Wednesday, December 31, 2014

VietPress USA

NĂM MỚI 2015 CÁC HÃNG MỸ SẼ Ồ ẠT THÁO CHẠY
KHỎI TRUNG QUỐC ĐỂ TRỞ LẠI HOA KỲ.



Tuesday, December 30, 2014

Mohamed A. El-Erian

  Các Triển Vọng Dị Biệt
Về Kinh Tế Thế Giới Trong Năm 2015


Trong năm sắp đến, sự dị biệt sẽ là một đề tài quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu và được đem áp dụng cho các lĩnh vực thuộc về các xu hướng, các chính sách và các thành tưụ. Trong khi năm mới diễn ra, hoà giải các dị biệt này sẽ càng khó hơn, và giới hoạch định chính sách sẽ phải đứng trước một sự lựa chọn: họ phải vượt qua các trở ngại đã làm ngăn trở các biện pháp hữu hiệu hoặc là chấp nhận nguy hiểm tạo cho nền kinh tế của họ sẽ lâm vào cảnh bất ổn.

Nền kinh tế toàn cầu có nhiều tốc độ sẽ bị khống chế bởi bốn nhóm của các quốc gia.

Mỹ lãnh đạo nhóm thứ nhất và sẽ trải nghiệm các cải thiện liên tục trong các thành tựu kinh tế. Các thị trường lao động của Hoa Kỳ sẽ mạnh hơn, tạo ra việc làm khi kết hợp với việc tăng lương. Các lợi lộc của tăng trưởng kinh tế sẽ được phân phối ít bất công hơn so với một vài năm qua, cho dù nó sẽ vẫn còn tích lũy một cách bất cân xứng dành riêng cho những người mà họ vốn dĩ đã là khá giả.

Trung Quốc dẫn đầu nhóm thứ hai và sẽ đem lại bình ổn về tăng trưởng ở mức thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng kỷ lục trước đây, trong khi tiếp tục hoàn thiện về mặt cơ cấu. Trung Quốc sẽ lần lượt chuyển hướng các mô hình tăng trưởng làm sao cho bền vững hơn – một nỗ lực sẽ bị lung lay vì thảng hoặc sẽ có những đợt gây bất ổn trong thị trường tài chính toàn cầu, cho dù không làm đến độ phải suy sụp. Và Trung Quốc tiếp tục hướng sâu hơn về các thị trường nội địa, cải thiện các khung pháp luật, đẩy mạnh khả năng cho khu vực kinh tế tư nhân và mở rộng phạm vi quản lý kinh tế hướng về thị trường.

Châu Âu lãnh đạo nhóm thứ ba và sẽ tranh đấu khi những trì trệ kinh tế còn kéo dài, mà nó châm ngòi cho những bất mãn chính trị và xã hội trong một vài quốc gia và làm trầm trọng hơn về các quyết định thuộc về chính sách điạ phương. Có tăng trưởng mà không có thực lực, có nhiều sức gây giảm phát và tình trạng ngập nợ sẽ ngăn trở đầu tư, tất cả tác động làm cho cán cân quân bình các nguy cơ nghiêng nặng xuống phiá tác hại. Trong những nền kinh tế đang đứng trước những thách thức to lớn thì tình trạng thất nghiệp sẽ còn ở một mức độ báo động cao và kéo dài, đặc biệt nhất là trong giới trẻ.

Nhóm thứ tư gồm có các quốc gia khác còn lại mà tầm vóc và sự nối kết của các quốc gia này có nhiều ảnh hưởng quan trọng cho toàn bộ hệ thống. Thí dụ đáng kể nhất là Nga. Đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế đang lún sâu, tiền tệ đang trên đà suy sụp, vốn tư bản tháo chạy, tình trạng khan hiếm hàng nhập khẩu theo hợp đồng, Tổng thống Vladamir Putin sẽ cần quyết định liệu xem có nên thay đổi sách lược trong vấn đề Ukraine hay không, có nên tái tục kết thân với phương Tây để cho phép giải toả cấm vận và xây dựng một nền kinh tế đa dạng và bền vững hơn hay không.

Một giải pháp tương ứng khác có thể đem ra thử nghiệm để làm giảm bớt sự bất mãn của dân chúng trong nước bằng cách mở rộng sự can thiệp của Nga với Ukraine. Phương sách này có thể sẽ mang đến hậu quả là có một loạt các cấm vận và chống phong toả mới, nó sẽ cảnh báo cho Nga biết là Nga sẽ rơi vào một tình hình suy thoái trầm trọng hơn – và thậm chí có lẽ Nga sẽ rơi vào một hoàn cảnh bất ổn chính trị hay chịu nhiều nguy cơ trong lĩnh vực đối ngoại – trong khi làm trầm trọng hơn các khó khăn kinh tế của châu Âu.

Brazil là một nước đáng kể khác còn lại trong nhóm này. Do bị trừng phạt vì suýt thất cử trong kỳ tranh cử Tổng Thống gần đây, Tổng Thống Dilma Rousseff đã thể bày tỏ ý muốn cải thiện quản lý kinh tế vĩ mô, bao gồm cả sự chống lại việc rơi vào tình trạng ngưng động, những lợi lộc tiềm tàng của qủan lý kinh tế nay trở thành mờ nhạt nếu so với mức thiệt hại phụ thuộc và các hậu quả không thể lường được. Nếu Brazil tham gia cùng với Mexico để đem lại cho châu Mỹ La tinh một tình trạng bình ổn hơn trong năm 2015, Bà sẽ phải giúp cho khu vực này vượt qua những hiệu ứng gây tác hại cho nền kinh tế Venezuela đang bị suy yếu do giá dầu xuống thấp.

Thành tựu kinh tế với nhiều loại tốc độ khác nhau sẽ đóng góp cho ngân hàng trung ương có nhiều phướng hướng khác nhau khi áp lực về các chính sách dị biệt về mặt tiền tệ gia tăng, đặc biệt nhất là tại những nền kinh tế tiên tiến quan trọng trong hệ thống. Ngân hàng Trung ương Hoa kỳ đã ngưng chương trình quy mô để mua lại các trái phiếu dài hạn, dường như đã bắt đầu tăng lãi xuất trong qúy đầu của năm 2015. Ngược lại, Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ tiếp tục theo đuổi chương trình sơ cứu qua hình thức tăng mức lưu hoạt có định lượng (quantitative easing), đưa ra một loạt các biện pháp mở rộng bảng cân đối quyết toán trong qúy đầu năm. Ngân hàng Nhật bản sẽ duy trì chính sách để gây khích lệ vực dậy nền kinh tế tiền tệ.

Dĩ nhiên, không có một giới hạn lý thuyết nào cho sự dị biệt. Vấn đề là hiện nay việc thay đổi tỷ lệ hối xuất biểu hiện là một cơ chế duy nhất cho việc hoà giải, và sự phân chia giữa một vài cách đánh giá về thị trường và các nền tảng của nó, hai việc này đã trở thành lan rộng đến độ giá cả sẽ có khả năng bị tổn thương, hậu qủa này còn tùy thuộc theo các đợt biến động.

Đối với Mỹ, việc kết hợp một chính sách kinh tế mạnh hơn với một chính sách tiền tệ ít thích nghi hơn sẽ tạo thêm áp lực làm nâng cao tỷ giá hối xuất cuả đồng Đô la, mà trước đây vốn dĩ đã làm phá giá đáng kể – chống lại cả đồng Euro lẫn đồng Yen. Khi có ít các nước khác thoả thuận tăng cường tiền tệ, khuynh hướng tăng giá đồng Đô la vẫn còn mạnh và có hậu thuẫn rộng rãi, có tiềm tàng thành những phong trào chống đối trong nước.

Hơn thế, khi ngày càng trở nên khó khăn hơn đ ể cho thị trường tiền tệ thực hiện vai trò của một nhà hoà giải đúng mức, sự bất đồng giữa các nuớc có thể xãy ra. Việc này sẽ gây bất ổn cho tình trạng bình an bất thường, mà gần đây nó có tác động trên thị trường cổ phiếu.

Điều may mắn là có những phương cách đảm bảo là những dị biệt trong năm 2015 này không đưa tới những tình trạng phá vỡ kinh tế và tài chính. Thực ra, hầu hết các chính phủ – đặc biệt là tại châu Âu, Nhật Bản và Mỹ, đã có những công cụ mà họ cần làm để giảm bớt căng thẳng đang lên cao và trong tiến trình này, họ giải toả được các tiềm năng sản xuất cho nền kinh tế c ủa họ.

Tránh tiềm năng tác hại của tình trạng dị biệt không phải là vấn đề phác thảo chính sách, giữa các nhà kinh tế đã có một sự đồng thuận rộng lớn, nếu không nói là phổ quát, về các biện pháp cần thiết trong mức độ quốc gia, khu vực và toàn cầu. Nói cho đúng hơn, đó là một vấn đề áp dụng – nhận ra các đòi hỏi đúng đắn về ý muốn kiên trì và quan trọng về mặt chính trị. Gây sức ép đối với chính giới để họ đáp ứng đựợc các nguy cơ của tình trạng dị biệt này sẽ gia tăng trong năm tới. Nếu họ bất động thì các hậu quả của vấn đề sẽ kéo dài vượt qua khỏi năm 2015.

Mohamed A. El-Erian
Dịch thuật: Đỗ Kim Thêm, LLM, MA

Monday, December 29, 2014

Trần Trung Đạo

Viện Khổng Tử,
cơ quan tuyên truyền và tình báo Trung Cộng


Các nước trên thế giới, dù nhỏ hay lớn đều muốn nhân loại biết đến những cái hay cái đẹp của nước mình. Viện Goethe (Goethe-Institut), đặt tên theo nhà văn và chính khách Đức Johann Wolfgang von Goethe, có 159 cơ sở hoạt động gần khắp thế giới để trao đổi văn hóa và ngôn ngữ. Viện Goethe tự trị về tài chánh và độc lập điều hành từ chính phủ Đức. Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) do một số trí thức Pháp trong đó có nhà khoa học Louis Paster, nhà văn JulesVerne, sáng lập từ 1883, có mặt trên 137 quốc gia với tổng số gồm 850 trung tâm cũng hoạt động độc lập với chính phủ Pháp.

Các nước Phi Châu tuy nghèo nàn, lạc hậu về kỹ thuật, bị thực dân xâm lược rồi nội chiến triền miên nhưng không phải vì thế mà họ không kiêu hãnh với nền văn hóa và cũng luôn tìm mọi cách để giới thiệu cùng nhân loại những nét đặc thù của dân tộc họ. Hiến chương Phục Hưng Văn Hóa Phi Châu được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chuẩn y ngày 24 tháng Giêng 2006 đã tạo điều kiện phục hưng các giá trị và giới thiệu văn hóa Phi Châu đến các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc. Ngày nay nhiều viện văn hóa Phi Châu do tư nhân tài trợ có mặt nhiều nơi trên thế giới.

Phát huy văn hóa là lẽ tự nhiên và đáng ca ngợi. Ngoài trừ những kẻ tự thu mình trong góc tối, sống trong ảo tưởng “quê hương mình là đẹp hơn cả” dù suốt đời không ra khỏi nhà để rồi trở nên ngày thêm u mê lạc hậu, phần lớn các lãnh đạo và con người trên thế giới đều biết trong cái riêng bao giờ cũng có cái chung, văn hóa của một dân tộc là một phần của văn minh nhân loại.

Thế nhưng, những khái niệm văn hóa, độc lập, tự trị, phi chính phủ của các trung tâm, các viện văn hóa nêu trên không áp dụng trong trường hợp các Viện Khổng Tử của Trung Cộng, bởi vì thực chất của các viện này chỉ là cơ quan tuyên truyền, tình báo và được đặt dưới sự lãnh đạo của Cục Tuyên Truyền Trung Ương đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tuyên truyền là xương sống của chế độ CS. Từ khi thành lập đảng CSTQ năm 1921 đến nay, tuyên truyền luôn đóng một vai trò quyết định trong việc thực thi các chính sách của đảng. Cục Tuyên Truyền Trung Ương do Lý Trường Xuân, Ủy viên Bộ chính trị đứng hàng thứ năm làm Cục Trưởng.

Tại sao là Viện Khổng Tử mà không là Viện Mao Trạch Đông hay Viện Đặng Tiểu Bình?

Bản chất của CS từ Âu sang Á là giấu mặt và vận dụng ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử trong đó Khổng Tử là một trong những nạn nhân.

Trong thời kỳ sau 1949 đến 1966, lãnh đạo Trung Cộng dựa vào Khổng Tử như biểu tượng của quyền hạn gia đình bởi vì trong giai đoạn đó Mao chủ trương phân tán quyền sở hữu đất đai xuống các đơn vị gia đình qua trung gian các chính sách cải cách ruộng đất và Bước Tiến Nhảy Vọt đầy thảm họa.

Mao ca ngợi Khổng Tử “nhiệm vụ của chúng ta là nghiên cứu các thành tựu lịch sử và đánh giá chúng với quan điểm Mác Lê. Trung Hoa có một lịch sử dài nhiều ngàn năm với đặc tính riêng và là những kho tàng quý báu… Chúng ta phải tổng hợp từ Khổng Tử đến Tôn Dật Tiên và kế thừa các truyền thống giá trị này”. Lưu Thiếu Kỳ còn đi xa hơn khi cho rằng Khổng Tử có nhiều đặc điểm của một người CS tốt.

Tuy nhiên, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, bao nhiêu thất bại, sai lầm của Mao đều được đổ lên đầu Khổng Tử khi chiến dịch Chống Bốn Cũ (nhận thức cũ, văn hóa cũ, truyền thống cũ, tập quán cũ) được phát động. Nội dung của Cách Mạng Văn Hóa được tóm tắt là “cái mới” chống “cái cũ” và trong đó Khổng Tử đại diện cho mọi “cái cũ” và biểu tượng của xã hội giai cấp. Không chỉ chống Khổng Tử về mặt tư tưởng mà cả đền thờ, di tích, sách vở đều bị đục bỏ hay đốt phá. Mao phát biểu “đọc sách nhiều quá sẽ làm tê liệt khả năng nhận thức”.

Mục đích chống Khổng Tử của Mao là để đương đầu với sự thất bại kinh tế do chính y gây ra và chống lại những lãnh đạo thực tâm sùng bái Khổng Tử trong đó có Lưu Thiếu Kỳ. Kết quả, 60 phần trăm lãnh đạo CS các cấp bị thanh trừng qua nhiều hình thức.

Khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ ba, thế giới thay đổi và sẽ thay đổi một cách nhanh chóng trong thời gian tới. Sự toàn cầu hóa không chỉ diễn ra trong lãnh vực kinh tế mà cả văn hóa, xã hội. Nhân vật lịch sử cần được đánh bóng không phải là hai hồn ma CS Mao hay Đặng mà chính là Khổng Tử. Lãnh đạo Trung Cộng Hồ Cẩm Đào khi giới thiệu Khổng Tử đã ca ngợi ông ta chủ trương một “xã hội hài hòa”. Bộ máy tuyên truyền Trung Cộng in Luận Ngữ và là tác phẩm phát hành nhiều nhất ở Trung Quốc, và các ấn bản ngoại ngữ cũng được giới thiệu nhiều nơi trên thế giới.

Theo Giáo sư Gilbert Rozman thuộc khoa xã hội học, đại học Princeton, Trung Cộng “muốn thế giới nhìn vào lịch sử Trung Quốc và những vinh quang quá khứ để khuyến khích họ chấp nhận một Trung Quốc hiện nay nhiều hơn”. Phê bình quan điểm của Hồ Cẩm Đào, Giáo sư Perry Link, Ban Đông Á, đại học Princeton cho rằng có sự mâu thuẫn về căn bản là cái cách chính phủ Trung Cộng sử dụng Khổng Tử để đại diện cho văn hóa Trung Hoa hài hòa ở nước ngoài trong khi đó đảng áp dụng chính sách toàn trị hà khắc đối với người dân trong nước.

Lịch sử hình thành Viện Khổng Tử

Kế hoạch Viện Khổng Tử được chính thức ra đời vào tháng Sáu năm 2004. Sau vài lần thử nghiệm tại Uzbekistan, viện đầu tiên được khánh thành ngày 21 tháng 11 năm 2004 tại Seoul, Nam Hàn. Đến nay, 2014, đã có 480 Viện Khổng Tử rải rác khắp sáu lục địa. Lãnh đạo Trung Cộng tuyên bố vào năm 2020 con số Viện Khổng Tử sẽ lên đến một ngàn viện.

So với Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) được thành lập 131 năm trước, con số một ngàn đầy tham vọng và cấp bách của Trung Cộng rõ ràng không phải chỉ thuần mục đích văn hóa. Tạp chí The Economist nhận xét Viện Khổng Tử chỉ là “cơ quan nhà nước” CS và do đó chấp hành một cách nghiêm chỉnh các chủ trương của đảng. Với điều kiện thông tin ngày ngay, nhận xét của tạp chí The Economist có thể kiểm chứng một cách dễ dàng.

Các chức năng mặt nổi của Viện Khổng Tử

Theo tài liệu chính thức, Viện Khổng Tử là bộ phận của Hán Ban (汉办) “một cơ quan của Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, một tổ chức không lợi nhuận, phi chính phủ, liên kết với Bộ Giáo Dục Trung Quốc” Nhiệm vụ công khai của Viện Khổng Tử là “giảng dạy Hoa ngữ ” và “đóng góp vào sự thành hình một thế giới đa dạng và hài hòa”.
Hán Ban, về cơ cấu trực thuộc Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, trong thực tế chẳng phải phi lợi nhuận, tự trị gì mà do một lãnh đạo CS cấp trung ương điều hành. Chủ tịch Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ là bà Chen Zhili. Bà Chen sinh tháng 11 năm 1942, nguyên Cố Vấn Nhà Nước kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục Trung Cộng. Bà gia nhập đảng CSTQ năm 1961. Nguyên là Bí Thư đảng bộ Ban Khoa Học Kỹ Thuật Thượng Hải, sau đó được thăng cấp giữ chức Giám Đốc Ban Tuyên Truyền Thượng Hải kiêm Phó Bí Thư Ban Chấp Hành Đảng Bộ Thượng Hải. Từ năm 2008 bà Chen là Phó Chủ Tịch Quốc Hội Trung Cộng. Về cấp bậc đảng, bà Chen là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSTQ tại các đại hội 15, 16, 17 đảng CSTQ. Tổng giám đốc hiện nay của Hán Ban là bà Xu Lin, cấp thứ trưởng trong chính phủ, thành viên của Hội Đồng Nhà Nước và ủy viên Hội Đồng Tham Vấn Chính Trị. Điều đó cho thấy cả hai lãnh đạo Viện Khổng Tử đều là cán bộ tuyên truyền cao cấp chứ chẳng thuần túy văn hóa, ngôn ngữ gì.

Về tài chánh, theo Chinadigitaltimes, Viện Khổng Tử được sử dụng một ngân sách rất cao lên đến nhiều tỉ yuan và website của Viện Khổng Tử cũng được xếp vào một trong những website tốn kém nhất tại Trung Cộng. Bà Chen Zhili ra ngoại quốc được quyền sử dụng tiền bạc một cách rộng rãi so với các ngân sách giáo dục khác. Mặc dù rất ngạc nhiên trước thái độ yểm trợ tài chánh dồi dào của Trung Cộng, nhiều đại học quốc tế, kể cả Mỹ, cần tiền bảo trợ cho các chương trình Hoa Ngữ nên cũng không khó khăn lắm trong việc chấp nhận sự thành lập Viện Khổng Tử.

Các chức năng mặt chìm của Viện Khổng Tử

– Thực hiện chủ trương tuyên truyền “sức mạnh mềm”: Theo Giáo sư Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm được định nghĩa như là khả năng đạt được mục tiêu bằng ảnh hưởng, hợp tác với đối phương thay vì ép buộc đối phương phải tuân hành. Người viết đã phân tích chi tiết trong bài Từ Hồ Cẩm Đào đến Obama, bài học về chính sách Sức mạnh mềm (Soft power).
Joseph Nye Jr. tóm tắt quan điểm này trong tác phẩm Sức mạnh Mềm: Phương tiện để Thành công trong Chính trị Thế giới (Soft Power: The Means to Success in World Politics): “Một quốc gia có thể đạt được kết quả mong muốn trong chính trị thế giới bởi vì các quốc gia khác – khâm phục giá trị của nó, tích cực noi gương các thành tựu nó đạt được, khát vọng để đạt đến mức độ thịnh vượng và mở rộng của nó, muốn theo chân nó. Trong ý nghĩa đó, quan trọng là đặt ra một nghị trình và thu hút các quốc gia khác trong chính trị thế giới, và không chỉ buộc họ thay đổi bằng các đe dọa quân sự hay trừng phạt kinh tế.”

Cũng theo Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm của một quốc gia đặt trên ba nguồn: văn hóa, giá trị chính trị và chính sách đối ngoại. Áp dụng chính sách sức mạnh mềm trong phạm vi thế giới đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chính sách tuyên truyền quốc tế của Hồ Cẩm Đào và các lãnh đạo Trung Cộng hiện nay.

Trung Cộng có hai đường lối tuyền truyền tương đối độc lập gồm tuyên truyền đối nội nhằm kiểm soát nhận thức người dân và tuyên truyền đối ngoại tập trung vào việc ảnh hưởng dư luận quốc tế một cách phù hợp với chính sách đối ngoại của đảng CSTQ. Tạp chí Economist giải thích các Viện Khổng Tử được sử dụng nhằm giành được sự đồng thuận của dư luận thế giới.

Mục đích cụ thể của đường lối tuyên truyền đối ngoại gồm (1) trấn an dư luận thế giới về một Trung Cộng đe dọa, (2) bảo đảm nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng lãnh phí, (3) xây dựng các liên minh quốc tế và làm yếu vai trò của Đài Loan trong cộng đồng thế giới, và (4) phát huy một thế giới đa phương và giới hạn sức mạnh của Mỹ.
Khi Hồ Cẩm Đào công bố chủ trương áp dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới đầu năm 2009, Lý Trường Xuân không giấu diếm khi cho rằng các Viện Khổng Tử là “cửa ngõ quan trọng để làm sáng danh văn hóa Trung Quốc, giúp mở rộng văn hóa Trung Quốc, đó là phần của chiến lược tuyên truyền quốc tế”.

Mặc dù luôn bào chữa là “khách quan”, “độc lập”, các vấn đề nhạy cảm như biến cố Thiên An Môn, Pháp Luân Công, Tây Tạng v.v. đều bị gạch bỏ khỏi các chương trình giảng dạy tại các Viện Khổng Tử và các học viên không được phép bàn đến các vấn đề này. Do đó, khác với nội dung do Joseph Nye phác họa, chính sách của CSTQ thực chất là một chính sách tuyên truyền và mua chuộc, tương tự như chính sách thực dân trước đây.

- Hang ổ tình báo: Trung Cộng hiện có 60 triệu Hoa Kiều sinh sống gần như tại hầu hết quốc gia trên thế giới và việc sử dụng nguồn lực của đạo quân thứ năm này để phục vụ một cách hữu hiệu đường lối đảng là một quan tâm lớn của lãnh đạo Trung Cộng.

Tờ báo có uy tín của Mỹ Forbes, trong tháng 10 2014, tố cáo một trong những trường đại học rất uy tín tại Mỹ, đại học Stanford, đã hợp tác với Trung Cộng qua trung gian Viện Khổng Tử. Ngân sách của viện do Trung Cộng tài trợ. Tác giả bài viết trên Forbes trích lời phát biểu của Arthur Waldron khi nói rằng “Viện Khổng Tử có thể đóng vai trò then chốt trong việc ảnh hưởng chính sách tình báo của Trung Cộng”.

Cũng trên Forbes, tác giả Eamonn Fingleton, chỉ trích các trường đại học Mỹ bán rẻ lương tâm trí thức qua việc im lặng trước sự kiện Thiên An Môn. Lý do, tiền của Bộ Giáo Dục Trung Cộng đổ vào các đại học này một cách ồ ạt qua cửa Viện Khổng Tử. Hiện nay có khoảng 220 ngàn sinh viên Mỹ theo học các Viện Khổng Tử. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên và nguy hiểm là các hợp đồng giữa Bộ Giáo Dục Trung Cộng và các đại học Mỹ đều phải được giữ kín.

Theo Abrice De Pierrebourg, một cựu chuyên viên ngành tình báo Pháp, nhiều “chuyên viên ngôn ngữ Trung Quốc” lại có lý lịch gốc an ninh tình báo. Chức năng của những người này không phải là giáo dục mà là kiểm soát sinh viên gốc Hoa sinh ra ở nước ngoài và đồng thời tuyển dụng tình báo để làm việc cho Trung Cộng.

Phóng viên Omid Ghoreishi của báo The Epoch Times, trong điều tra Bắc Kinh Sử Dụng Viện Khổng Tử cho mục đích Gián Điệp (Beijing Uses Confucius Institutes for Espionage) đã trích dẫn lời của Michel Juneau-Katsuya, cựu Trưởng Cơ Quan An Ninh Tình Báo đặc trách Á Châu Thái Bình Dương của chính phủ Canada rằng với kinh nghiệm nhiều chục năm của ông hoạt động trong khu vực, cho thấy Trung Cộng không ngừng nỗ lực để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác.

Cũng theo lời ông Michel Juneau-Katsuya, đương kim chủ tịch chấp hành công ty an ninh Northgate SSI và một trong những chuyên viên an ninh được trích dẫn nhiều nhất tại Canada, Viện Khổng Tử là một đe dọa đối với chính phủ và nhân dân Canada. Ông khẳng định “Có những thông tin cho thấy rõ ràng các cơ quan tình báo Tây phương đã xác định Viện Khổng Tử như hình thức của cơ quan tình báo do Trung Cộng sử dụng và cũng do Trung Cộng tuyển dụng”.
Bài báo trên The Epoch Times cũng nhắc lại lời tuyên bố của Hồ Cẩm Đào như một bằng chứng cho thấy các Viện Khổng Tử thực chất là hang ổ gián điệp. Họ Hồ phát biểu “Sau nhiều năm nỗ lực, chúng ta đã tìm ra cách để trồng cấy và chuẩn bị những người ủng hộ đảng chúng ta”. Dĩ nhiên các lãnh đạo Trung Cộng luôn bác bỏ những lời tố cáo của các chuyên viên tình báo quốc tế và uy tín như Michel Juneau-Katsuya.

Các lãnh đạo Trung Cộng hãnh diện khi nhắc đến Viện Khổng Tử như một phần của “mặt trận đoàn kết” chống kẻ thù. Nhưng kẻ thù của “mặt trận” này là ai? Không ai khác hơn là “năm nọc độc” gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà tranh đấu dân chủ, và “thế lực thù địch Tây Phương” đứng đầu là Mỹ.

Một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố sớm muộn cũng sẽ sụp đổ

Mặc dù phát triển kinh tế nhanh trong hai chục năm qua, Trung Cộng đang đương đầu với những khó khăn khách quan về lâu dài không thể vượt qua bao gồm yếu tố dân số thặng dư và mất cân đối, y tế công cộng thiếu hụt trầm trọng, môi sinh độc hại nhưng quan trọng nhất vẫn là cơ chế chính trị độc tài toàn trị, bóp nghẹt hầu hết các quyền căn bản của con người và tham nhũng đã trở thành một đặc tính trong mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến địa phương.

Lãnh đạo CSTQ đã và đang làm mọi cách để tồn tại bất chấp dư luận và thể diện của một đất nước có nhiều ngàn năm văn hóa.

Sự lừa dối bỉ ổi thể hiện khi Ủy Ban Thế Vận Quốc Tế đến kiểm nghiệm điều kiện môi sinh tại Bắc Kinh vào năm 2001 trước khi chấp thuận cho Trung Cộng làm quốc gia tổ chức. Ngày trước đó, lãnh đạo Trung Cộng đã ra lịnh xịt nước xanh lên hai hàng cây dọc đường phố có đoàn xe của Ủy Ban Thế Vận chạy qua để đánh lừa họ rằng Bắc Kinh là thành phố cây xanh. Hành động này giống hệt chuyện xảy ra hơn nửa thế kỷ trước khi các lãnh đạo CS tỉnh Hồ Bắc cho dời các ruộng lúa ra sát đường nơi có xe lửa của Mao chạy qua để gây ấn tượng cho Mao rằng mùa màng dư giả. Bản chất lừa dối của chế độ CS không thay đổi và một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố để tồn tại, chế độ đó sớm nay muộn rồi sẽ sụp đổ.

Trần Trung Đạo
Tham khảo:

– Mao’s China, A history of the People ‘s Republic. The Free Press, NY 1977
– The New Chinese Empire, Ross Terrill, Basic Books, 2003
– Hiến chương Phục Hưng Văn Hóa Phi Châu ( CHARTER FOR AFRICAN CULTURAL RENAISSANCE), Unesco, 2006
– Chen Zhili http://en.wikipedia.org/wiki/Chen_Zhili
– Viện Khổng Tử (http://en.wikipedia.org/wiki/Confucius_Institute)
– Confucius and the Cultural Revolution: A Study in Collective Memory, Tong Zhang và Barry Schwarz, International Journal of Politics, Culture and Society, Vol. 11, Nọ 2, 1997
– Propaganda in the People’s Republic of China, WikipediA
– List of all Confucius Institutes in the U.S. (http://confucius.gmu.edu/upload/Resources_Alphabetical-list-of-Confucius-Institutes-in-the-USA.pdf)
– Follow The (Chinese) Money: The Tiananmen Anniversary And A Scandalous Silence On U.S. Campuses (http://www.forbes.com/sites/eamonnfingleton/2014/06/01/follow-the-chinese-money-the-tienanmen-anniversary-and-a-strange-silence-on-u-s-campuses/)
– Beijing Uses Confucius Institutes for Espionage (http://www.theepochtimes.com/n3/1018292-hosting-confucius-institute-a-bad-idea-says-intelligence-veteran/)
– Joseph S. Nye, Jr. Soft Power, Hard Power and Leadership,, Harvard University, 2006

Sunday, December 28, 2014

Trần Quang Đức

VÀI LỜI BÀN VỀ
 KHỔNG TỬ VÀ HỌC VIỆN KHỔNG TỬ.

Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này. 
 

Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.
 
Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.

1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng.

 Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!

Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.

2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc.

 Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình!

 Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!

3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm.

 Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.
 Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc.

 Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng. Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!

VÀI LỜI BÀN VỀ KHỔNG TỬ VÀ HỌC VIỆN KHỔNG TỬ.

Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này. 

 Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận. 

 
Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.

1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng.

 Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho... Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!

Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.

2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc.

 Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình! 

 Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!

3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm.

 Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.
Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc. 


 Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng. Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!


Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):

 1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.
Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):




1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 - 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.

Trần Quang Đức

Saturday, December 27, 2014

Alms

Từ tâm


Câu chuyện thứ nhất nói về một người được coi như là một vị Bồ Tát của nhân loại. Đó là bà Melinda Gates. Bà sinh năm 1964. Chồng bà là ông Bill Gates sinh năm 1955. Ông là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Khối tài sản của ông có khi ...lên tới 77, 8 tỉ USD.

Ngay sau khi cưới nhau, hai vợ chồng bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực xa xôi tận Châu Phi. Nhưng rồi hai người nhận ra người dân nơi đây cần thức ăn và thuốc men để chống lại cái chết hơn là máy móc xa xỉ.

Hai vợ chồng sáng lập ra Quỹ Bill & Melinda Gates, một tổ chức từ thiện đã đóng góp tới $24 tỷ USD cho cứu tế. Quỹ bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000.

Bà từng nói: “Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động.”

Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình. Hiện ông bà đang có 3 người con nên nhiều người sẽ ngạc nhiên vì thấy ông bà không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Nhưng Melinda nói: “Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền”.

Hai vợ chồng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con là sẽ không quá 5% tài sản của họ. Khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa. Tỷ phú Bill Gates từng nói “Tôi không nghĩ rằng việc đưa tiền cho các con là điều tốt cho chúng cũng như toàn xã hội.”

Quỹ Bill & Melinda Gates đã chi cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trình vaccine. Hiện nay đây là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế.

Theo tạp chí Forbes thì bà Melinda Gates là một trong 10 người phụ nữ có quyền lực nhất thế giới.

Câu chuyện thứ hai là về tỷ phú Warren Buffett. Ông là một nhà đầu tư và cũng là một nhà từ thiện nổi tiếng trên thế giới. Ông đã từng tuyên bố sẽ dành 99% số tài sản của mình để làm từ thiện, ngay cả khi ông còn sống hay sau khi ông qua đời. Theo tạp chí Fortune, tỷ phú Warren Buffett sẽ thực hiện lời hứa của mình khi quyết định quyên góp 83% số tài sản của mình vào quỹ từ thiện do vợ chồng tỷ phú Bill Gates thành lập (như đã nói ở trên).

Tỷ phú Warren Buffett cho biết ông không hề lo lắng về con cái của mình. Trong một lá thư gửi tới tổ chức từ thiện của Bill Gates, ông viết “Tôi chỉ đưa cho con mình đủ tiền để chúng biết rằng chúng có thể làm bất cứ điều gì mình muốn, nhưng cũng không quá nhiều khiến chúng tưởng rằng chúng chẳng cần làm gì cả.”

Câu chuyện thứ ba đề cập tới Châu Nhuận Phát, một diễn viên Hồng Kông nổi tiếng trong suốt 20 năm qua. Ông là một trong những ngôi sao lớn nhất của điện ảnh Hồng Kông thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Từ giữa thập niên 1990, ông bắt đầu chuyển hướng sang Hollywood. Ông tỏ ra uy nghiêm và rất phong độ khi thể hiện vai Ngọc Hoàng Đại Đế trong siêu phẩm Đại Náo Thiên Cung.

Ông lập gia đình. Vợ chồng lấy nhau đã 28 năm nhưng không có con cho nên ông muốn tặng hết 99% số tiền kiếm được cho những người nghèo khó cần giúp đỡ.
Châu Nhuận Phát sinh năm 1955 trong một gia đình nghèo. Khi còn nhỏ ông thường phải dậy sớm để giúp mẹ bán đồ điểm tâm trên phố rồi buổi chiều lại phải ra đồng làm việc. Năm lên 10 tuổi thì cả gia đình chuyển đến Cửu Long. Năm 17 tuổi ông phải bỏ học để giúp đỡ gia đình bằng nhiều nghề khác nhau như trực khách sạn, đưa thư, bán máy ảnh và tài xế taxi.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo lại có người cha ham mê cờ bạc nên ông đã phải trải qua mọi vất vả, cực khổ. Đó là lý do khiến ông dễ cảm thông với những người khốn khổ trong xã hội. Ông có ý định sẽ dùng gần trọn gia tài của mình, ước tính hơn 1 tỷ đô la HK (khoảng 130 triệu USD) để giúp đỡ cho người nghèo. Ông chỉ dành lại 1% cho cuộc sống của hai vợ chồng mà thôi. Dù là một ngôi sao quốc tế, từng ăn những món cao lương mỹ vị, ở những khách sạn sang trọng bậc nhất nhưng Châu Nhuận Phát không dùng xe hơi đắt tiền, không dùng điện thoại smartphone và những thứ đắt tiền khác. Hằng ngày khi cần di chuyển, vợ chồng ông đi tàu điện, đón xe bus. Ông nói một cách khôi hài là: “Trong tàu điện hay xe bus mọi người đều cắm đầu vì bận sử dụng smartphone nên không có ai thèm để mắt đến mình khi mình bước vào nên chẳng lo bị làm phiền chi cả!”

Để có được khối tài sản lớn như hiện tại, Châu Nhuận Phát cho biết ông đã phải tiết kiệm từng đồng một, tích trữ hết ngày này qua ngày khác chứ không phải dễ dàng gì. Được hỏi về tin ông sẽ tặng đến 99% gia tài của mình cho người nghèo khổ, ông nói: “Đúng vậy, tôi cảm thấy thật sự đó không phải tiền của tôi. Tôi chỉ giữ giùm tạm thời thôi. Tôi sẽ dứt khoát hiến tặng lại tất cả. Tôi sẽ trao tặng lại cho các công tác từ thiện vì chính nơi đó mới cần đến hơn!” (I will definitely donate it all! I will give it to charities that need it the most.)

Và câu chuyện thứ tư là tin tức từ Seatle, WA cho biết có một ông cụ lớn tuổi tên là Jack MacDonald. Cụ sống rất đạm bạc và qua đời vào tháng 9 năm 2013 ở tuổi 98. Cụ đã bí mật để lại cái gia tài $188 triệu USD cho các công tác từ thiện (Frugal Seattle man leaves $188M secret fortune). Cụ thường cố tình mặc áo quần vá víu, khuỷu tay áo bị rách. Cụ đi xe bus thay vì đi taxi. Cụ để lại cho cho bệnh viện Seattle Children's Research Institute một món tiền lớn nhất từ trước đến nay, dành cho việc nghiên cứu sức khỏe trẻ em. Tiền được trích từ quỹ từ thiện $188 triệu của cụ.

Cụ đã hoạt động từ thiện bí mật trong nhiều thập niên. Chỉ có một vài thân nhân và thân hữu biết được là cụ ông có nếp sống rất đơn giản và đạm bạc. Trong vòng 40 năm qua, cụ đã sử dụng tài đầu tư chứng khoán, chọn mua cổ phiếu, để biến gia tài cha mẹ để lại cho cụ được hưởng, là Công Ty MacDonald Meats của bố cụ, thành một tài sản khổng lồ, dành cho mục đích giúp đời.

Được biết cụ cũng để lại một phần quỹ từ thiện của mình cho University of Washington School of Law (nơi cụ đã tốt nghiệp môn Luật vào năm 1940) và Salvation Army. Cụ từng phục vụ tại Nam Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ II trước khi trở thành một luật sư của Veterans Administration, hỗ trợ hàng trăm hội thiện nguyện khác nhau với tiền lương và tiền lời do nguồn đầu tư của mình, trong đó có $ 536,000 cụ đóng góp để xây một ngôi làng tại Canada mà ông nội của cụ đã di dân đến từ Scotland.

Thủ quỹ của Seattle Children's Research Institute cho biết cụ là người rất khiêm nhường, sống ẩn dật, hay thăm viếng bệnh viện và tỏ ra thông cảm với bệnh nhân và người nhà của họ. Cụ rất yêu thích những câu chuyện bình phục của người bệnh, nói rằng những câu chuyện này chứa nhiều niềm hy vọng, khiến cụ xúc động, và muốn hiến gia tài của mình cho việc nghiên cứu y khoa.

Ngoài các chuyện kể trên người ta lại thường nói tới một số nhân vật khác. Những người này tuy giàu có nhưng lại không muốn để hết gia tài lại cho con cháu mình: Pierre Omidyar là ông chủ eBay. Trở thành tỷ phú khi mới 31 tuổi. Theo tạp chí Forbes, tỷ phú người Pháp này đã dành toàn bộ công sức cũng như tiền bạc của mình để giúp đỡ những người kém may mắn, thay vì dành toàn bộ tài sản cho 3 con. Vào năm 2010, Pierre Omidyar đã tham gia vào tổ chức từ thiện do tỷ phú Gates và Buffett thành lập.

Michael Bloomberg là thị trưởng Thành phố New York, được trả lương tượng trưng là 1 đô la cho chức vụ này, bởi ông có số tài sản to lớn là 19,5 tỷ USD. Ông cũng dành phần lớn tài sản để quyên góp cho trường Đại Học Johns Hopkins, cho tổ chức Carnegie và hàng nghìn các tổ chức phi lợi nhuận khác.

Gina Rinehart là người phụ nữ giàu nhất Australia. Bà muốn loại bỏ tên của 4 người con ra khỏi danh sách thừa kế của gia đình. Bernard Marcus là Chủ tịch bán lẻ hàng nội thất Home Depot. Ông sở hữu số tài sản 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, ông cũng không muốn con cái thừa kế số tài sản của mình. Ông từng cho biết sẽ quyên góp phần lớn số tài sản của mình cho giáo dục và những trẻ em khuyết tật.

Jackie Chan, ngôi sao truyền hình nổi tiếng, vào năm 2011 đã quyết định dành một nửa số tiền của mình làm từ thiện sau khi ông qua đời. Ông cũng cho biết ông không hề có ý định để lại số tài sản cho đứa con trai. Ông nói “Nếu có khả năng, con trai tôi sẽ tự kiếm tiền bằng công sức của nó. Còn nếu không, nó sẽ chỉ lãng phí tiền của của tôi mà thôi.”

Các câu chuyện kể trên liên quan tới những con người thật, sự việc thật, đã đưa ra chân lý cho một câu nói cổ xưa rằng: “Phúc tại tích thiện, họa tại tích ác”. Thiện lương và đức hạnh của một người giống như kho trữ vàng có thể dùng mãi mà không cạn. Khi mà ta đang giúp người khác, thực sự là ta đang giúp chính mình vậy.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(12 - 2014)