ cược đó, các người vẫn sẽ thua và tôi sẽ thắng.”. Qua chiêu bài đánh Pháp, quả là đã “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, xem dân chúng như bia đỡ  đạn khi chọn đường lối bạo động vũ trang, để tập hợp dân chúng, xây dựng đội ngũ, rèn cán chỉnh quân, kiện toàn đảng, đoàn nhằm thực hiện  chủ nghĩa cọng sản cho 30 năm sau(1975), và đất nước cho đến nay 50 năm sau, vẫn mãi chìm đắm trong vòng đôc tài, áp bức, lầm than và lạc hậu. Thử hỏi, nếu không có 2 cuộc chiến tranh vô ích này, người dân và đất nước Việt Nam sẽ ra sao.

Sau cuộc chiến 50 năm tính từ năm 1975, lịch sử đã chứng minh, nếu lãnh đạo và dân chúng Việt Nam sáng suốt theo quan điểm bất bạo động chống Pháp của cụ Phan Châu Trinh thì ngay sau Thế chiến thứ 2, Việt Nam cũng khả dĩ có độc lập như Ấn Độ (1947)và các nước khác đồng cảnh ngộ mà thoát khỏi được 30 năm chiến tranh(1946-1975) vô ích, như đã xảy ra. Bất hạnh thay!

Cuối cùng xin ghi chú thêm rằng, bài viết này nhằm mục đich là, để tưởng nhớ những con dân Việt đã mất đi vì lửa đạn oan nghiệt trong cuộc chiến, đồng thời để điều chỉnh các thiếu sót,  bất cập qua tài liệu về Con Đường Buồn Thiu vốn có trên sách vở, báo chí và internet vì tam sao thất bổn trong suốt thời gian dài 72 năm qua, cùng là để ghi nhớ lại một thời chiến tranh khốc liệt trên đất nước Việt Nam, tại vùng Trị-Thiên khói lửa mà người dân Quảng Trị, đặc biệt các bà mẹ, em bé đã phải hứng chịu oan khiên, khi chạy giặc dọc theo Con Đường Buồn Thiu này.

Boston, Mar 20, 2024

Trương Thúy Hậu

Ghi chú : Viết theo các tài liệu sách báo và trên internet dẫn giải trong các insert links, cùng không ảnh thuộc Google map.

   

CẢM ƠN 

 Khi Đức Phật còn tại thế, có một ông lão có 5 đứa con, nhưng chúng đều không muốn phụng dưỡng cha mình. Không còn cách nào khác, ông lão đành phải đi ăn xin trên đường phố. Ông cảm thấy cuộc sống tràn ngập đau khổ, cũng oán giận vì sự bất hiếu của những đứa con, nhưng cũng đành chấp nhận số phận bi thảm lúc tuổi già của chính mình.

Có một ngày, ông gặp được Đức Phật và hỏi:

 “Đức Phật từ bi, Ngài có cách nào có thể thay đổi vận mệnh của con không?”. Đức Phật liền hỏi ông ta: “Ông biết cảm ơn là gì không?”.

Ông lão trả lời: “Con không biết cảm ơn là gì, xin Đức Phật khai thị”.

 Đức Phật chỉ tay vào cây gậy trong tay ông lão và nói: “Ông có biết ơn cây gậy trong tay mình không?”. 

Ông lão nghe xong liền nói: “Con rất biết ơn cây gậy này! Lúc con đi xin ăn gặp phải những con chó hung hăng, nó chính là vật dụng giúp con đánh đuổi lũ chó. Và khi đi trên những con đường gập gềnh, những khi leo dốc, xuống dốc, nó là vật dụng giúp con chèo chống để bước đi thêm vững chắc. Lúc mệt, con gối lên nó để nằm ngủ, nó chính là chỗ dựa tinh thần của con. Vì thế, con thật sự phải cảm ơn nó rất nhiều”.

Đức Phật vui mừng, khen ngợi: “Thiện tai, thiện tai! Vậy từ nay về sau, mỗi ngày ông hãy cầm cây gậy này và đừng quên nói lời cảm ơn, nói đến một thời điểm nào đó, vận mệnh của ông sẽ thay đổi!”.

Ông lão nghe xong lời giáo huấn của Đức Phật, cảm thấy rất tin tưởng, từ đó về sau mỗi ngày ông đều nói "CẢM ƠN". 

Không chỉ cảm ơn chiếc gậy, ông còn cảm ơn những người tốt bụng đã bố thí cho mình, thậm chí còn cảm ơn những đau khổ mà mình đã trải qua, những kẻ xấu đã lừa gạt mình. Nói lời cảm ơn khiến cho trái tim ông không còn oán hận mà đọng lại chỉ là sự biết ơn. Năm tháng trôi đi, ông đã thành thạo được một phương pháp tu hành, gọi là “phương pháp cảm ơn cây gậy”.

Có một ngày khi Đức Phật đang giảng pháp, ông lão thầm nghĩ: “Cuộc sống hạnh phúc của ta hôm nay chính là do Đức Phật ban tặng, ta phải cảm ơn Ngài”, thế là ông liền đến nghe Đức Phật giảng pháp. Đức Phật thấy ông lão đến, liền nói với đại chúng: 

    - Hôm nay chúng ta mời một người tu hành đến đây để nói về pháp “ CẢM ƠN TAM MUỘI “của ông ấy… 

 Thế là Đức Phật liền mời ông lão lên đài, để ông kể về câu chuyện cảm ơn  của mình. Đúng vào ngày hôm đó, 5 đứa con của ông cũng ngồi ở phía dưới nghe giảng, khi họ nghe cha mình nói: “Đối với một cây gậy còn phải thành tâm thành ý cảm ơn như thế, huống gì là con người. Đối với cha mẹ, người đã cho ta sinh mạng, nếu như còn không biết đền ơn đáp nghĩa thì người này còn không bằng cả loài cầm thú!”.

 Sau khi nghe xong câu chuyện, năm người con đã rất xúc động, chúng lần lượt chạy lên đài, tranh nhau quyền nuôi dưỡng cha, tranh nhau nói: “Về nhà với con! Về nhà với con!”.

 Lúc đó Đức Phật liền nói với ông lão: “Vận mệnh của ông bây giờ đã thay đổi rồi! Một người có lòng biết ơn,họ sẽ có tất cả, một người không có tâm cảm ơn,họ sẽ mất tất cả”.

Phật Pháp chỉ nói tới báo ân mà không giảng báo oán. Đối với ân huệ của người khác, lúc nào cũng phải luôn nhớ rằng: “Thụ ân một giọt, báo ân một dòng”. 

Còn đối với những thù oán của người khác, thì hãy quên nó càng sớm càng tốt, không nên canh cánh trong lòng, ghi hận trong tâm. 

Bởi vì : lợi người cũng là lợi mình, hại người cuối cùng lại là hại mình.

Internet source

Wednesday, April 17, 2024




Chuyện giữa năm 1975 tại Saigon.

Cả xóm Minh Mạng xôn xao, công an áo vàng khắp ngõ. Hôm qua đã có một số kẻ lạ lai vãng, dân xóm lo sợ.

Trời nắng. 10 giờ sáng, xe đổ. Một người đàn ông tuổi 68, cao to, quần kaki vàng, áo trắng cộc tay bỏ ngoài quần, từ xa đi bộ vào .


Người cao ôm chầm lấy người thấp chủ nhà. Rồi họ ngồi và chuyện từ  gần 60 năm trước, được nhắc lại về những ngày thơ  ấu nghèo khó tại quê nhà ở chợ Sãi của 2 bạn học Tiểu học cùng tuổi, cùng lớp, cùng vui chơi... Th. lớn hơn Nh. mấy tháng tuổi và những kỷ niệm sau đó liên tuc, hiện về.

Người cao nói:

Xin phép Anh cho tôi gặp Chị để nói lời cám ơn. 

Cám ơn Chị đã cho 30 đồng bạc Đông Dương kịp thời để tẩu thoát khỏi Hà Nội cho đến hôm nay. Rồi tiếp :

Thưa Anh Chị, thư ký riêng của tôi xin ghi lại sau về những yêu cầu của gia đình .


Lại còn 1 chuyện nữa sực nhớ, người cao giọng xúc động nói: 

Thuở xưa 2 ta có đính ước thông gia 2 họ Nguyễn-Lê, chuyện có còn được không?

Người thấp nói: 

Nay Anh ở ngôi cao. Không dám.

Người cao cười nói: 

Vậy Anh cho tôi được phép chọn phò mã.


Hai người đàn Ông tuổi Mùi 1907 làng  gần nhau, đều có con tuổi Dần sinh năm 1950.

Thời gian ấy, cô gái Bích La học tại Liên Xô. Cậu trai Xuân Dương học tại Tây Đức. Đều ở tuổi 25 và đang làm luận án Tiến sĩ.

Cả 2 đều giỏi Toán .


  Facebook/Lê Kiên Thành có người Chị đã mất, chỉ có 1 multual friend như là rút gọn kết cục câu chuyện này.


Hoàng Dung

@ Hoidonghuongquangtri

Tuesday, April 16, 2024

Tháng 4 Đen

ĐỨNG LÊN VÌ VIỆT NAM

Cả dân tộc thức tỉnh:

…” Từ những đau thương chịu đựng đó, dân tộc Việt Nam đã thức tỉnh mà nhận diện ra rằng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam không phải là Pháp, Mỹ, Nhật hay Tàu mà chính là đảng Cọng Sản Việt Nam” … 

TUYÊN CÁO CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM


 

Saturday, March 16, 2024

CON ĐƯỜNG BUỒN THIU

Trích : 

Bài dịch chương 7, Street Without Joy của cuốn sách  

Street Without Joy - (Indochina at War, 1946-54)

*

   “Đã nhiều năm, việc liên lạc giữa các tỉnh dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam rất khó khăn vì các cuộc tấn công của quân Cọng Sản dọc theo Quốc lộ 1. Những khó khăn đó chính yếu là do một loạt các làng mạc được tổ chức phòng vệ kỷ lưỡng dọc theo dãy đồi cát và các đầm nước mặn chạy dài từ Huế đến Quảng Trị. Năm 1953, Bộ Tư Lệnh Cao Cấp Pháp tập trung các lực lượng trừ bị trong khu vưc với cố gắng quét sạch một lần cho xong những đe dọa nầy. Đồng thời, các đoàn xe “công voa” của quân Pháp bị thiệt hại nặng nề vì các cuộc phục kích và pháo kích của các đơn vị của Trung Đoàn 95. Đây là đơn vị quân Cộng Sản thiện chiến thâm nhập vào phía sau phòng tuyến Pháp. Điều nầy gợi cho binh lính Pháp một ấn tượng u ám rằng con đường số 1 là “Con Đường Buồn Thiu”. 

Hồi tháng 7 năm 1953, Bộ Tư Lệnh Cao Cấp Pháp quyết định tổ chức cuộc hành quân tên là “Camargue” tại “Con Đường Buồn Thiu” nầy để càn quét quân Việt Minh, thực hiện những cuộc đổ bộ dọc theo bờ biển cát tại vùng Trung Việt, đồng thời có thêm hai đơn vị thiết giáp phối hợp hoạt động cũng như lực lượng nhảy dù làm hậu bị để khóa những con đường trốn chạy của Cộng Sản sau khi vòng vây đã xiết chặt. Với một số trung đoàn bộ binh và hai tiểu đoàn nhảy dù, một trung đoàn thiết giáp, một đơn vị hỏa xa bọc thép, bốn tiểu đoàn pháo binh, ba mươi tư máy bay chuyển vận, sáu máy bay trinh sát, hai mươi bốn oanh tạc cơ và khoảng mười hai tàu hải quân, bao gồm ba tàu LST’s, – lực lượng nầy chẳng kém gì lắm nếu so với tầm cở của những cuộc đổ bộ hồi Thế Giới Chiến Tranh Thứ Hai ở Thái Bình Dương. Lực lượng Cộng Sản rõ ràng chỉ có Trung Đoàn 95 và một ít đơn vị du kích địa phương, ít có cơ may thoát khỏi cuộc bao vây nầy.

Cuộc tấn công thực hiện bằng hai lực lượng đổ bộ, ba chiến đoàn bộ binh và một lực lượng nhảy dù, do tướng Leblanc chỉ huy tổng quát, mỗi cánh quân có một bộ chỉ huy đặc nhiệm do một đại tá cầm đầu.

Rạng đông ngày 28 tháng 7, Chiến Đoàn A đổ bộ vào bờ biển. Hai giờ sau, Chiến Đoàn B từ phía bắc tiến xuống phía nam đằng trước tuyến đổ bộ của Chiến Đoàn A. Vào lúc 7giờ 15, Chiến Đoàn C tiến dọc theo kinh Vân Trình để đẩy các đơn vị địch ở phía tây sông nầy phải ra sát bờ sông hoặc phải vượt qua sông. Chiến Đoàn B lưu ý phối hợp hoạt động với Chiến Đoàn D đổ bộ vào khu phía nam của Chiến Đoàn A, ở phía bắc bán đảo trên phá (Tam Giang).

Nếu được, Chiến Đoàn B sẽ đổ bộ sớm hơn, vào lúc 3 giờ sáng cho lực lượng thủy binh và 5 giờ cho lực lượng bộ binh, tiến lên phía bắc, xuyên qua bán đảo phía ngoài phá Tam Giang để tạo một trận tuyến chung với Chiến Đoàn C càng sớm càng tốt. Hai tiểu đoàn nhảy dù làm lực lượng hậu bị chờ lệnh triển khai của bộ Tư lệnh được đặt trong tình trạng ứng chiến. Đây là lực lượng quan trọng sẽ được đưa vào chiến trường để kết thúc trận đánh.

Thoạt nhìn, trận chiến có vẽ thành công. Xử dụng một lực lượng tổng cọng tới hơn ba mươi tiểu đoàn, gồm cả một lực lượng tương đương hai trung đoàn thiết giáp và hai trung đoàn pháo binh, cuộc hành quân dọc theo “Con Đường Buồn Thiu” chắc chắn là một trong những cuộc hành quân kinh khủng nhứt từng xẩy ra trên chiến trường Đông Dương. Tuy nhiên, về mặt khác, quân số kẻ thù cao lắm cũng chỉ có một trung đoàn bộ binh yếu kém. Sự kiện làm cho cuộc hành quân của Pháp gặp nhiều khó khăn là địa hình.

Từ bờ biển nhìn vào đất liền, khu vực hành quân tự nó có 7 vùng đất khác biệt nhau. Thứ nhứt là bờ biển, dài và phẳng, có những đồi cát, không có gì khó khăn lắm. Tuy nhiên, ngoài 100 mét bằng phẳng đó, tại nơi những đụn cát bắt đầu, độ cao thay đổi từ 15 đến 60 bộ, khó trèo lên được và những đụn cát nầy chấm dứt bên phía đất liền bằng nhiều mương rạch hoặc bờ đất đứng. Vài làng đánh cá dựng tạm trên các đồi cát chạy sâu vào hơn hai cây số. Tiếp đó là một khu vào sâu khoảng 800 mét, gồm bãi tha ma, chùa miễu rất thuận lợi cho quân phòng ngự. Tiếp đó là “Con Đường Buồn Thiu” chạy dọc theo các ngôi làng nhỏ cách nhau khoảng bốn, năm chục mét. Mỗi làng là một khung cảnh phức tạp, mỗi bề khoảng vài trăm thước bao bọc bằng những lũy tre, bụi bờ hoặc các hàng rào nhỏ làm cho máy bay rất khó quan sát. Trung đoàn 95 đã bỏ ra hai năm để lập hệ thống phòng thủ cho các làng nầy và liên kết với nhau bằng một hệ thống địa đạo, các điểm chôn dấu vũ khí, trạm cứu thương. Không một cuộc tấn công đơn lẻ nào của các lực lượng lưu động lớn có thể khám phá hay tiêu diệt được. Khu vực nầy gồm hai chục cây số bề dài và ba trăm mét bề ngang, với những làng mạc như thế tạo thành trung tâm kháng chiến của quân Cọng Sản ở miền trung Việt Nam.

Về mặt khác, phía “Con Đường Buồn Thiu” là một dãy làng kém đặc sắc, mà trung tâm là làng Vân Trình. Ngược lại, khu nầy được che chở bằng một khu vực rộng lớn gồm những đầm lầy, hố cát, cát lún, kéo dài tới Quốc lộ 1. Với bề ngang trung bình khoảng tám cây số, chiến xa và các loại xe có động cơ khác của quân đội Pháp không thể di chuyển được, ngoại trừ vài đoạn đường, dĩ nhiên ở đây chôn rất nhiều mìn. Nói một cách ngắn gọn, “Con Đường Buồn Thiu” là một hệ thống phòng thủ mà người Pháp quyết định đập tan bằng một cuộc tấn công phối hợp ba lực lượng không quân, hải quân và bộ binh.

Quân Pháp còn gặp một khó khăn khác là những làng nầy còn có cư dân đang ở, họ là những nhóm nhỏ làm ruộng hoặc đánh cá. Ít ra, về mặt lý thuyết, số dân nầy được coi là “thân hữu”. Một ngày trước khi cuộc hành quân khai diễn, Bộ Chỉ Huy Cao Cấp ra lệnh cho tất cả các đơn vị phải có “thái độ nhân đạo” và tôn trọng người dân. Trước tiên, quân Pháp không được oanh tạc hay đốt làng. Lệnh nầy chắc chắn hạn chế hỏa lực, làm giảm hiệu năng của cuộc tấn công, đặc biệt khi tấn công vào các căn cứ Cọng Sản.

Giờ H là rạng đông ngày 28 tháng 7 năm 1953. Các chiếc tàu LST ì ạch rời khỏi vị trí tập trung vào tối hôm trước, chạy suốt đêm để tới cho kịp vùng đổ bộ dọc theo bờ biển đối mặt với “Con Đường Buồn Thiu”. Cuộc đổ bộ bắt đầu lúc 4 giờ sáng, trong tiếng lách cách vũ khí cá nhân va chạm và tiếng máy tàu gầm rú. Các loại xe lội nước Crabs (cua) và Alligators (cá sấu) của đơn vị đổ bộ bắt đầu rời tàu chạy xuống nước.

Crabs và Alligators là hai biệt danh của loại xe lội nước do Mỹ chế tạo. Crabs là loại chuyển vận xa 29-C và Alligators là loại thiết vận xa đổ bộ L.V.T. (landing vehicle, tracked) 4 và 4 A. Như tên gọi, Crabs không bao giờ là loại xe dùng để tác chiến, nhưng người Pháp ở Đông Dương chẳng bao lâu khám phá ra rằng loại xe nầy có thể dùng để chuyển quân như một loại xe thủy bộ tại những vùng đầm lầy không có đường sá, đồng ruộng ở vùng đất thấp Việt Nam hay dọc các bờ biển.

Đầu tiên, loại xe nầy không trang bị vũ khí nên họ phải thiết trí vài loại vũ khí nhẹ, súng cối và chúng trở thành mục tiêu cho loại súng không giật của địch. Sự kiện nầy làm thay đổi chiến thuật, đến năm 1953, các đơn vị xe lội nước nầy trở thành đơn vị thiết giáp thường trực của quân Pháp ở Đông Dương. Đó là sự phối hợp giữa hai chi đoàn 33 xe Crabs cho mỗi đơn vị, dùng để thám thính và truy kích, ba chi đoàn xe Alligators (L.V.T.) tạo thành lực lượng nòng cốt, do đó, chúng là những đơn vị thiết giáp vũ trang. Cuối cùng một chi đội với 6 xe L.V.T. trang bị đại bác, làm thành một đơn vị pháo di động.

Về mặt khắc, các xe lội nước nầy không được chắc chắn và đòi hỏi bảo trì kỹ lưỡng, khó thực hiện khi các xe nầy được xử dụng trong vùng đầm lầy ở Đông Dương. Loại Crabs trước tiên được chế tạo để vận chuyển hàng hóa ở Alaska – không đủ nước để nổi và hiện cao trên mặt đất, dễ trở thành mục tiêu cho địch sau khi địch khám phá ra rằng đó không phải là loại xe bọc thép. Mặt khác, loại xe nầy có thể chở trên xe tải (G.M.C.) hay trên tàu thủy hay xà-lan được. Loại Alligators nặng hơn và có bọc thép, lội nước thì hay nhưng khi chạy trên đất thì nặng nề và may móc thì yếu. Trên bộ, loại xe nầy không thể chạy được xa, có thể chuyên chở bằng các loại vận chuyển đăc biệt; không thể chở trên xe G.M.C. vì quá to và nặng.

Tuy nhiên, tổng số 160 chiếc xe lội nước tiến vào bờ biển Trung Phần Việt Nam, một chiếc khi đi qua quậy nên môt vũng bùn xám xịt màu chì, cùng với những lá cờ cột trên cần ăng-ten bay phất phới trong gió sớm. Đợt đổ bộ đầu tiên thực hiện vào lúc 6giờ sáng, tiến qua các ngôi làng dọc bờ biển và tức khắc chiếm lĩnh dãy đồi cát hình vòng cung đầu tiên có thể từ đó quan sát hết các ngọn đồi cát khác nằm dọc theo bờ biển. Cuộc tấn công của quân Pháp vào “Con Đường Buồn Thiu” bắt đầu.

Các đơn vị bộ binh thường trực khác thuộc Binh Đoàn Lưu Động Bắc Kỳ (Tonkin) gặp khó khăn hơn. Một trong ba tiểu đoàn, chỉ một mà thôi, tiểu đoàn 3 thuộc Bán Binh Đoàn Lê Dương Hải Ngoại số 13 không có kinh nghiệm hành quân đổ bộ, và hai tiểu đoàn khác, tiểu đoàn 1 người Mường và tiểu đoàn khinh binh 26 người Senegal cũng chẳng kinh nghiệm gì trong việc đổ bộ cả. Không giống như việc đổ bộ bằng tàu hạng nặng, loại tàu nhỏ nầy lắc lư, binh lính bị nôn mửa, phải bốn giờ đồng hồ cuộc đổ bộ mới hoàn tất thay vì hai giờ như trong dự trù. Trong khi đó, binh lính chiến đoàn thủy bộ số 3 cho xe tiến lên các đỉnh đồi cát. Các xe thiết giáp lội nước Alligators sau khi đổ bộ, vượt qua các đầm lầy và binh lính trên các xe nầy đã triển khai đội hình trên mặt đất. Trong nhiều trường hợp khác, loại xe Crabs nhẹ hơn tiến lên các ngọn đồi cát sau khi vượt qua các bờ đất cao phía ngoài bờ biển. Tuy nhiên, cuối cùng, dù phòng tuyến của họ bị đứt đoạn ở khoảng giữa các làng Tân An và Mỹ Thủy, họ cũng vội vã tiến vào đất liền. Quân Cọng Sản không có phản ứng gì, xem như họ không hiện diện ở đó. Có một số người bỏ chạy trốn khỏi làng Mỹ Thủy và ở phía bắc có hai trung đội đang tìm đường rút lui.

Trong khi đó, Chiến Đoàn B do đại tá Du Corail bắt đầu hoạt động. Lúc 6giờ30, hai tiểu đoàn của Binh Đoàn Lưu Động Trung Việt vượt qua sông Vân Trình và tới 7giờ 45 các bộ phận đi đầu báo cáo thấy bóng người ngồi trên xe lội nước Crabs đang chạy qua những đồi cát. Mặt bắc “Con Đường Buồn Thiu” đã bị khóa lại .

Bên phải Binh Đoàn Lưu Động Trung Việt, là Trung Đoàn Kỵ Binh người Ma-Rốc không gặp may. Đơn vị nầy hướng tới vùng đầm lầy không có đáy và các vũng cát sâu nằm ở phía đông Quốc lộ 1. Hầu hết xe cộ của họ, ngoại trừ loại chiến xa M-24 hạng nhẹ, chẳng bao lâu bị kẹt giữa đầm lầy. Họ đến được kinh Vân Trình (tuyến xuất phát của cuộc hành quân càn quét trên bộ) vào lúc 8giờ 30. Trong khu vực của họ cũng không thấy địch phản công.

Thực ra, toàn bộ vùng quê nầy coi như vùng chết hoàn toàn. Không thấy nông dân trên đường. Trong làng, dân chúng trốn trong nhà. Suốt toàn bộ khu vực vắng vẻ nầy chỉ thấy các vật di động là các hàng xe thiết giáp và các xe G.M.C. đang vất vả vượt qua các ngọn đồi cát và bãi lầy để tiến tới kinh Vân Trình.

Chỉ có bên phía cực phải Chiến Đoàn B là có tiếng súng nổ. Ở đó, một đại đội người Angiêri bất thần đụng với một toán khoảng vài ba chục Việt Minh. Binh nhì Mahammed Abd-el-Kader thuộc đại đội 2 bị đạn trung liên B.A.R. vào ngực, té xuống phía trước. Đồng đội anh ta phản công, bắn chừng vào các bờ bụi và các hố cát. Abd-el-Kadar là thương vong đầu tiên trong trận tấn công nầy.

Bên phải Chiến Đoàn B, Chiến Đoàn C do trung tá Gauthier chỉ huy gặp khó khăn nhứt trong cuộc hành quân. Phần lớn chiến đoàn nầy vượt qua đường Số 1 hướng về kinh Vân Trình phía bắc Mỹ Chánh. Toán thứ hai tiến song song với Quốc lộ 1 rồi quay về bên phải để tiến tới kinh Vân Trình, đoạn giữa làng Vân Trình và đầm lầy. Cuối cùng, tiểu đoàn (tabor) 9 Ma-Rốc, vào lúc 6giờ 30 dùng xe lội nước đổ bộ xuống làng Lai Hạ, giữ an ninh mặt biển, rồi quặt về phía đông nam dọc theo vùng đất cạnh phá Tam Giang với mục đích bao vây “Con Đường Buồn Thiu”. Tới 8giờ 30 thì tiến đến làng Tây Hoàng và hoàn thành giai đoạn 1 cuộc hành quân.

Chiến Đoàn D, do trung tá Le Havre chỉ huy, chặn phía bán đảo dọc theo phá Tam Giang tới thành phố Huế. Do rút kinh nghiệm, đoàn quân nầy ít gặp khó khăn như Chiến Đoàn A. Cuộc đổ bộ bắt đầu lúc 4giờ 30 có chi đoàn xe lội nước số 7 đi đầu, theo sau là các đơn vị biệt động và Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 3 Angiêri. Lính biệt động và đơn vị đổ bộ tới bờ biển và tiến quân không ngừng. Chi đoàn lội nước tiến lên phía bắc hướng về phá Tam Giang, trong khi quân biệt động chiếm giữ thị trấn Thế-Chí Đông và tiến thẳng qua bán đảo, tiến tới bờ bắc phá Tam Giang vào lúc 5giờ 30. Coi như Trung Đoàn 95 Việt Minh bị bao vây.

Sau đó là giai đoạn căng nhứt trong toàn bộ chiến dịch: Càn quét địch. Tướng Leblanc ra lệnh cho các tàu hải quân tiến lên phía bắc của các làng Ba-Làng và An Hội, bỏ neo cách bờ khoảng 4 dặm nhằm mục đích khóa chặt không cho địch quân trốn chạy bằng đường biển. Phía cực bắc “Con Đường Buồn Thiu”, Chiến Đoàn B bắt đầu càn quét qua từng làng, thực hiện một cuộc hành quân lớn nhứt một cách cẩn thận, không quan tâm tới hậu quả. Binh lính bao vây từng làng một. Sau đó, bộ binh trang bị đầy đủ tiến vào làng lục soát từng nhà trong khi các toán dò mìn và quân khuyển dò tìm (3) các bụi tre, cau tìm kiếm cửa hầm bí mật của địch giữa sự im lặng của dân chúng.

Như thường lệ, các người đàn ông trẻ trong làng đều bị bắt giữ, họ được các sĩ quan tình báo thanh lọc, tuy nhiên chẳng ai bị truy tố cả.

Tới 11 giờ, Chiến Đoàn B tiến được 7 dặm, xuyên qua các con đường ngoằn ngoèo trong các làng nhỏ nầy, không gặp một sức kháng cự nào. Họ tới làng Đơn Quế (4), ngay giữa “Con Đường Buồn Thiu”, tại ngã tư các con đường nhỏ xuyên qua các đồi cát dẫn tới kinh Vân Trình. Hồi xưa, nơi nầy có một cái “trạm ngựa” xây bằng gạch để chạy văn thư cho triều đình (5), nay trạm nầy vẫn còn, điều đó cho thấy tính cách quan trọng nào đó của nó vào hồi xa xưa.

Làng Đơn Quế nằm dưới ánh mặt trời giữa trưa, nép mình giữa các hàng tre lắc lư, chính là hình ảnh thanh bình của miền thôn dã Việt Nam trong mùa gió mùa đông-bắc, khi nông dân chẳng còn việc gì nhiều để làm ngoài việc cầu trời mưa để cho lúa lên xanh rồi chuyển qua màu lúa chín vàng ruộm. Nhưng bây giờ thì Đơn Quế trở thành mục tiêu tấn công của các chiến xa hạng nhẹ M-24 của tiểu đoàn 6 Ma-Rốc. Thực ra, toàn bộ mũi tấn công phía bắc đều do binh lính Ma-Rốc đảm nhận, tiểu đoàn 1 khinh binh có nhiệm vụ thanh sát và được trung đoàn 69 pháo binh howitzers của trung tá Piroth yễm trợ. Trung đoàn nầy đã được hoan nghênh tại Fez, một thành phố phía bắc Ma-Rốc. Những đơn vị nầy trưởng thành trong chiến tranh, chiến đấu chống lại các đơn vị thiết giáp của tướng Rommel Đức quốc xã ở Tuy-Ni-Di, vượt qua vùng Rapido, tiến qua vùng đồi núi Petrella ở Ý, đập tan binh đoàn 19 của Đức ở Hắc Lâm (Black Forest) và chạy đua cùng quân đội Mỹ, cố giành công chiếm Berchtesgaden. Họ là đạo quân nổi danh của quân đội Pháp ở Bắc Phi và nhiều người Ma-Rốc đã lên tới hàng sĩ quan cao cấp, – tướng lãnh của quân Pháp, hơn bất cứ quân nhân thuộc nước nào khác. Ở đây, họ lại thực hiện công việc đó trong khi càn quét khu vực nầy.

Các chiến xa M-24, cẩn thận dàn ra, tiến vào làng Đơn Quế, có bộ binh tùng thiết. Với giác quan thứ sáu bẩm sinh, binh lính Ma-Rốc cố dò mìn bẫy. Họ tới cách làng chỉ còn 150 mét. Mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chính giác quan thứ sáu cho họ biết có điều nguy hiểm đang chờ họ trong làng. Một cách lặng lẽ, bộ binh chiếm con đê phía ngoài làng, bên hông các chiến xa.

Trên đầu xe, các người chỉ huy còn ngồi cao trên cửa xe để tầm quan sát được xa, và để hít hơi gió nhẹ. (Tại Trung Đoàn Kỵ Binh Hải Ngoại Số 1, một đội xe có một kỹ sư Đức Quốc Xã cũ, thiết kế một máy lạnh trong chiến xa. Chuyện được nhiều người biết khi chiến xa nầy bị phục kích, toán trên xe chiến đấu bền bỉ một cách bất thường, khi máy đó bị hỏng, họ hồi phục lại được)

Thiếu tá Derrieu, chỉ huy chi đoàn chiến xa đi tiên phong, hướng thẳng về phía làng. Con đường vào làng chẳng thấy có chướng ngại gì cả, cũng không thấy dấu có chôn mìn. Dù sao, xe tăng vẫn phải dừng lại chờ toán dò mìn ra dấu mới tiến thêm lên phía trước. Một cách có kỹ thuật, các anh lính nước da màu nâu, tai mang ống nghe và tay cầm cán máy dò mìn dài đang dò đường tiến tới làng Đơn Quế, im lặng làm việc dưới ánh mặt trời nhiệt đới gay gắt. Sau đó, anh trung sĩ Ma-Rốc đi đầu toán dò mìn không kịp nổ súng phản công khi thấy tia lửa tóa ra từ đầu nòng súng Việt Minh. Họ thấy lính Ma-Rốc tới quá gần! Dù sao, trận đánh cũng đã xảy ra một cách dữ dội và ngắn ngủi. Phản ứng hết sức nhanh, người lính đi đầu toán chỉ còn kịp nhào xuống đất, cuộn tròn mình vào trong bùn của đám ruộng bên đường. Chẳng ai bị thương nặng.

Các chiến xa gặp may vì quân Việt Minh đã nổ súng trước thời hạn. Hai khẩu đại bác không giật đúng ra chỉ nã đạn khi các chiến xa đi đầu rời khỏi các con đê để tiến vào các đám ruộng sâu.

Súng trên các chiến xa phản công bắn vào các mục tiêu nghi ngờ. Các khẩu liên thanh tỏ ra hữu hiệu hơn khi bắn vào các nhà tranh trong làng. Bộ binh triển khai thành một hình vòng cung bao vây làng Đơn Quế, nhưng vẫn chưa tiến vào làng. Đằng sau một trong những ngôi mộ ở bãi tha ma như người ta thường thấy trong vùng dân cư vùng quê viễn đông, viên chỉ huy tiểu đoàn đang ngồi xổm trên bùn, bản đồ đặt trên đầu gối, tay thì cầm ống nói máy truyền tin. Cái máy truyền tin đó do một người Việt Nam đeo trên lưng, người nầy cũng đang ngồi xổm xuống đất như tiểu đoàn trưởng vậy. Người mang máy nhìn một cách dửng dưng về phía trước, đầu anh ta đội một cái mũ rẻ tiền, trong cái nắng tỏa ra mơ hồ trên cánh đồng lúa.

Pháo của trung đoàn bắn vài loạt vào mục tiêu, và ít phút sau thì có tiếng máy truyền tin gọi yễm trợ. Làng Đơn Quế bắt đầu tan nát dưới hỏa lực pháo. Nhà tranh trong làng hết cái nầy tới cái khác bắt đầu cháy, khi các quả pháo rơi xuống nổ ầm ì. Vậy mà cũng chẳng có bóng người chạy ra, ngoại trừ có sự di chuyển ở các bờ tre quanh làng, thỉnh thoảnh có tia lửa chớp sáng ở đầu súng (cũng khó thấy rõ trong ánh nắng ban trưa). Có thể trong làng không có người. Bất thần, có tiếng nổ lớn ngay giữa làng, một cột khói đen dày đặc bay lên cao.

Thiếu tá Derrieu dùng ống nhòm của xe tăng quan sát khung cảnh trước mặt rồi nói với đám lính chung quanh: “Có lẽ pháo trúng hầm đạn. Tiến lên đi.” Tiếp đó là tiếng máy chiến xa gầm rú, ỳ ạch nối đuôi nhau tiến vào làng, bây giờ trông làng như một cái địa ngục. Qua máy truyền tin, thiếu tá Derrieu ra lệnh: “Đi cho đúng hàng, nhìn vào lằn xe đi trước, đừng sợ làm hại lúa.” Quả thật, anh ta nghĩ đến điều ấy quá muộn dù tổ tiên anh ta cũng là nông dân.

Bây giờ, ở đâu cũng xuất hiện những bóng đen nhỏ, từ các cửa sổ và trên mái nhà, các hố cá nhân đào bên đường, đúng là một làn sóng người chận đứng cuộc tấn công của xe tăng vào làng. Đây là giai đoạn 2 của cuộc phòng ngự bất thường. Một khi không nắm giữ được vị trí, Cọng Sản dùng dân chúng làm mộc che cho binh sĩ rút lui. Mưu mẹo đó lần nầy bị thất bại. Chiến xa không hành quân một mình, các bóng người mặc đồ đen từ trong làng chạy thẳng vào họng súng của lính Ma-Rốc. Tới 1 giờ trưa, Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 310 thuộc Trung Đoàn Độc Lập 95, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng sự hy sinh của họ đã thực hiện đúng ý đồ cấp chỉ huy của họ đã vạch ra. Trong vòng hai giờ đồng hồ, đại bộ phận đơn vị rút được về cuối phía nam, chỗ nầy nhỏ như một cái túi, điểm cuối của kinh Vân Trình, nối liền với phá Tam Giang, có cây cối che kín, không ai có thể khóa chặt vòng vây ở ngay tại đó được.

Về phía Pháp, tướng Leblanc thấy rằng, địch quân thay vì chiến đấu tới cùng thì đã cố gắng một cách tuyệt vọng bằng cách kéo dài thời gian đến tối rút về phía các ngọn đồi phía tây Quốc lộ 1. Vì vậy, ông ra ra lệnh thả hai tiểu đoàn dù thuộc lực lượng trừ bị. Vào lúc 10giờ 45, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn Nhảy Dù Thuộc Địa Số 1 được đưa bằng phi cơ từ Hà Nội vào, nhảy xuống làng Đại Lộc, vùng đồi cát gần Chiến Đoàn D, tức khắc tiến về đầu kinh Vân Trình. Đó là cuộc chạy đua nôn nóng nhằm khóa kín vòng vây Trung Đoàn 95.

Tới giữa sáng Ngày D, vẫn còn nhiều khe hở lớn ở phía nam kinh Vân Trình, gần làng Phú An và Lai Hạ, trong khi Tiểu Đoàn 9 Ma-Rốc đang cố vượt qua các hố cát và đầm lầy để tới tuyến xuất phát. Rõ ràng Cọng Sản dự đoán rất đúng điểm yếu nhất trong vòng vây của Pháp và phản ứng đúng theo dự đoán đó. Vào lúc 8giờ 45, ngay khi binh lính Ma-Rốc tiến dọc theo các con đê quanh làng Phú An, đại liên và súng nhỏ bắn rất dữ vào đội hình họ. Vì họ đi trên đường đê, in hình rõ trên nền trời và bóng thì lại in xuống các ruộng lúa nước nên trở thành những mục tiêu ngon lành cho địch quân. Tiểu đoàn nầy bị thiệt hại nặng. Bị cầm chưn, Tiểu Đoàn 9 gọi tiếp viện. Nhưng tiểu đoàn nầy là đơn vị thuộc chiến đoàn đang đóng ở xa hơn đơn vị đổ bộ thuộc chiến đoàn D kế bên đã bắt đầu bắn chặn. Liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn ở Mỹ Chánh không thực hiện được. Chưa tới 9giờ 10, đại tá Gauthier nhận ra rằng toán quân ở phía cực phải của ông ta hoàn toàn yếu thế.

Nhưng Việt Minh không xử dụng toàn bộ chiến thuật của họ. Vào lúc 11giờ, các đơn vị nhỏ của Tiểu Đoàn 227 Cộng Sản tấn công bằng súng cối hạng nặng vào Trung Đoàn Lê Dương Kỵ Binh Hải Ngoại Số 1, đồng thời cũng tấn công bằng súng cối hạng nặng vào Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 4 Bộ Binh Ma-Rốc. Tới 9giờ 40, Gauthier quyết định thực hiện cú đánh ngược cuối cùng của ông ta: vội vàng điều động từ Huế, tung vào hai đại đội khóa sinh đang huấn luyện và ba đại đội của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Cuối cùng, hai đại đội bộ binh tăng cường được lệnh tiến vào làng Lai Hạ bằng tàu đổ bộ nhưng mãi đến 3 giờ chiều cuộc tiến quân nầy mới hoàn tất. Sau đó họ bị kẹt trong khu đầm lầy mất 4giờ đồng hồ nữa mới tới được chỗ tiểu đoàn Ma-Rốc bị tấn công. Được tiếp viện, tăng cường sức mạnh, binh lính Ma-Rốc phản công dữ dội, tới 5giờ rưởi chiều thì chiếm được làng.

Thấy chỗ yếu của Chiến Đoàn C, tướng Leblanc cho thả dù Tiểu Đoàn 3 dù đang ứng trực tại Tourane (Đà Nẵng). Lệnh nầy ban ra lúc 11giờ 45 và hạn phải thực hiện vào lúc 2giờ chiều. Nhưng vẫn còn vài điều chưa rõ trong lệnh hành quân. Theo các sĩ quan tham gia cuộc hành quân thì có hai lỗi lầm: Lệnh máy bay cất cánh hoãn lại cho tới 3 giờ chiều, thứ hai là thời tiết nơi khu vực đổ quân. Trong mùa gió mùa, vào buổi chiều dọc bờ biển miền trung gió thổi rất mạnh. Đây là điều ai cũng biết, nhưng thỉnh thoảng các đài khí tượng xa miền Trung, đặt gần Saigon hay Hà Nội không tiên đoán được điều đó. Kết quả là khi các máy bay C-47 vận chuyển binh lính xuất hiện ở bầu trời khu vực đổ quân ở làng Láng Bào thì gió đang thổi mạnh, 30 cây số một giờ, gấp đôi cấp gió tối đa cho phép đổ quân. Các sĩ quan chỉ huy cuộc nhảy dù, nhìn khói từ trái khói tỏa ra bị gió thổi sát mặt đất bèn lắc đầu. Một sĩ quan nói: “Không thể cho nhảy dù xuống được, họ sẽ bị thổi ra khỏi khu vực vì họ nhẹ lắm.”

Thực ra, nhẹ cân là vấn đề và đôi khi trở thành chuyện cười trong binh lính nhảy dù Việt Nam. Họ xử dụng dù của Mỹ là loại dù dành cho người nặng 200 pounds, cọng thêm 85 hay 100 pounds trang bị. Vì vậy, loại dù nầy quá lớn với người lính Việt Nam nhỏ con nặng khoảng 100 pounds, dù họ có mang đầy đủ tất cả những thứ lỉnh kỉnh thì cũng chỉ mới nặng bằng nửa người lính Mỹ hay người Tây phương. Do đó, nhìn chung, người lính nhảy dù Việt Nam thường bay trên trời lâu hơn (dễ trở thành mục tiêu cho quân địch nhắm bắn) và bay ra ngoài khu vực đổ quân. Cũng không thể cho người lính nhiều trang bị hơn vì một khi đã xuống tới đất, họ không thể mang những trang bị đó đi quanh. Việc nhẹ cân nầy, cùng với cơn gió mạnh là tai họa cho họ.

Tới bây giờ, việc đưa thêm quân vào phía bán đảo là hoàn toàn cần thiết để bảo đảm việc bao vây quân đội Việt Minh không cho rút ra ngã bờ biển và phá Tam Giang. Do đó, một tiểu đoàn tăng cường được thả dù xuống bất kể hậu quả như thế nào. Vào lúc 4giờ 50 chiều, đợt đầu tiên quân nhảy dù Việt Nam được thả xuống, và sau đó ít giây là các chuyến bay khác, các chiếc dù rơi trong bầu trời xanh. Mọi sự tuồng như tốt đẹp. Có một chiếc dù không mở và người ta thấy người lính rơi thẳng, chân xuống trước, như một vật nặng, khi đụng xuống cát thì tung lên một đám bụi như một quả pháo rớt xuống vậy.

Họ gặp gió mạnh và bị kéo xa tới 150 mét trên mặt đất, giống như có bàn tay vô hình nắm họ mà kéo đi vậy. Có người thay vì rơi theo chiều dọc thì bị gió kéo theo chiều ngang. Có người khi xuống đất thì bị rơi vào bụi bờ, đầm lầy và các con đê làng bằng một tốc độ nhanh như ngựa đang kéo xe. Có hai người giây dù mắc chéo vào nhau, cố gở ra nhưng không được. Đồ trang bị được thả xuống thì tệ hơn. Các trang bị nầy nhẹ hơn trọng lượng người lính nên bị gió thổi đi xa, rơi xuống biển hay bay vào vùng Cộng Sản kiểm soát. Tới 5giờ 30 thì tiểu đoàn tập trung được (Có người bị bay đi xa đến hai cây số và cố tìm đường về với đơn vị). Đó là đơn vị trang bị nhẹ nhưng chiến đấu giỏi. Mười phần trăm trong số họ bị thương khi nhảy dù xuống và hầu hết các trang bị nặng như súng cối, đại liên, đại bác không giật và đạn dược bị mất hết. Tuy nhiên họ cũng kịp thời chiếm lĩnh vị trí làm gọng kềm ở phía nam để kẹp Trung Đoàn 95 vào vòng vây giữa Chiến Đoàn 3 xe lội nước và Tiểu Đoàn 2 Dù được thả xuống đây vào sáng sớm.

Tới tối, sau khi chiếm được làng Phú An và Vân Trình, địch quân bị vây vào một khu vực rộng chỉ có 4 cây số bề ngang và 14 cây số bề dài. Về mọi mặt, cuộc hành quân Camargue được xem như thành công.

Tuy nhiên, sự thành công chỉ là bề mặt hơn là trên thực tế. Rõ ràng một nửa “Con Đường Buồn Thiu” nầy đã rơi vào tay quân Pháp nhưng chẳng bắt được tù binh nào cũng như vũ khí của địch. Điều đó có nghĩa là quân địch và trang bị của họ còn ở trong vùng bị bao vây phía nam Vân Trình. Việc nầy, muốn thành công phải có một cái bẫy khóa hết sức chặt.

Cuộc bao vây nầy, không được chặt như vậy. Dọc theo khu vực phía nam của Chiến Đoàn C, tuyến giao thông hào phòng ngự cuối cùng ở Phú An và cuộc phản công của Tiểu Đoàn 227 làm cho quân Pháp không tới được biên giới thiên nhiên của kinh Vân Trình. Kết quả là 4 tiểu đoàn Pháp canh giữ một phòng tuyến dài 12 cây số để canh chừng một lực lượng địch khoảng 2 ngàn 6 trăm người trốn thoát. Rõ ràng khu vực bị bao vây có nhiều kẻ hở nghiêm trọng, đặc biệt toàn bộ hệ thống rạch ngòi kinh rạch cắt ngang kinh Vân Trình tới Quốc lộ 1.

Để cầm chắc, các xe lội nước Crabs và Alligators dừng lại gần hoặc ngay giữa các kinh rạch và hàng trăm lính bộ binh khó nhọc ngâm mình trong bùn hoặc trong ruộng lúa nước ngang tới đầu gối suốt đêm để canh chừng các bóng đen xuất hiện trước mặt họ, nơi một tiếng động nhỏ của con nhái nhảy xuống nước hay một cán binh Cọng Sản sẩy chân đạp nhằm một cành cây đều được chú ý nhưng chẳng có gì cả ngoại trừ tiếng con trâu đi lạc đường thở phì phò tìm đường về chuồng.

Tới sáng, binh lính tập trung tiến lên phía trước. Dưới ánh mặt trời, làng mạc trông có vẻ hoàn toàn hoang vắng. Nông dân không ra đồng, cũng không có hình ảnh các em bé cho trâu ra đồng uể oải nhai cỏ. Chỉ có hình ảnh di động trong cánh đồng quê nầy là chiến xa di chuyển hay các xe lội nước đang chạy chầm chậm trong cơn gió nhẹ sớm mai và các anh lính bộ binh áo quần dơ dáy đầy bùn, tiến thành hàng dài trên các cánh đồng lúa, đôi khi đứt đoạn vì kéo dài ra tới phía chân trời.

Tới 11 giờ, mặt trời nung nóng những cái nón sắt, nón bêrê hay nón vải họ đội trên đầu. Chiến Đoàn A và D, cùng đi với các bộ phận Chiến Đoàn B tới kinh Vân Trình, suốt chiều dài đối diện với Chiến Đoàn C của đại tá Gauthier thì cái bẫy đã gói trọn “Con Đường Buồn Thiu” vào giữa. Các gọng kềm thép của các lực lượng trang bị hiện đại, có thêm sự hỗ trợ của tàu thủy, xe lội nước, xe tăng và máy bay, cố bao vây những người lính được huấn luyyện một cách vội vã, do những người chỉ huy có trình độ chiến thuật không cao, nhưng cuối cùng chẳng bắt được ai cả.

Để ăn chắc, người ta bắt giữ những kẻ tình nghi, đó là những người đang ở trong tuổi lính, không chứng minh được là người thuộc trong làng nên bị tình nghi là đang ở trong đơn vị quân Cộng Sản.

Người ta cũng tìm được một ít vũ khí và ở phía cực bắc của khu vực bị bao vây: Đơn Quế, nơi quân Cọng Sản đã chống lại, một ít bị bắt với vũ khí trong tay. Nhưng toàn bộ cuộc hành quân Camargue kể từ hôm bắt đầu cho đến gần hai ngày sau thì coi như thất bại. Tuy nhiên, cuộc chiến chưa hẵn đã chấm dứt.

Máy bay trinh sát bay thấp phát hiện có sự di chuyển về hướng làng An Hội, có chứng cớ cho thấy vài đơn vị của trung đoàn 95 chạy thoát về hướng bắc. Vì vậy, tới 1 giờ trưa, tướng Leblanc ra lệnh cho lính thủy và một vài đơn vị bộ binh thuộc Chiến Đoàn A thực hiện cuộc tấn công vào An Hội. Cuộc tiến công diễn ra thật nhanh, đổ bộ lúc 3 giờ chiều, lục soát những gì nghi ngờ và trở lại tàu lúc 6giờ chiều. Nhiệm vụ hoàn thành.

Còn một việc cần hoàn thành trong các làng đã bị chiếm đóng: lục soát từng nhà, tìm những gì cất dấu và các cán bộ Cọng Sản, những người nầy mặc đồ đen, chỉ khoảng 20 tuổi, thực sự là những người điều khiển chiến tranh bên phía địch. Hàng trăm lính bộ binh cầm máy dò mìn tỏa ra đi tìm, hoăc họ chỉ cầm cây sắt xâm

hầm hay dộng báng súng xuống đất, nơi nào nghi có hầm bí mật, có người thì cầm tay nhau nối thành giây, để mò xuống các đầm lầy, ao hồ tìm vũ khí địch cất dấu hoặc trang bị chất đống dưới nước. Một khối lượng lớn người đi lên đi xuống khắp cả vùng quê.

Thỉnh thoảng có người kêu to đau đớn và đồng đội kéo anh ta lên khỏi mặt nước. Chân anh đạp trúng chông. Một mảnh gỗ có cắm những cái chông đầu có hình mũi tên nhọn có thể đâm thủng chiếc giày nhà binh. Vì bị nhiễm độc, chân người phải ba bốn tháng mới lành. Tuy nhiên người ta vẫn nắm tay nhau thành một sợ giây dài để lội xuống nước hoặc những toán dò mìn và quân khuyển tiếp tục công việc nhàm chán và đều đặn đó mà biết chắc chẳng kết quả gì.

Trên đỉnh các ngọn đồi cát, các xe Crabs và Alligators của Chiến Đoàn Xe Lội Nước 2 và 3 đang quan sát vùng bờ biển làng Trung An chờ các toán tình báo an ninh người Việt và Pháp đưa người tới. Họ chính là nạn nhân chiến tranh, những người dân thường xui xẻo khi các xe thiết giáp quân Pháp càn quét các khu ruộng lúa, với chỉ mười phút phá hại công trình trồng trọt của người dân đã được năm tháng mà việc cày bừa thì quá sức nặng nhọc; hoặc còn bị cán bộ kinh tài bắt đóng thuế cho đảng sau khi đã đóng 3 phần tư cho chủ ruộng hay chủ nợ nặng lãi và thuế cho chính phủ. Tình thế thật tệ hại, chẳng có tiền may áo cho bé Hoàng đi học ở trường làng, cũng không có cá, thịt heo cho tết năm nay.

Tới cuối ngày D+2, mọi sức kháng cự không còn. Ngày hôm sau các đơn vị tiên phong, nhảy dù, các toán đổ bộ và biệt động được lệnh rút lui. Bây giờ là công việc kiểm soát thường trực vùng mới chiếm đóng. Những cây cầu bị phá mấy năm trước nay được dựng lại, những con đường bị Việt Minh cắt khúc được đắp lại. Những hầm hào chiến đấu do Cọng Sản dựng chung quanh “Con Đường Buồn Thiu” bị loại bỏ. Viên chức chính quyền Quốc Gia e ngại xuất hiện trước con mắt dân chúng thù nghịch hay sợ hãi sau một tuần chiến đấu và nhiều năm sống cô lập mà mọi thứ đều thiếu thốn, ngay cả viên thuốc trị bệnh sót rét.

Thiếu tá Derrieu của Tiểu Đoàn 6 Ma-Rốc, nhìn một vài viên chức chính quyền mới ở trong làng Đơn Quế, nói: “Thực là buồn cười, trông họ chẳng bao giờ có thể thành công, làm đúng những gì người dân mong muốn, dù họ có muốn tạ lỗi với tất cả mọi người. Chúng ta mới thực hiện một cuộc hành quân bằng máy bay và chiến xa còn họ thì khoác lác khoe khoang hoặc đe dọa dân làng làm như họ là kẻ thù của đất nước mà chúng ta phải đối đầu.”

Dujardin, một trung úy còn trẻ, đứng cạnh bóng im của một chiến xa M-24, nói: “Có thể như vậy, nhưng tối nay tôi chẳng quan tâm đến họ sau khi chúng ta rút quân ra khỏi vùng nầy. Họ sẽ ở lại đây cùng với nhóm nhân viên hành chánh ngay trong ngôi nhà người chỉ huy Cọng Sản ngủ ở đó tối hôm qua, cách cái đồn gần nhứt là ba trăm mét. Tôi chắc rằng họ không dám ngủ ở đây mà vào ngủ trong đồn.”

– “Có lẽ vậy, họ sẽ mất mặt với dân làng và công việc của họ trở thành vô ích.”

– “Nếu không vào ngủ trong đồn, ngày mai họ chết. Đúng là chẳng ích lợi gì. Dù sao, với hậu quả tâm lý của cuộc hành quân, chúng ta có thể bắt đầu với toàn bộ công việc ngay từ bây giờ cho tới ba tháng tới. Thật là một thứ hổn độn vô ích.”

– “Vâng, nếu người Việt Nam không thể thắng thì chúng ta cũng vậy thôi. Dù sao, đây cũng là đất nước của họ. Chúng ta hãy lên xe thôi.” Rồi hai người nhún vai đi về phía các chiếc xe tăng, trèo lên pháo tháp.

Bên dưới, trong làng Đơn Quế bị chiến trận tàn phá, các viên chức hành chánh người Việt trẻ đầy nhiệt tình mặc áo kaki và quần đen vẫn còn nói chuyện với dân làng đang đứng im lặng và bất động như các pho tượng gỗ.

Ngày 4 tháng 8/1953, Bộ Chỉ huy Cao cấp tuyên bố chấm dứt cuộc hành quân Camargue. Theo tin báo chí, cuộc hành quân hoàn toàn thắng lợi, một lần nữa chứng minh sự tiến bộ và linh động của quân đội Pháp và giá trị trang bị lưu động của họ trong chiến tranh đầm lầy. Tuy nhiên, trong chính báo cáo của họ thì cuộc hành quân đem lại những cảm giác lẫn lộn.

Trung đoàn 95 mất dạng một thời gian ở vùng bờ biển Trung Việt, khoảng vài chục làng lại được đặt dưới quyền kiểm soát của chính quyền Quốc Gia. Nhưng đây không phải là cuộc hành quân “rẻ tiền”. Một con số lớn và quan trọng về binh lính cũng như quân dụng của địch đã được rút khỏi các khu vực sinh tử, nơi họ thiếu thốn một cách nghiêm trọng và chính nơi họ vắng mặt tạo nên tình trạng khẩn cấp cho họ.

Kết quả thiệt hại thực tế của địch làm cho người ta nãn lòng. Về phía quân Pháp có 17 người tử trận và 100 bị thương; địch 182 chết và 387 người bị bắt cùng với 51 súng trường, 8 súng máy, 2 súng cối và 5 trung liên B.A.R bị tịch thu. Trong số nầy, không rõ bao nhiêu người thuộc Trung Đoàn 95 hay thuộc lực lượng du kích địa phương.

Về chiến thuật chiến tranh đầm lầy, cuộc hành quân Camargue một lần nữa cho thấy rằng khó có thể khóa kín vòng vây một khi một tiểu đoàn trấn giữ hơn một cây số rưởi bề dài – Thật ra các tiểu đoàn ở cạnh sườn phía nam của khu vực bao vây cuối cùng đã trấn giữ mộ chiều dài hơn ba cây số. Do đó, một số lớn quân Cọng Sản lọt ra khỏi vòng vây qua những lỗ lưới (bouclage). – Vòng bao vây bộ binh và thiết giáp Pháp trở thành dấu hiệu báo trước chẳng bao lâu bộ binh sẽ chầm chậm tiến tới vào ngày hành quân đầu tiên, loại trừ mọi hy vọng xiết chặt khu vực bao vây chót vào khi đêm xuống.

Bộ binh tiến chậm, tính trung bình một cây số rưởi một giờ đồng hồ. Tại đây, vị chỉ huy chiến thuật gặp phải tình trạng tấn thối lưỡng nan. Mục đích cuộc hành quân không phải là chiếm lĩnh diện địa mà càn quét Cọng quân ra khỏi vùng họ dễ trốn tránh, núp lén, các hầm bí mật. Do vậy bất cứ một cuộc tiến quân nhanh nào sẽ làm lỡ cơ hội kiếm tìm vũ khí, binh lính và các tổ chức bí mật của địch. Tình trạng tấn thối lưỡng nan nầy làm hao tốn thời gian của cuộc hành quân càn quét và chẳng bao giờ làm thỏa mãn ý đồ của cuộc hành quân đó.

Về căn bản, khuyết điểm quan trọng của cuộc hành quân Camargue cũng tương tự như các cuộc hành quân khác của Pháp ở Đông Dương, không khóa chặt lực lượng địch có thể thành công trừ phi lực lượng tấn công trội thế hơn với tỷ lệ 15/1 hay 20/1 so với quân phòng thủ vì địch thì quen địa thế, có lợi về mặt tổ chức phòng ngự và được cảm tình của dân chúng.

Quân Cọng sản có thêm một lợi thế quyết định khác là tin tức tình báo. Ít khi phía Pháp biết chắc là họ tìm kiếm gì trong một cuộc hành quân càn quét như thế. Mặt khác, chính vì mức độ quân số và tính cơ khí hóa của quân Pháp khi chống lại Việt Minh trước sau gì rồi cũng để lộ ý đồ của Pháp hoặc ngay cả lệnh lạc đã được ban ra. Việc xử dụng một lực lượng lớn lao như vậy cần có tin tình báo chính xác và đầy đủ và quan hệ giữa các viên chức tình báo ít hiện diện và chưa bị phát hiện. Do đó, tính chất bất thần của chiến thuật là – ngoại trừ tấn công bằng nhảy dù- phải tiến quân nhanh như một yếu tố bù trừ cho hành động kiểm soát kỹ lưỡng khu vực tiến quân.

Về phía Việt Minh, Trung Đoàn 95 vẫn tồn tại và về sau, mùa xuân năm 1954, tiếp tục chiến đấu, lại thâm nhập vào vùng đất đã bị càn quét, tấn công các đoàn xe trên Quốc Lộ 1, và tấn công ngay cả một tiểu đoàn Quân Đội Quốc Gia đóng gần Huế. Đơn vị nầy rút đi vào tháng 7/ 1954 theo Hiệp Định Đình Chiến Genève chia Việt Nam làm hai miền dọc theo vĩ tuyến 17 ở phía bắc Quảng Trị. Môt lần nữa, Trung Đoàn 95 đào bới vũ khí của họ chôn dấu dưới đầm lầy, ao hồ và xuất đầu lộ diện giữa thanh thiên bạch nhật tiến ra phía bắc, dọc theo con đường số 1 mà họ đã chiến đấu một cách gian khổ. Dọc theo con đường nầy, thỉnh thoảng có những trạm đóng quân của các chiến xa thuộc tiểu đoàn 6, súng thì chỉa lên trời, pháo tháp mở bung nắp ra.

Hòa bình ngắn ngủi diễn ra trên Quốc Lộ 1. Đầu năm 1962, vài cuộc phục kích xảy ra mà người ta biết là do những đơn vị chuyên nghiệp và thiện chiến, và chẳng bao lâu sau, quân đội Miền Nam cho biết rằng họ đã xác minh được đơn vị hoạt động trong vùng là Trung Đoàn 95 Cọng Sản. Trung đoàn nầy đã quay trở lại “Con Đưởng Buồn Thiu”.

Dịch xong ngày 4 tháng 10 năm 2002

Tuệ Chương Hoàng Long Hải

Đọc toàn bài 

 Con Đường Buồn Thiu