Monday, August 16, 2010

Nguyễn Đổng Chi


Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày .
Xưa, có hai vợ chồng một nhà nọ làm ăn chí thú. Họ sinh được ba người con, đều là con trai. Hai vợ chồng nuôi con rất chăm chút. Từ lâu, tay họ làm ra rất nhiều tiền của, ruộng vườn, nhưng có miếng gì cũng ăn nhịn để giành, những mong gây dựng cho mỗi con một cơ nghiệp riêng. Cho đến ngày cưới vợ cho đứa thứ ba xong, chồng bảo vợ:

- Chúng ta nhờ trời "con có của nên". Nay chúng ta đã đến kỳ răng long tóc bạc mà con thì đã khôn lớn cả. Vậy cũng nên chia tài sản cho chúng nó làm ăn, đứa nào lo phận nấy, để khỏi có sự tranh giành sau này. Có vậy mới yên hưởng tuổi già được! Thấy vợ ưng thuận, ông già bèn cho mời họ hàng làng nước lại lập chúc thư. ông chỉ để lại cho mình và vợ mình một phần nhỏ tài sản để dưỡng lão, còn bao nhiêu của chìm của nổi đều chia hết cho các con. Tuy đã ngoài 60 tuổi, nhưng ông già vẫn còn khỏe mạnh và chưa chịu để tắt chí kinh doanh. Vì thế, sau khi phân chia tài sản cho các con xong, hai vợ chồng lại lao vào công việc làm ăn. Với phần của dưỡng lão, họ lại đưa ra buôn bán. Không ngờ thần tài còn vượng, lãi mẹ đẻ lãi con, tiền bạc lại tuôn về như nước chảy. Không đầy bảy tám năm sau, họ lại trở nên giàu có như trước. Trong khi đó thì ba đứa con của ông phần thì thiếu kinh nghiệm, phần thì siêng ăn nhác làm, nên cơ nghiệp mới nhen lên chưa được bao lâu đã trở nên sa sút.

Một hôm, cả ba đứa con đều tìm đến gặp bố mẹ rồi nói:

- Bây giờ bố mẹ ngày một yếu hèn. Theo ý chúng con, bố mẹ chỉ nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho khỏe, để phần tài sản lại cho chúng con quản lý, chúng con sẽ xin phụng dưỡng bố mẹ đến mãn đời. ông già trả lời:

- Bố mẹ cũng muốn như vậy lắm. Nhưng ngặt vì xưa nay cha mẹ nuôi con thì được, còn con nuôi cha mẹ có phải dễ đâu!

- Bố mẹ đừng lo gì cả,

Bọn con nói tiếp.

- Người ta không có của cha mẹ để lại cũng nuôi được cha mẹ thay, huống hồ phần tài sản của bố mẹ như thế thì lo gì mà chẳng nuôi được! ông già nghĩ ngợi hồi lâu rồi hẹn ba tháng nữa sẽ trả lời. Xung quanh nhà ông già là một vườn cây ăn quả. ở đây có rất nhiều tổ chim. Một hôm ông bảo trẻ con lối xóm trèo lên cây muỗm tìm cho mình một tổ chim. Đứa trẻ trèo một chốc bắt xuống cho ông một tổ trong có bốn con: một cặp vợ chồng chào mào và hai con chim con. ông già thả bố mẹ nó ra rồi làm một cái lồng đẹp, bỏ hai con chim non vào đó. Đoạn cho treo lồng lên cây. Và ông thấy hàng ngày chim cha và chim mẹ ríu rít mang mồi về bám vào lồng, thò cổ vào mà đút cho con. ông già ngẫm nghĩ: "Loài chim rất yêu con, dù con có bị bắt cũng không chịu bỏ". Khi hai con chim đã khôn, ông già lại sai bọn trẻ tìm cách bắt cho được hai con chim cha và mẹ lại. Bắt được rồi, ông bỏ chúng vào lồng mà thả hai con chim kia ra. Nhưng vừa được phóng thích hai con chim con bay một mạch mất hút, không hề trở lại. Việc đó làm cho ông suy nghĩ nhiều: "Đồ bội bạc! Chẳng có con nào nhớ tới bố mẹ của nó cả, nói gì tới chuyện đút mồi nữa". Và sau đó ông già kết luận: "Con người ta cũng vậy thôi. Chỉ có trả nợ xuống mà không trả nợ lên".

Ba tháng trôi qua, ba đứa con của ông già lại đến giục bố mẹ trả lời. ông già kể cho họ nghe chuyện chim chào mào vừa qua, nói lên những nhận xét của mình, rồi đáp:

- Bố mẹ chẳng phải muốn giữ của lại làm gì đâu! Khi hai tay buông xuôi rồi, có mang được tí gì xuống âm phủ đâu mà giữ. Nhưng bố mẹ nghĩ rằng những đứa con thường chăm chút cho con mình hơn là cho bố mẹ. Vả chăng khi đang có ăn thì còn có tình có nghĩa, khi đã túng thiếu rồi thì nào biết bố mẹ là gì nữa. Vì vậy bố mẹ muốn ở riêng ra như thế này cho đến khi nhắm mắt tắt hơi, làm được gì ăn nấy, không phải làm phiền đến các con! Nghe nói thế ba đứa con hết lời thề thốt. Đứa thứ nhất thề rằng, dù các em có bỏ bố mẹ chăng nữa thì nó cũng sẽ chăm lo cho bố mẹ đầy đủ. Đứa thứ hai thề rằng, nó sẽ không để cho bố mẹ phiền hà lấy một câu. Đứa thứ ba thề rằng, dù nó có nghèo khổ đến đâu, thì cũng đi ăn xin về nuôi bố mẹ. Bà vợ ông cũng bảo:

- Con nó đã thề thốt như thế, ông nên nghĩ lại. Chim khác, người khác, ông ạ! Cuối cùng thấy vợ con nói đi nói lại mãi, ông già dần dần xiêu lòng, bèn lại mời họ mời hàng một lần nữa chia phắt tất cả tài sản còn lại cho ba đứa con, mà không dành lại cho mình một tí gì. Trong những năm đầu, ba anh em phụng dưỡng bố mẹ rất tử tế. Miếng ngon vật lạ hễ nghe đâu có bán là cố tìm mua cho bố mẹ ăn. Nhưng từ năm thứ ba trở đi việc hầu hạ đã có phần chểnh mảng. Thêm vào đó, công việc làm ăn của họ lại không khấm khá gì. Cả ba đứa con ông cụ đều là những tay "phá gia chi tử" không kém cạnh gì nhau, nên số tài sản của bố mẹ chia cho không mấy chốc lại đội nón ra đi mất cả. Sự khó khăn ngày một in sâu trên nét mặt họ. Và việc chăm sóc bố mẹ lại càng chểnh mảng. Hơn nữa, ba anh em họ, nhất là ba chị em dâu thường ganh tị nhau từng đồng tiền bát gạo. Trước kia cả ba hàng năm góp tiền lại cho một người để nuôi bố mẹ. Dần dần sự đóng góp không được đầy đủ như trước. Thấy kẻ này thiếu một vài quan, người nọ cũng nhất định giữ lại chừng ấy không chịu đưa. Về sau, họ bàn nhau mỗi người luân phiên nuôi bố mẹ một năm. Nhưng người anh cả sợ rằng lỡ ra bố mẹ chết sớm thì người chưa nuôi có lợi, mà người đã nuôi sẽ bị thiệt thòi, nên rút xuống nửa năm, rồi lại rút xuống ba tháng. Cuối cùng họ đồng tình mỗi người nuôi một tháng, nhưng không theo thứ tự nào cả mà bằng cách rút thăm. Càng già gân cốt càng suy, đi lại không được, do đó càng đòi hỏi phải chăm chút nhiều hơn. Thế mà trái lại, mỗi ngày sự nuôi nấng cha mẹ mỗi tệ, thậm chí con chỉ mong mau đến kỳ hạn để tống bố mẹ đi. Cứ như vậy chưa đầy ba năm bố mẹ vì không chịu được đói và rét, lần lượt qua đời. Do truyện này mà có câu:

Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.


Hay là:

Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.

Nguyễn Đổng Chi
Sự Tích Đất Nước Việt Tập 2
Nguồn vietmessenger

Sunday, August 15, 2010

Sống đạo


15 Điều để suy gẫm
Danh vọng, địa vị, sự thành công và sự giàu có thường có khuynh hướng gia tăng cái tôi của người ta. Vì vậy, người ta sẽ lạc lối, giống như người lạc đường không thể về nhà được. Ai chứa đầy kiến thức thì điếc trước lời phải trái. Khi hai người tranh luận, một người thường đưa cái biết của mình vào. Cho nên rút lại chỉ nghe thấy tiếng của mình mà không học thêm được gì cả.

1. Sống trong hiện tại

Phật hỏi đệ tử:
- Cuộc sống người ta được bao nhiêu?
Các đệ tử thay nhau trả lời:
- 80 năm.
- Sai.
- 70 năm.
- Còn sai.
- 60 năm.
- Sai.
- Vậy người ta sống bao lâu?
Phật mỉm cười đáp
- Đời người chỉ thuộc trong vòng hơi thở.

2. Sau khi chết người ta đi về đâu?

Hoàng đế Goyozer đang học thiền với thiền sư Gudo Toshoku.
- Bạch thầy, sau khi chết, người ta đi đâu?
- Tôi không biết.
- Tại sao thầy không biết?
- Vì tôi chưa chết.
- ???

3. Định mệnh nằm trong bàn tay

Thời xưa, có vị tướng quyết tấn công địch dẫu quân địch mạnh hơn gấp nhiều lần. Trên đường tiến quân, ông dừng chân ở một đền thờ cầu nguyện, xin giúp đỡ. Sau đó, ông rút ra một đồng xu và nói lớn với quân sĩ:
- Bây giờ, ta sẽ lấy đồng xu để xin keo.Nếu là sấp, quân ta sẽ thắng còn ngửa thì quân ta sẽ bại.
Chúng ta phó mặc mạng sống cho định mệnh. Đồng xu bay lên, xoay mấy vòng và rơi xuống đất.
- Sấp rồi ! Chúng ta sẽ thắng ! Hãy xông lên chà nát quân thù ! - Ba quân reo hò phấn khởi.
Sau trận chiến, toàn bộ quân địch hùng hậu đông đảo bị đánh bại hoàn toàn. Vị phó tướng vui vẻ nói với tướng quân:
- Không ai có thể thay đổi được bàn tay định mệnh.
Tướng quân chỉ mỉm cười không đáp. Ông xoè tay đưa đồng tiền ra. Cả hai mặt đồng xu đều là mặt sấp.

4. Con sóng nhận thức

Nhìn thấy một con sóng cao lớn bên cạnh, con sóng nhỏ tỏ ra bực mình:
- Bực ghê. Sóng kia lớn quá, sao ta bé tí. Chúng mạnh mẽ xiết bao sao ta yếu đuối thế này.
Con sóng to cười đáp: - Đó là vì không nhận ra gốc gác của mình mà bạn buồn bực thế.
- Tôi không là sóng thế là gì?
- Sóng chỉ là hình thức tạm thời trong bản chất của bạn. Kỳ thực bạn là nước. Một khi nhận ra bản chất của chính mình là nước, bạn sẽ không còn ấm ức với cái vỏ sóng này và không còn buồn bực gì nữa.
Con sóng nhỏ hiểu ra, cười vui vẻ:
- À, bây giờ thì tôi hiểu. Bạn và tôi tuy hai mà một.

5. Thiên đường địa ngục

Một vị tướng quân đến gặp thiền sư Ekaku hỏi:
- Bạch thầy, thiên đường hay địa ngục có thật hay không?
- Thế ngài là ai?
- Tôi là tướng quân.
Bất ngờ, thiền sư cười lớn:
- A ha! Thằng ngốc nào cho ông làm tướng vậy, trông ông giống anh hàng thịt.
Tướng quân nổi giận, rút gươm:
- Tao băm xác mi ra !!!
Thiền sư vẫn điềm tĩnh:
- Này là mở cửa địa ngục.
Chợt giác ngộ, vị tướng sụp xuống lạy:
- Xin... xin thầy tha lỗi cho cử chỉ thô bạo vừa rồi của tôi.
- Này là mở cửa thiên đường - thiền sư Ekaku mỉm cười.

6. Thiên đàng địa ngục đều do tâm tạo

Có một bà lão biệt danh "mụ già hay khóc". Trời mưa, mụ cũng khóc, trời không mưa mụ cũng khóc. Có người hỏi bà:
- Bà lão ơi, sao bà lại khóc?
- Tôi có hai con gái, cô chị bán giày vải, cô em bán dù. Khi trời nắng ráo, lão nghĩ tới con em bán dù không được. Khi trời mưa, lão lại lo cho con chị, mưa gió không có khách nào chịu mua giày.
- Lão nên nghĩ rằng khi trời đẹp đứa lớn sẽ bán được, khi trời mưa đứa nhỏ bán dù rất chạy.
- À, ông có lý.
Từ đó, "mụ già hay khóc" thôi khóc. Bà lão cười suốt ngày dù trời mưa hay nắng.

7. Phật tại gia

Yangpu về tỉnh Sichuan định tâm tìm kiếm Bồ Tát. Trên đường đi, Yangpu gặp một nhà sư. Nhà sư hỏi:
- Cậu đi đâu đấy?
- Tôi đi cầu Bồ Tát.
- Bồ Tát ở xa, chi bằng đi tìm Phật có hơn không?
- Tìm Phật ở đâu bây giờ?
- Khi cậu về nhà, thấy người đón cậu trên mình khoác cái mền, chân xỏ dép trái, đó chính là Phật.
Theo lời, cậu về nhà thì trời đã khuya. Mẹ cậu nghe con gọi cửa mừng quá vội khoác mền lên người, xỏ dép trái. Bà chạy ào ra mở cửa và khi Yangpu thấy mẹ mình như vậy thì đứng chết lặng.

8. Ngón tay chỉ mặt trăng

Sư Wu Jincang hỏi Lục Tổ Huệ Năng:
- Con đọc kinh Đại Bát Niết Bàn bao năm rồi mà vẫn chưa hiểu. Xin tổ sư soi sáng cho.
Lục Tổ Huệ Năng cầm quyển kinh đưa cho ni sư, nói:
- Ta không đọc được chữ, con hãy đọc, ta sẽ giúp con hiểu.
- Tổ không đọc chữ sao ngài hiểu thông nghĩa được? - Jincang rất ngạc nhiên.
Lục Tổ Huệ Năng thủng thỉnh đáp:
- Chân lý không dựa vào chữ nghĩa. Nó giống như trăng soi trên trời. Trong trường hợp này, chữ nghĩa giống như ngón tay trỏ vậy. Ngón tay chỉ trăng mà nó không phải là trăng. Xem trăng có cần ngón chỉ không?

9. Ai đó

Kitagaki, thống đốc bang Kyoto, đến viếng đền Tofuku để thăm Keichu - vị sư trưởng đền này.
Đệ tử của Keichu vào báo:
- Kitagaki, thống đốc Kyoto muốn diện kiến thầy.
- Ta không biết thống đốc nào cả - Sư trưởng trả lời.
Đệ tử chạy ra nói với Kitagaki:
- Thầy tôi yêu cầu ngài lui gót vì không quen thống đốc nào cả.
Kitagaki hiểu ra:
- Nếu vậy, hãy báo với thầy anh có Kitagaki
muốn diện kiến.
- Để tôi thử lần nữa.
Lần này, sư trưởng ra đón tận nơi:
- Ồ, Kitagaki đấy à. Mời vào nhà.

10. Càng vội càng chậm

Một thanh niên nọ lên núi tìm kiếm sĩ lừng danh để học kiếm thuật. Anh ta hỏi vị sư phụ:
- Thưa thầy, nếu con luyện tập chuyên cần thì phải bao lâu mới thành kiếm sư?
- Có lẽ 10 năm.
- Cha con đã già rồi và con phải chăm sóc ông. Nếu con luyện tập chuyên cần hơn nữa thì mất bao lâu?
Lặng yên suy tư một lúc, vị sư phụ đáp:
- Trường hợp này có lẽ phải 30 năm.
Anh thanh niên không giấu được vẻ nôn nóng:
- Trước thầy bảo 10 năm, bây giờ 30 năm. Con sẽ vượt qua mọi trở lực để nắm vững kiếm thuật với thời gian ngắn nhất.
- Thế thì anh cần phải ở lại đây 70 năm - Vị sư phụ mỉm cười.

11. Đèn đã tắt

Một anh mù đến từ giã bạn mình. Người bạn cho anh một cây đèn lồng. Anh mù cười hỏi:
- Tôi đâu cần đèn lồng. Với tôi, sáng hay tối có gì khác.
- Tôi biết. Nhưng nếu không mang nó theo, trong bóng tối người khác có thể đụng vào anh.
- Ồ, vậy thì được.
Đi được một đoạn, bất ngờ anh mù bị một người đâm sầm vào. Bực mình, anh ta quát:
- Bộ không thấy đèn hả?
- Đèn của ông đã tắt từ lâu rồi mà.

12. Bình thường tâm

- Bạch thầy, sống theo Đạo một cách siêng năng là thế nào?
- Khi đói hãy ăn, khi mệt hãy ngủ.
- Đó là những điều mà mọi người thường làm mà?
-Không, không ! Hầu hết mọi người đều không làm như vậy. Khi ăn, mọi người đầy những suy tư, ao ước và khi ngủ lại đầy những lo toan.

13. Thiền trong chén trà

Vị giáo sư đại học đến gặp thiền sư Nan In để tìm hiểu Thiền. Nan In mời ông uống trà. Nan In rót đầy chén trà rồi mà cứ thế rót thêm. Giáo sư nhắc:
- Kìa thầy, chung trà đầy tràn rồi, xin đừng rót nữa.
Nan In cười đáp:
- Như chung trà này, ông cũng đầy ắp những quan niệm của ông. Nếu trước tiên, ông không cạn chén thì sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được.

14. Con quỷ bên trong

Nhà sư nọ mỗi khi bắt đầu nhập định đều thấy một con nhện khổng lồ làm ông bối rối. Nhà sư liền vấn ý sư Tổ:
- Mỗi khi con bắt đầu nhập định thì luôn có một con nhện khổng lồ xuất hiện, dẫu có đuổi thế nào nó cũng không đi.
-Lần tới, nếu thấy con nhện xuất hiện, con hãy vẽ một vòng tròn to làm dấu xem nó từ đâu đến.
Nhà sư làm đúng như vậy. Khi ông vẽ vòng tròn to vào bụng con nhện, con nhện chạy đi, ông lại có thể tiếp tục thiền định. Sau buổi thiền định, nhà sư rất bối rối khi thấy vòng tròn nằm ngay trên bụng mình.

15. Đích tới có một đường đi không cùng

Một tăng đồ hỏi Thiền sư Baling Haojian:
- Nghĩa lý của sư tổ và ý nghĩa của giáo lý có gì giống và có gì khác nhau?
- Khi vịt lạnh, chúng lội xuống nước. Khi gà lạnh chúng đậu trên cây.

Friday, August 13, 2010

Hoàng Sa-Trường Sa


Hội nghị San Francisco với vấn đề chủ quyền của Việt Nam
đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Về Hội nghị San Francisco (9-1951)

Đầu tháng 9-1951, các nước Đồng Minh trong Thế chiến hai tổ chức Hội nghị ở San Francisco(1) (Hoa Kỳ) để thảo luận vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á-Thái Bình Dương và mở ra quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Tham gia Hội nghị gồm phái đoàn của 51 nước. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc không tham dự Hội nghị do Mỹ và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi của Trung Hoa.(Hình phải:Thủ tướng Trần Văn Hữu,trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam,tham dự Họi nghị San Francisco)

Trong hội nghị này, vấn đề chính là thảo luận dự thảo Hiệp ước Hòa bình giữa các nước trong phe Đồng Minh với Nhật Bản do Anh-Mỹ đưa ra ngày 12-7-1951 nhằm chính thức kết thúc Thế chiến hai ở châu Á-Thái bình Dương.

Ngày 8-9-1951, 48 quốc gia tham dự hội nghị đã ký một Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản(2). Hiệp ước này đã chính thức chấm dứt Thế chiến hai ở Viễn Đông cũng như đánh dấu chấm hết cho sự tồn tại của chủ nghĩa quân phiệt Nhật.

Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Theo lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam(3) đã tham dự Hội nghị. Ngày 7-9-1951, phát biểu tại Hội nghị, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu nêu rõ: “Chúng tôi cũng sẽ trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội nghị ghi nhận (chứng nhận)…”(4). Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuyên bố của phái đoàn Việt Nam khẳng định: “Và cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”(5).

Lời xác nhận chủ quyền đó của phái đoàn Việt Nam không hề gây ra một phản ứng chống đối hoặc yêu sách nào của 51 quốc gia tham dự Hội nghị(6).

Về nội dung, Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản được ký kết tại San Francisco ngày 8-9-1951 quy định Nhật Bản phải rút lui khỏi những nơi mà nước này đã dùng vũ lực để chiếm đóng trong Thế chiến hai(7). Riêng đối với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands), Điều 2 – khoản (f) của Hiệp ước quy định: “Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, danh nghĩa và đòi hỏi với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands)”(8).

Hiệp ước quy định Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà không nói rõ lực lượng hay chính quyền nào sẽ tiếp nhận chủ quyền của hai quần đảo này đã gây ra những ngộ nhận. Sự thiếu rõ ràng ấy của Hiệp ước San Francisco đã bị những quốc gia sau này tranh chấp chủ quyền với Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khai thác, lấy làm cớ để cho rằng phải “trao trả” lại hai quần đảo trên cho họ.

Đối với Trung Quốc – nước không tham dự hội nghị San Francisco(9) – thì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không đưa ra tuyên bố phản đối nào tại Hội nghị San Francisco vì không tham dự Hội nghị. Tuy nhiên, ngày 15-8-1951, Ngoại trưởng Chu Ân Lai lên tiếng về bản dự thảo Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản do Mỹ – Anh soạn thảo(10).

Đòi hỏi cho quyền lợi của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong Hội nghị San Francisco đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được phái đoàn Liên Xô nêu lên trong phiên họp khoáng đại ngày 5-9-1951 của Hội nghị. Phát biểu trong phiên họp này, Andrei A. Gromyko – Ngoại trưởng Liên Xô – đã đưa ra đề nghị gồm 13 khoản tu chính để định hướng cho việc ký kết hòa ước thực sự với Nhật Bản. Trong đó có khoản tu chính liên quan đến việc “Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”(11). Với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này của phái đoàn Liên Xô.

Nhận định về việc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa viện dẫn việc Trung Hoa Dân quốc thừa lệnh Đồng Minh tiếp quản quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa năm 1946(12) để cho rằng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Quốc, tạp chí Quê hương năm 1961 đã viết: “Nhật Bản đã lấy danh nghĩa gì để chuyển giao chủ quyền cho họ (Trung Hoa Dân quốc – TG). Khi Nhật Bản giao miền Bắc Đông Dương cho Trung Hoa chiếm đóng, có phải là họ đã nhường chủ quyền trên đất Trung Hoa, một điều có bao giờ Trung Hoa thừa nhận? Vậy không thể viện lẽ rằng quần đảo Nam Sa do Nhật chuyển giao mà cho rằng mình có chủ quyền trên (các) đảo đó”(13).

Về phía Việt Nam – nước tham gia Hội nghị San Francisco với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp(14) – tuyên bố của phái đoàn Quốc gia Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Hội nghị mà không có sự phản đối nào của các nước tham gia cũng chính là sự thừa nhận của các nước Đồng Minh về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

Hơn nữa, Điều 2 của Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản có hiệu lực đã tái lập sự toàn vẹn lãnh thổ cho những quốc gia bị quân Nhật chiếm đóng trong Thế chiến hai. Do đó, việc Nhật Bản tuyên bố từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cũng có nghĩa là Nhật Bản trả lại chủ quyền của hai quần đảo mà nước này chiếm đóng trong giai đoạn 1939-1946 cho Việt Nam. Chủ quyền đối với hai quần đảo này do vậy hiển nhiên thuộc về Việt Nam.

Dựa trên những tư liệu đã được công bố, có thể khẳng định rằng (muộn nhất) từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã thuộc chủ quyền Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XIX, những Hòa ước ký kết giữa Việt Nam với Pháp đã quy định rằng chính quyền Pháp ở Đông Dương thay mặt Việt Nam gìn giữ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đó. Đồng thời, Chính quyền Đông Dương cũng đã thi hành mọi biện pháp để khẳng định sự chiếm hữu cũng như các biện pháp quản lý hành chính đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Đến giữa thế kỷ XX, tuy quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa bị quân đội Nhật Bản tạm thời chiếm đóng từ năm 1939 đến năm 1946 nhưng với Hòa ước San Francisco (9-1951), Chính phủ Nhật Bản đã chính thức tuyên bố từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với hai quần đảo này. Do đó, Việt Nam tất nhiên đã khôi phục lại được chủ quyền vốn có của mình đối với hai quần đảo đó.

Giá trị pháp lý về tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong Hội nghị San Francisco không những được khẳng định đối với các quốc gia tham dự Hội nghị mà còn đối với những quốc gia cũng như chính quyền không tham dự Hội nghị bởi những ràng buộc của Tuyên cáo Cairo(15) và Tuyên bố Potsdam(16). Việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong Hội nghị San Francisco là sự tái lập/tái khẳng định một tình thế đã có từ trước. Thêm nữa, Hội nghị Geneve năm 1954 bàn về việc chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương với sự tham gia của những quốc gia không có mặt tại Hội nghị San Francisco cũng đã tuyên bố cam kết tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam(17).

Một vài nhận định

Việc quốc gia Việt Nam dưới sự bảo trợ của Pháp, tham gia Hội nghị San Francisco (9-1951) và tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong chuỗi các sự kiện minh chứng cho sự xác lập chủ quyền từ sớm (về pháp lý cũng như sự chiếm hữu một cách hòa bình trên thực tế) đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Tuyên bố của phái đoàn Quốc gia Việt Nam trong hội nghị San Francisco về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam tiếp tục đưa vấn đề tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa hiện nay ra các hội nghị, diễn đàn quốc tế. 51 nước tham dự Hội nghị San Francisco thừa nhận tuyên bố của Việt Nam cũng chính là sự công nhận của quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Sự thừa nhận này sẽ làm yếu đi luận điểm cũng như thái độ muốn giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông hiện nay thông qua đàm phán song phương. Ghi nhận tầm quan trọng của Hội nghị San Francisco đối với việc thiết lập hệ thống các quan hệ quốc tế mới sau Thế chiến hai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng chính là sự thừa nhận có tính pháp lý tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Trong xu hướng hiện nay, việc làm có ý nghĩa là toàn thể dân tộc Việt Nam tập hợp mới tạo ra được sức mạnh đủ để giữ gìn và đấu tranh cho sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

… TUYÊN BỐ CỦA PHÁI ĐOÀN QUỐC GIA VIỆT ANM TRONG HỘI NGHỊ SAN FRANCISCO VỀ CHỦ QUYỀN VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO NÀY LÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ QUAN TRỌNG ĐỂ VIỆT NAM TIẾP TỤC ĐƯA VẤN ĐỀ TRANH CHẤP Ở QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA HIỆN NAY RA CÁC HỘI NGHỊ, DIỄN ĐÀN QUỐC TẾ…

CHÚ THÍCH:

(1)Còn được gọi là Hòa hội Cựu Kim Sơn, diễn ra từ ngày 5 đến 8-9-1951.

(2)Còn gọi là Hiệp ước San Francisco (Treaty of San Francisco) hay Hiệp ước Hòa bình San Francisco (San Francisco Peace Treaty). Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 28-4-1952. Do những bất đồng nên Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan không tham gia ký kết Hiệp ước này.

(3)Quốc gia Việt Nam là một thực thể chính trị tồn tại trong giai đoạn 1949-1956, ra đời sau Hiệp ước ngày 8-3-1949 giữa Pháp và cựu vương Bảo Đại (Hiệp ước Elysee). Cuối năm 1955, Ngô Đình Diệm – lúc này là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam – lên làm tổng thống sau cuộc “Trưng cầu dân ý” ngày 23-10-1955. Đến năm 1956, Quốc gia Việt Nam “cải đổi” thành Việt Nam Cộng hòa, công bố Hiến pháp mới (26-10-1956). Như vậy có thể nói Quốc gia Việt Nam là “tiền thân” của Việt Nam Cộng hòa.

(4)Trần Đăng Đại (1975), Các văn kiện chính thức xác nhận chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời Pháp thuộc tới nay, Tập san Sử Địa – số 29, tháng 1-3-1975, Sài Gòn, tr.284.

(5)Nguyên văn tiếng Pháp như sau: “Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour estouffer lé germes de discorde, nous affirmons nos droits sur iles Spratly et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet-Nam”. In trên Tạp chí France – Asia, số 66-67, tháng 11-12-1951, tr.505 – dẫn theo Trần Đăng Đại, Tlđd, tr.286.

(6)Lãng Hồ (1975), Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam, Tập san Sử Địa - số 29, tháng 1-3-1975, Sài Gòn, tr.103.

(7)Năm 1938, Nhật Bản chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và đổi tên thành Hirata gunto. Năm 1939, quân đội Nhật Bản đổ bộ lên đảo Itu Aba (đảo Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa). Ngày 31-3-1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tuyên bố rằng ngày 30-3-1939 Nhật Bản quyết định đặt quần đảo Trường Sa dưới sự kiểm soát của Nhật Bản. Ngày 19-8-1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tuyên bố quyết định đặt quần đảo Trường Sa – dưới tên gọi Shinnan gunto – trực thuộc đảo Đài Loan. Về những sự kiện này, Chính quyền Đông Dương đã nhiều lần lên tiếng chính thức phản đối Chính phủ Nhật Bản. Dẫn theo: Lãng Hồ, Tlđd, tr.100; Quốc Tuấn (1975), Nhận xét về các luận cứ của Trung Hoa liên quan tới vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Tập san Sử Địa – số 29, tháng 1-3-1975, Sài Gòn, tr.222; Nguyễn Nhã (2002), Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia TP HCM, Trường Đại học KHXH&NV, tr.107. Về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, “ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam – TG) quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa” – Nguyễn Nhã (2002), Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Tlđd, tr.110.

(8)Nguyên văn: “Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracel Islands” – Treaty of Peace with Japan, CHAPTER II (Territory) – Article 2 – f. Source: United Nations Treaty Series 1952 (reg. no. 1832), vol. 136, p.p.45 – 164, www.vcn.bc.ca.

(9)Riêng với Trung Hoa Dân quốc, ngày 28-4-1952, Trung Hoa Dân quốc ký riêng rẽ một Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản. Trong bản tuyên bố ngày 5-5-1952 về Hiệp ước này, Ngoại trưởng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai không nói gì đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mặc dù hai quần đảo này đã được đề cập một cách mập mờ trong Điều 2 của Hiệp ước: “Điều 2 – Hai bên nhìn nhận là theo Điều 2 Hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8-9-1951 tại Cựu Kim Sơn (San Francisco) ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã khước từ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan tới Đài Loan (Formosa) và Bành Hồ (The Pescadores), cũng như quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và Hoàng Sa (Paracel Islands)” (Source: Chen Yin-ching (1975), Treaties and Agreements between The Republic of China and other powers, Sino-American Publishing Service, Washington D.C., p.p.454 456). Nghĩa là Nhật Bản và Trung Hoa Dân quốc chỉ nhắc lại việc khước từ chứ không nói là Nhật Bản trao hai quần đảo này cho Trung Hoa Dân quốc – Quốc Tuấn, Tlđd, tr.231.

(10)“Chính phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một lần nữa tuyên bố: Nếu không có sự tham dự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong việc chuẩn bị, soạn thảo và ký một hòa ước với Nhật Bản thì dù nội dung và kết quả của một Hiệp ước như vậy có như thế nào, Chính phủ Nhân dân Trung ương cũng coi hòa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp, và vì vậy vô hiệu” – (Toàn văn bản tuyên bố ngày 15-8-1951 đăng trong People’s China, T.IV, số 5, ngày 1-9-1951, phụ trương ngày 1-9-1951, tr.3 – 6 dưới nhan đề Foreign Minister Chou En – lai’s Statement on the US British Draft Peace Treaty with Japan – dẫn theo Quốc Tuấn, Tlđd, tr.221).

Trước đó, ngày 4-12-1950, Ngoại trưởng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố: “Nhân dân Trung Hoa rất ước muốn sớm có một hòa ước liên hợp với Nhật Bản cùng với các quốc gia Đồng Minh khác trong thời kỳ Thế chiến hai. Nhưng căn bản của hòa ước phải hoàn toàn thích hợp với bản Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta, bản Tuyên bố Potsdam và các chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đầu hàng được quy định trong các văn kiện này” (Toàn văn bản tuyên bố ngày 4-12-1950 đăng trong bán nguyệt san People’s China, Bắc Kinh, T. II, số 12, phụ trương ngày 16-12-1950, trang 17-19, dưới nhan đề Chou En lai’s Statement on the Peace Treaty with Japan – dẫn theo Quốc Tuấn, Tlđd, tr.220).

Như vậy Tuyên bố ngày 15-8-1951 đã đi ngược lại tinh thần tuyên bố ngày 4-12-1950 của chính Trung Quốc vì thực chất, Hội nghị San Francisco được tổ chức nhằm “hiện thực hóa” những thỏa thuận được quy định trong Tuyên cáo Cairo, Thỏa ước Yalta và Tuyên bố Potsdam.

(11)Nguyễn Nhã, Tlđd, tr. 110.

(12)“Sự thực thời tướng Hà Ứng Khâm (Trung Hoa Dân quốc) đã thừa lệnh Đại tướng Mac Arthur để tiếp nhận sự đầu hàng của Okamura Yasutsugu là Tổng tư lệnh quân đội Nhật Bản tại chiến trường Trung Quốc” – xem thêm bài của Lãng Hồ, Tlđd, tr.101-102.

(13)Tân Phong (1961), Vấn đề chủ quyền trên nhóm quần đảo Tây Sa và Trường Sa, Tạp chí Quê hương số ngày 27-9-1961 – dẫn theo Lãng Hồ, Tlđd, tr.102

Về việc tiếp quản quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ tay Nhật Bản của lực lượng Trung Hoa Dân quốc, tác giả Lãng Hồ viết: “Sự thực thời đó đâu phải là một cuộc tiếp thu chính thức theo quốc tế công pháp (mà) chỉ là một hành động trong khuôn khổ Trung Hoa Dân quốc đã thừa lệnh Đồng Minh đến nhận sự đầu hàng của quân Nhật mà thôi” – Lãng Hồ, Tlđd, tr.101

(14)Ngày 29-6-1950, Pháp chính thức công nhận Quốc gia Việt Nam là thành viên của khối Liên hiệp Pháp.

(15)Tuyên cáo ngày 26-11-1943 của Hội nghị Cairo (tổ chức từ ngày 23 đến 27-11-1943 tại Cairo, Ai Cập), gồm đại diện của ba nước là Hoa Kỳ (Franklin D. Roosevelt), Anh (Winston Churchil) và Trung Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch).

(16)Hội nghị Potsdam được tổ chức ở Potsdam (Đức) từ ngày 17-7 đến ngày 2-8-1945 gồm đại diện 3 nước: Liên Xô (Joseph Stalin), Mỹ (Harry Truman) và Anh (Winston Churchil, sau đó được thay bởi Clement Attlee) . Ngày 26-7–1945, W. Churchil, H. Truman và Tưởng Giới Thạch đưa ra Tuyên bố Potsdam vạch ra những điều khoản đầu hàng đối với Nhật Bản.

(17)Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được thể hiện rõ trong Điều 12 – Tuyên bố cuối cùng của Hội nghĩ Geneve ngày 21-7-1954 mà Trung Quốc cũng đã tham dự, đó là “Trong quan hệ với Cao – Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội nghị Geneve cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của những nước trên và tuyệt đối không can thiệp vào nội trị của những nước đó” – Vụ biên soạn, Ban tuyên huấn Trung ương (1979), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – trích văn kiện Đảng, T.II: 1945-1954, Nxb SGK Mác-Leenin, Hà Nội. tr.360.

PHẠM NGỌC BẢO LIÊM
Nguồn anhbasam
Đọc thêm: hoa-hao - boxitvn

Thơ Tạ Ký


Trung Phước ơi!

Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc,
Tình cheo leo cao vút một con đèo,
Núi Chèo Bẻo vươn mình trong khói đục,
Hòn Cà Tang thương nhớ vọng tình theo.

Đây đồng Chợ không còn vang nhịp bước,
Và đồng Quan, đồng Vú chắc tiêu điều!
Lúa vàng ơi, lúa vàng bao năm trước,
Rộc cây Bòng bờ trổ mạch cô liêu.

Cau xanh lắm, cau với người thân thiết,
Bắp non non, người đợi bắp vàng bao,
Lụa óng ánh tay ngà thoăn thoắt dệt…
Đời không dài hơn một giấc chiêm bao!

Làng chết lặng, lều xác xơ dăm túp,
Người tha hương còn mất chẳng tin về,
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ,
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê!

Chín năm chẵn máu chưa hề ngớt chảy,
Chim không ca, bắp cũng chẳng vàng bao,
Khung cửi lạnh, tay ngà đang ấp mộ,
Hẹn tương phùng trong một giấc chiêm bao.

Mùa hy vọng thắp đôi hàng nến đỏ,
Chép bài thơ thương nhớ giữa kinh thành.
Ôi yếu đuối một linh hồn nho nhỏ,
Chỉ mong ngày nắng ấm ngọn cau xanh.


Tạ Ký
Nguồn vietmessenger
Đọc thêm talawas - hoangloc - tuonglinh

Thursday, August 12, 2010

Song Chi


Từ sự phát triển của blog ở VN
-nghĩ về sức mạnh của dân báo
DẪN NHẬP

Trong một chế độ độc tài, khi mà từ bộ máy Nhà Nước cho đến quân đội, luật pháp, truyền thông… nằm hoàn toàn trong tay chính quyền, một trong những con đường đấu tranh khả thi nhất và hữu hiệu nhất để thức tỉnh mọi người, giành lại quyền tự do dân chủ cho nhân dân và đem lại một thể chế chính trị tốt đẹp hơn cho đất nước có lẽ nên bắt đầu từ truyền thông. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc cách mạng công nghệ thông tin trên thế giới đã đem lại những phương tiện giao tiếp, truyền thông nhanh lẹ và tuyệt vời như internet chẳng hạn.

Khi Liên Xô sụp đổ, ở Liên Xô và hầu hết trên thế giới, internet chưa phát triển, chỉ mới nhờ vào máy Fax mà người dân Liên Xô đã biết được rằng những gì đang xảy ra trên thế giới khác xa với những gì đang diễn ra trên đất nước mình và nhân dân đã bị che mắt như thế nào. Nhiều bí mật trong lịch sử, những mặt trái của chính quyền Xô Viết cũng như con người thật của những vị lãnh tụ được sùng bái như Xtalin v.v…được tiết lộ, đã làm rúng động bao người.

So với thời điểm 1991 ấy, internet hiện nay đã phát triển vượt bực và cùng với nó, thế giới với hàng loạt thông tin trái ngược, đa chiều… đã mở ra trước mắt những người dân sống trong những chế độ độc tài kìm hãm, che giấu thông tin. Internet đã khiến cho những nhà nước độc tài lúng túng, bối rối và bất lực, không thể nào ngăn chặn hết mọi luồng thông tin, mọi sự giao tiếp của người dân với nhau, với thế giới bên ngoài và với SỰ THẬT.

Có thể ở những quốc gia nào khác, những người đấu tranh thường sử dụng con đường bạo lực vũ trang-thậm chí đánh bom tự sát. Nhưng ở một vài quốc gia, điều đó không khả thi, không phù hợp và chắc chắn không được dư luận đông đảo nhân dân đồng tình. Không có lực lượng, không vũ khí, không có bất cứ một thứ gì trong tay, những con người đấu tranh cho tự do dân chủ trong các quốc gia như vậy ngày nay đã tìm thấy một trong những con đường phù hợp nhất, đó là: con đường ôn hòa, bất bạo động và sử dụng truyền thông để truyền bá tư tưởng, vạch mặt chính quyền và thức tỉnh nhân dân. Để đấu tranh lại với hệ thống truyền thông chính thống-công cụ thông tin, tuyên truyền của một chính quyền-bao gồm hàng trăm tờ báo, hàng chục đài phát thanh, đài truyền hình lớn nhỏ…những con người yêu dân chủ, tự do đã tìm đến máy tính, internet, điện thoại di động…

Trong phạm vi bài viết này tôi muốn nói đến sự phát triển của blog và cộng đồng blogger ở VN trong những năm qua, đã tạo thành một mạng lưới dân báo vô cùng đa dạng, nhanh nhạy, có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng mạng, và đã cùng với hệ thống báo chí VN ở hải ngoại, các diễn đàn báo chí độc lập...góp phần xuyên thủng bóng tối dày đặc của sự bưng bít thông tin của nhà cầm quyền VN, thức tỉnh nhận thức của nhiều người và góp phần vào con đường đấu tranh dân chủ cho VN.

CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA MẠNG LƯỚI BLOG Ở VN

Thoạt đầu, khi xuất hiện ở VN, cũng như ở các quốc gia khác, blog là một dạng nhật ký cá nhân, chủ yếu được giới trẻ sử dụng như một nhu cầu thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ của mình và chia sẻ những thông tin, kiến thức...với bạn bè và với người khác. Giai đoạn đầu người lớn, dân trí thức còn cho đó chỉ là trò chơi của bọn trẻ. Rồi thì một số bạn tập tành làm thơ, viết văn cũng đem lên blog. Blog đã trả quyền xuất bản về cho từng cá nhân. Và ở VN cũng như ở một số quốc gia khác trên thế giới, nhiều tác phẩm đã được phổ biến trên blog trước khi in thành sách. Thậm chí đã hình thành cả một dòng văn học mạng với những tác giả riêng và có những đặc điểm, tính chất riêng của nó. Nhưng đó lại là một vấn đề khác, bài viết này không phải để nói về điều đó.

Thực tế sinh hoạt blog, một bước tiến của nhân loại vào thế kỷ 21, là một hoạt động hết sức bình thường trong những xã hội tự do dân chủ. Đây là quyền viết, quyền đọc và quyền phát hành vượt qua mọi rào cản và biên giới. Chỉ trong những xã hội mà quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do báo chí là điều bất khả như ở VN, thế giới blog mới trở thành một phương tiện gần như duy nhất để chia sẻ và trao đổi thông tin đa chiều, bày tỏ quan điểm, thái độ trước những vấn đề mang tính thời sự của đất nước, xã hội và những chủ trương, việc làm sai trái của chính quyền. Điều này cũng xảy ra ở một quốc gia có nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị với VN như Trung Quốc chẳng hạn.

Khi tôi bắt đầu mở blog vào năm 2007 thì tôi đã thuộc loại chậm lụt lắm rồi và cộng đồng blogger ở VN đã phát triển rất mạnh, với khoảng 6 triệu người sử dụng blog vào thời điểm đó-đa phần là sử dụng yahoo360. Dạo đó, có lần tôi đã viết một bài viết trên blog đại ý là trước khi tham gia vào thế giới blogger, tôi rất bi quan về ý thức chính trị, xã hội của giới trẻ ở VN, tôi cứ nghĩ rằng giới trẻ ở VN chỉ biết học gạo hoặc tệ hơn chỉ biết ăn chơi, đàn đúm...chả quan tâm gì đến tình hình xã hội, vận mệnh của đất nước. Nhưng tôi đã lầm. Khi mở blog, đọc blog, tôi mới thấy là các bạn trẻ rất quan tâm đến chính trị và có những bài viết vô cùng sâu sắc về tình hình xã hội ở VN. Thậm chí đã có những nhóm, những tổ chức được hình thành từ trên blog. Ví dụ như nhóm CLB Nhà báo tự do của anh Nguyễn Văn Hải tức bloggers Điếu Cày, đã có ý thức dùng blog như một phương tiện đấu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, vạch trần những thông tin bị nhà nước bưng bít như những cuộc biểu tình của dân oan, của công giáo từ những năm 2007, 2008.

Và từ thế giới blog, dần dần đã hình thành những hoạt động off line, nghĩa là các bạn trên blog tổ chức gặp gỡ nhau bên ngoài đời, cùng nhau làm những công việc chung. Lúc đầu chỉ là những hoạt động có tính chất xã hội như vụ kêu gọi quyên góp cho thân nhân những người bị nạn trong vụ sập cầu Cần Thơ vào tháng 9.2007 chẳng hạn. Rồi tiến dần đến những hoạt động có tính chất chính trị hơn. Một trong những ví dụ thành công nhất là cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Trường Sa Hoàng Sa, nhân vụ nhà cầm quyền Trung Quốc ra quyết định thành lập huyện Tam Sa bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của VN vào tháng 12.2008. Cuộc biểu tình đó bắt đầu từ lời kêu gọi trên mạng của cộng đồng blogger, mà chủ yếu là của các bạn sinh viên, học sinh, các bạn hẹn nhau đúng ngày chủ nhật 9.12.2008 vào lúc 9 giờ sáng trước cửa Tòa Đại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội và Tổng lãnh sự quán Trung Quốc tại Sài Gòn. Thế là hàng trăm bạn trẻ trước đó không hề biết mặt nhau, chỉ nghe theo lời kêu gọi trên mạng mà nhất loạt có mặt đúng giờ, đúng địa điểm. Phải nói là trong cuộc biểu tình này, giới sinh viên học sinh blogger trẻ đã đi đầu, còn ở Sài Gòn, các văn nghệ sĩ trí thức là đi sau, lúc đầu là đi ra xem bọn trẻ biểu tình thế nào, thấy có không khí quá bèn tham gia luôn. Nói cho công bằng là như vậy. Cuộc biểu tình vào lần đầu thì thành công vì nhà nước bất ngờ. Nhưng hai chủ nhật liên tiếp thì bị đàn áp ngay, nhiều sinh viên, văn nghệ sĩ đã bị đưa về đồn công an làm việc, và bắt đầu bị hăm dọa, trù dập các kiểu. Đến lúc này thì nhà nước VN đã thực sự lo ngại cái chuyện blog và cộng đồng blogger ở VN rồi. Và bắt đầu từ đó là họ theo dõi, phong tỏa, phá hoại...thế giới blog và các blogger có tên tuổi hoặc những blogger nào kết thành nhóm, có tiêu chí hoạt động hẳn hoi.

SỨC MẠNH VÀ GIÁ TRỊ CỦA MỘT NỀN BÁO CHÍ NHÂN DÂN

Càng ngày cộng đồng blogger càng bị đàn áp mạnh tay hơn. Tuỳ theo từng đợt khi “bầu không khí chính trị trên mạng” nóng lên vì những vấn đề thời sự đang xảy ra trong xã hội. Ví dụ như giai đoạn trước và trong những ngày diễn ra cuộc rước đuốc Olympic Bắc Kinh ngang qua Sài Gòn ngày 29.4.2008. Hàng loạt văn nghệ sĩ, blogger bị bắt từ vài ngày cho đến một tuần. Và anh Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày cũng bị bắt vào dịp này với bản án ngụy tạo về tội trốn thuế 30 tháng tù giam. Đây là blogger đầu tiên ở VN bị kết án tù giam dài ngày, như là một sự dằn mặt cộng đồng blogger VN. Đây cũng là những ngày mà hàng loạt blogger khác trong đó có cả tôi bị mất việc, bị những đòn trả đũa của nhà nước VN.

Hoặc những giai đoạn mà nhà nước VN cho là “thời điểm nhạy cảm” như trước thềm đại hội Đảng lần thứ XI sắp tới, thì từ năm ngoái đến nay nhà nước VN đã và đang gia tăng sự kiểm soát mọi mặt về tư tưởng, tinh thần của người dân. Còn nhớ vào khoảng tháng 6.2009, tiếp theo những nhà hoạt động chính trị, giới văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư, giáo dân…lại đến lượt giới blogger ở VN bị đàn áp, bắt bớ hoặc sách nhiễu về tinh thần, gây khó dễ cho cuộc sống bằng cách này hay cách khác… Trong đợt này có nhà báo Huy Đức tức blogger Osin bị ngưng hợp đồng làm việc, nhà báo Phạm Đoan Trang tức blogger TrangRidiculous, blogger Nguoibuongio, blogger Mẹ Nấm…bị bắt giữ, ngay cả anh Trần Huỳnh Duy Thức trong vụ các nhà hoạt động dân chủ bị bắt vừa rồi cũng là blogger nổi tiếng với nickname Trẩn Đông Chấn, Changeweneed…

Bên cạnh việc trấn áp giới blogger, nhà nước VN tìm cách gây sức ép ngược lại với công ty yahoo. Dưới sức ép của nhà nước VN cộng với một vài nguyên nhân khác nữa, yahoo đã tuyên bố đóng cửa hệ thống yahoo360 là hệ thống blog có số lượng người sử dụng đông nhất ở VN lúc bấy giờ. Cộng đổng bloggers tứ tán đi khăp nơi, người sang multiply, người sang faceblook, người sang twitter, blogspot v.v...Tan đàn sẻ nghé một thời gian nhưng rồi lại vẫn tụ lại được, tiếp tục viết, tiếp tục liên kết với nhau. Dân viết nhiều về chính trị xã hội lại chủ yếu chuyển sang chọn multiply. Có người cùng lúc sử dụng hai, ba hình thức blog khác nhau, thậm chí 10 blog khác nhau cùng lúc như trường hợp blogger họa sĩ Đinh Tấn Lực chẳng hạn. Có một điều rất hay là giai đoạn về sau này dù sử dụng loại hình thức blog nào thì cộng đồng blogger vẫn kết nối, chia sẻ thông tin được với nhau, liên kết với nhau.

Càng ngày bài vở trên các blog càng trở nên có chất lượng, càng ngày càng xuất hiện nhiều blogger tên tuổi, thật sự là những nhà dân báo mà bài vở của họ được đón đọc và lan truyền rộng rãi trên mạng, trang blog của họ có số lượng người truy cập lên đến hàng triệu người, nổi tiếng như blogger Osin tức nhà báo Huy Đức (đã bị an ninh mạng đánh sập), blogger Người buôn gió, blogger Hiệu Minh (ở Mỹ), Vũ Đông Hà (ở Mỹ), Nguyễn Văn Tuấn (Úc), blog của anh Lê Diễn Đức (Ba Lan), blog quechoa của nhà văn Nguyễn Quang Lập, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất, mẹ Nấm, v.v...Kể cả VOA, RFA, BBC cũng mở blog và những trang blog của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc hay nhà báo Bùi Tín trên VOA rất được nhiều người vào đọc, comment, tranh luận sôi nổi. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có nói một cái ý rằng một trong những cái đặc biệt của blog là người ta không chỉ đọc blog mà còn đọc những comment của người khác, nghĩa là có độc giả của blog và độc giả của độc giả nữa.

Bây giờ ở VN ngay cả dân làm báo chính thống cũng phải tìm đọc blog để có thêm thông tin, còn những người nào có sử dụng internet và quan tâm đến tình hình chính trị xã hội của VN thì đều có sử dụng blog hoặc ít nhất là có đọc blog và cho rằng đọc blog còn có nhiều thông tin nhanh nhạy, trung thực, thú vị hơn là đọc báo của nhà nước bởi vì hơn 700 tờ báo ở VN thật ra chỉ nói cùng một giọng, có cùng một ông Tổng biên tập là Trưởng ban văn hóa tư tưởng mà thôi. Tất cả những thông tin mà báo chí nhà nước VN không đưa hoặc chỉ đưa một phần hoặc xuyên tạc, đưa không đúng sự thật thì người dân chỉ có thể tìm biết được sự thật từ báo chí hải ngoại, các diễn đàn độc lập và trên thế giới blog. Thậm chí trong nhiều vụ việc phát hiện đầu tiên là từ các nhà dân báo. Còn đối với báo chí hải ngoại, đối với đồng bào VN ở nước ngoài thì những thông tin trên các blog là rất quý vì nó là do những người đang sống trong nước viết lên, nó đa dạng vì người viết thuộc đủ mọi giới, mọi thành phần trong xã hội. Một số báo, đài ở hải ngoại và các diễn đàn độc lập lại có thêm mục điểm blog hoặc sử dụng lại những bài viết hay trên blog.

Hiện tại có đến hàng trăm blogger có bài viết thuộc loại có chất lượng trên multiply, blogspot và wordpress. Sau này khi hệ thống facebook trở nên phố biến thì mạng xã hội này với tính chất liên kết rất rộng rãi của nó đã có những ưu điểm vượt trội riêng. Dân blogger, nhất là giới trẻ, tha hồ sử dụng facebook để chia sẻ, lan truyền thông tin với tốc độ cực nhanh. Trên facebook bây giờ cũng đã hình thành nhiều trang, nhiều nhóm hoạt động rất mạnh và nhà nước Việt Nam cũng đã tìm cách ngăn chặn facebook vì sự lợi hại của nó.

Nói tóm lại, sự phát triển của mạng lưới blog ở VN hiện nay đã thực sự trở thành một kênh truyền thông “lề trái” có sức mạnh riêng. Còn nhà nước VN thì đã thực sự xem cái việc đánh phá blog là một trong những chủ trương nhất quán của họ bên cạnh việc đánh phá các trang báo mạng. Kết quả là VN tiếp tục trở thành một trong những quốc gia là kẻ thù của internet và có thành tích tệ hại về mặt tự do ngôn luận trước thế giới. Song, thế giới blog vẫn không dễ gì bị dập tắt cho dù nhà nước VN đã huy động tối đa lực lượng đánh phá, như lời Trung tướng công an Vũ Hải Triều đã khoe khoang là “trong thời gian qua bộ phận an ninh của ta đã đánh sập hơn 300 trang báo mạng và blog có nội dung xấu”, bởi vì đánh sập blog này thì blog khác mọc lên, trù dập blogger này làm cho người ta phải sợ hãi mà im tiếng thì lại có blogger khác xuất hiện. Các blogger-những nhà dân báo đúng như tên gọi của họ có thể là bất kỳ ai trong nhân dân. Có thể bắt vài chục, vài trăm, vài ngàn blogger, nhưng không thể bắt hàng triệu người hoặc hơn nữa. Có thể bắt những blogger trong nước nhưng còn hàng bao nhiêu blogger VN ở nước ngoài, và cả một thế giới bạn bè khắp năm châu, Nhà Nước VN sẽ có thể làm gì?

LỜI KẾT

Trên con đường đấu tranh dân chủ vì một tương lai chung tốt đẹp hơn cho đất nước, có sự đóng góp không nhỏ của các blogger-những nhà dân báo VN. Ngược lại, phong trào đấu tranh dân chủ cũng không thể bỏ qua lực lượng này. Cần phải hỗ trợ những blogger có sẵn và lên tiếng khi họ bị nhà nước VN quấy nhiễu, bắt bớ đã đành, nhưng thiết nghĩ, những tổ chức, đảng phái đang hoạt động dân chủ cần phải chủ động nhân rộng thêm nhiều blog, nhiều cây bút nữa để phối hợp cùng các blogger, kết nối với họ. Bởi con đường truyền tải thông tin cũng như tiếp cận với giới trẻ, học sinh, sinh viên trong và ngoài nước nhanh nhất và hiệu quả nhất có lẽ là thông qua blog. Cần phải làm cho tiếng nói của cộng đồng blogger ngày càng mạnh mẽ hơn, đưa thông tin nhiều và nhanh hơn đến với người dân và làm cho nhà cầm quyền VN thực sự phải bất lực trong cuộc chiến trên thế giới mạng này.

Song Chi
Nguồn rfavietnam.com
Đọc thêm : menam’s interview

Thanh Thương Hoàng


Bàn về cái sự hèn

Cả tháng trời nay báo chí Việt hải ngoại “say sưa” và cả “hăng hái” nữa thi nhau bàn ra tán vào cuốn “Hồi ký của một thằng hèn”, tác giả là nhạc sĩ Tô Hải hiện sống trong nước. Người khen thì quá nhiều tuy nhiên cũng có vài người chê bai dè bỉu. Điển hình là ông nhà văn nhà báo tên tuổi và cũng là bạn thân của tôi và của cả nhà văn Uyên Thao, người chủ trương Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương (đã ấn hành cuốn sách), đó là Công Tử Hà Đông Hoàng Hải Thủy.

Nhưng có một thực tế không thể bàn cãi: cuốn sách đã bán chạy như tôm tươi, nhà xuất bản đang cấp tốc cho in thêm. Thực ra thì những điều nhạc sĩ Tô Hải viết ra trong cuốn hồi ký này, đa số người cầm bút Miền Nam trước đây đều biết, và có thể còn biết hơn thế nữa. Nhưng cuốn sách sở dĩ được mọi người nồng nhiệt tìm đọc và có “giá” vì “nó” được chính miệng người trong cuộc (nhân chứng sống) “kể tội” và “thú tội”.”Nó” thuộc loại “trái cấm xuất khẩu”. Mà người đời vốn dĩ thường thích trái cấm. Còn các tác giả miền Nam trước đây và ngay cả bây giờ ở nước Mỹ viết ra, người ta nếu không cho là bịa đặt cũng “kết” là nhằm mục đích tuyên truyền. Sau khi đọc hết cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” tôi bỗng dưng nổi hứng muốn nhân dịp này bàn tán thêm về cái sự hèn của … thiên hạ.

Sống mấy chục năm dưới chế độ phi cầm phi thú, phải đau lòng nói rằng không chỉ có riêng mình ông Tô Hải là “thằng hèn” duy nhất, mà phải nói “nhân dân ta” cả miền Bắc đều hèn. Hèn từ trên xuống dưới, hèn từ trong bụng mẹ hèn ra. Hèn từ đời này sang đời nọ. Đến như cái lão Nhà văn Nguyễn Tuân nổi tiếng khinh bạc, vênh váo, tự kiêu, tự đại, coi thiên hạ dưới mắt như rác rưởi mà cũng phải thốt lên: “muốn sống (tồn tại trong chế độ) thì phải biết sợ”. Sợ phát sinh ra hèn. Hèn là tại sợ. Dưới sự kìm kẹp của cộng sản hỏi có bao nhiêu nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ. nhà báo, nhà giáo; mấy ai dám không hèn dõng dạc ra tuyên ngôn:“ bút mực tôi ai cướp giật đi, tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá”?.

Hay toàn một lũ bồi bút , một lũ nô tì chạy theo bợ đỡ nịnh hót “nâng bi” (xin lỗi độc giả tôi phải dùng tới hai chữ này mới diễn tả được hết ý) kẻ cường quyền, thối bảo thành thơm, thơm bảo là thối để kiếm chút cơm thừa canh cặn của bọn này quẳng cho? Giấy trắng mực đen sách báo còn ghi rõ ràng những “đại thi hào” như Chế Lan Viên, những “đại văn hào” như Nguyễn Khải mãi tới khi ngáp ngáp, biết rằng mình sắp nhắm mắt lìa lời, chẳng còn sợ gì nữa, mới dám viết ra những lời ăn năn sám hối. Nhưng, lại nhưng, lại dặn vợ con là khi nào mình nằm yên trong lòng đất rồi mới tung ra cho thiên hạ biết. Hèn thật.

Chết vẫn chưa hết sợ, hết hèn. Còn bây giờ, tôi dám cả quyết là sau khi toàn thế giới tràn ngập trận bão “NET”, tất cả bọn văn nô, nhạc nô, báo nô trong nước đều biết rõ, biết hết đâu thực sự là tự do dân chủ, nhân bản, nhân quyền, đâu là nô lệ áp bức dã man tàn bạo - chỉ vì quyền lợi riêng của bè đảng mà biến cả dân tộc thành những kẻ hèn hạ bất lương. Và cái gọi là “xã hội xã hội chủ nghĩa” đã bị loài người vứt vào thùng rác từ lâu. Nhưng vì cái dạ dầy, vì cái áo khoác và nhất là vì sợ nên đã hèn hạ gục mặt cúi đầu làm tôi mọi cho bọn mặt người dạ thú.Thậm chí có một tên văn nô đồ tể trong nước (có thành tích chôn sống mấy ngàn người dân hồi tết Mậu Thân ở Huế) sau khi đọc cuốn “ Hồi ký của một thằng hèn” còn gân cổ chống chế, biện minh cho chế độ và chê trách Tô Hải là kẻ nông nổi lầm đường lạc lối (!) và bóng gió kết tội “hèn sĩ “ này ăn cháo đá bát. Trên đây là nói về cái sự hèn của những tên hèn trong giới mà người đời quen gọi là Văn nghệ sĩ (những kỹ sư tâm hồn, nói theo dọng điệu cộng sản).

Bây giờ tôi xin nói về cái hèn của đám đông mà ở đầu bài tôi đã “liều” viết là cả nước hèn. Câu này thực ra không phải của tôi mà của chính Tô Hải. Nơi trang 368 (HKCMTH) Tô Hải viết:”Vâng! Chính cái hèn của dân tộc tôi…”. Tiện đây tôi xin nói một chút xíu về mình. Vào những năm 1986, 1987 khi tù cải tạo về, buối tối ngồi viết lén cuốn tiểu thuyết “Tiến Sĩ Lê Mai”, đoạn đối thoại (trong nhà tù) giữa ngài tiến sĩ khoa trưởng đại học với một thiếu niên can tội phục quốc thắc mắc về cái hèn của những bạn đồng tù. Ngài tiến sĩ đã trả lời là cả dân tộc chúng ta có truyền thống hèn từ mấy ngàn năm. Nhưng vì tôi “rét”, nói rõ hơn là vì tôi sợ, tôi hèn. Sợ mọi người sẽ xúm lại đánh đòn hội chợ nếu chẳng may bản thảo lọt vào tay các “đồng chí” (vì dám chê trách mạ lị nòi giống Tiên Rồng anh hùng) nên đã viết “nhẹ” đi là “người Việt Nam chúng ta đa số hèn” (trang 125, TSLM).

Mới chỉ có vậy thôi mà tôi đã sợ. Thế mới biết cái sợ cái hèn nó đè nặng lên cuộc đời con người ta ghê gớm như thế nào sau ngày “được” CS giải phóng. Vậy thử hỏi trong mấy ngàn năm đô hộ giặc Tầu, trăm năm nô lệ giặc Tây, dân tộc ta có bao nhiêu kẻ không hèn? Tôi sẽ viết về việc này trong một bài sau. Hôm nay chỉ xin nói về cái hèn của “nhân dân ta” ở miền Bắc sau mấy chục năm sống trong thiên đường CS. Vấn đề đặt ra là từ mấy chục năm nay cả Miền Bắc có bao nhiêu người không hèn, không sợ tù đầy và cả chết nữa?. Có thể nói những người không sợ, không hèn từ lâu nay hiếm hoi lắm, đếm chưa đủ trên đầu ngón tay.

Còn những vị trốn thoát ra ngoại quốc rồi mới dám lên tiếng, viết sách phản kháng, phản tỉnh thì cũng đáng phục đấy nhưng chỉ phục một…phần thôi. Bây giờ tôi xin nói về những cái hèn điển hình mà tới giờ này “thiên hạ” vẫn còn tiếp tục hèn và chẳng những vậy còn ca tụng những “đấng” đại hèn. Trước hết là “bác Hồ vĩ đại”. Vào năm 1945, sau khi cướp được chính quyền, lo sợ sự hiện diện 200.000 quân Tầu của Tưởng Giới Thạch ủng hộ Việt Nam Quốc dân đảng giành mất chính quyền, Hồ Chí Minh đã vội vã tổ chức tuần lễ quyên góp vàng của dân (lấy lý do gây qũy kháng chiến) đúc pho tượng viên tướng tư lệnh Lư Hán. Rồi đích thân họ Hồ đem pho tượng vàng tới bản doanh Lư Hán, quỳ mọp dưới chân lão này dâng “cống vật” và cầu xin giúp đỡ để được ngồi yên trên “ngai” chủ tịch nước. Đường đường một “đấng“ chủ tịch nước, một “cha già dân tộc” (tự xưng) mà phải đi quỳ lạy một viên tướng “tầu phù” xin xỏ. Còn gì nhục nhã, hèn hạ và ê chề cho bằng, còn gì danh dự quốc gia!

Tiếp tới là “hèn đại nhân” thứ hai: “ngài” đại tướng họ Võ. Ông này có lẽ sinh ra có số bọc điều nên một bước từ nhà giáo trở thành nhà binh đeo ngay lon đại tướng không cần phải leo từng bước theo thứ tự hệ thống quân giai. Do đó mà trong chốn chiến trận “ngài” chỉ có mỗi cái tài “nướng” quân, sống chết mặc bay. Trận Điện Biên Phủ nhờ bọn tướng Tầu cộng chỉ đạo nên mới thắng được thực dân Pháp (và cũng vì đế quốc Mỹ không ra tay nghĩa hiệp cứu bồ) . Thế là bọn báo chí Tây phương thi nhau lấy ống đu đủ thổi phồng ngài đại tướng, ví von xếp hàng ngài với những danh tướng của Pháp và thế giới.

Và bọn đàn em trong nước, bọn bồi bút thừa cơ tâng bốc ngài lên chin tầng mây xanh, xếp ngài ngang hàng với 10 danh tướng của nhân loại, trong số có đức Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc VN. Tốt thôi, vì đúng hay láo thì chúng ta cũng chẳng mất mát gì! Nhưng có một điều phải kể ra đây là ngài đại tướng cũng là người có học hành trí thức, biết lẽ phải điều trái, đọc sử sách biết gương tiết tháo của người xưa “uy vũ bất năng khuất”. Nhất là cầm cả triệu quân trong tay và mong muốn trở thành anh hùng dân tộc, bảng đồng bia đá khắc tên, mà lại hèn thì quả hết chỗ nói! Tôi không hề có ý xuyên tạc hay bịa đặt để bôi nhọ ngài đại tướng. Chứng cớ về cái sự hèn của ngài đại tướng rành rành, khắp bàn dân thiên hạ đều biết.

Sau “chiến thắng” năm 1975, trong lúc ngài đại tướng đang công du các nước Âu châu để khoe khoang thành tích “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” thì ở trong nước bọn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ cắt chức cầm quân của ngài và giao cho ngài chỉ huy việc “cầm quần” đám “chị em ta”.Thế mà ngài đại tướng cũng không hề có một phản ứng, lẳng lặng cúi đầu cam nhận chức vụ (tồi tệ) mới. Lẽ ra với khí thế đang lên của ngài lúc đó, ngài có thể lên tiếng kết án bọn Lê Duẩn và tuyên bố thành lập Mặt trận hay chính phủ lưu vong gì đó, biết đâu ngài chẳng làm nên lịch sử? Chưa hết, tiếp đó bọn đàn em tay chân thân tín của ngài “những công thần kháng chiến chống Pháp” như các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn vv…đều bị thủ tiêu hoặc nhẹ hơn là cắt chức về vườn đuổi gà cho vợ mà ngài đại tướng vẫn phớt lờ, không dám hó hé một lời, tiếp tục ngậm miệng ăn lương thì đúng là hèn vào loại nhất nhì thiên hạ. Đến nỗi bà vợ của ngài phải thốt lên (với bọn báo chí Tây phương ở Paris) : ông ta là một kẻ hèn!

Nếu ông tướng này bây giờ bớt hèn và dám liều như nhà nhạc sĩ hèn Tô Hải viết một cuốn hồi ký lấy tên “ Tôi là một tên tướng ĐẠI HÈN”, tôi đoan chắc cuốn này sẽ bán cả mấy trăm ngàn cuốn. Mong bà phu nhân của ngài đại tướng hèn khuyến khích “đấng” phu quân kể lại những cái sự hèn của ngài (thuê thợ viết, vì bây giờ ngài sắp xuống lỗ rồi viết sao nổi). Nếu làm được vậy may ra ngài đại tướng mới rửa bớt được cái sự hèn của ngài! Nếu ngài đại tướng vẫn hèn không dám kể thì bà phu nhân (thay chồng) kể lại tất cả những gì bà đã chứng kiến. Tôi tin việc làm này của bà cũng rửa được nhiều vết nhơ bám đầy ngôi sao nơi cổ áo của ngài đại tướng hèn! Tới đây tưởng cũng nên nói thêm là tướng tổng tư lệnh đã hèn như vậy thì bọn tùy tướng dưới trướng tất nhiên cũng phải hèn như Sếp hoặc hơn Sếp thì mới giữ được mâm cơm đầy thịt cá cao lương mỹ vị và vàng bạc châu báu chất đầy nơi ngân hàng ngoại quốc. Trên đây là những cái hèn thuộc loại “vĩ đại” của các “vĩ nhân”, điển hình cho giới chóp bu CS. Cái hèn tiếp theo tôi xin nói là cái hèn của “nhân dân ta”.

Trên nửa thế kỷ bị bọn cộng sản đè đầu cưỡi cổ, bị bóc lột tận xương tủy, đói rét tận cùng mà khắp nước có thấy một ai hó hé lên tiếng kêu ca gì đâu, nói gì tới vùng lên tranh đấu. Cái trận cuồng phong cải cách ruộng đất giết chết oan uổng hàng trăm ngàn người, tài sản tiêu ma, “nhân dân ta” vẫn cứ nín thinh chịu trận. Rồi khi bọn cầm quyền sửa sai xí xóa tội ác, “nhân dân ta” cũng vẫn câm như hến, chẳng thấy ai khiếu nại kêu oan! Trong khi đó bọn bồi bút (trong số có nhà nhạc sĩ hèn Tô Hải) thi nhau ca ngợi “chiến công” giết người cướp của của bọn đồ tể. Không thấy một “nhân sĩ Bắc Hà” nào lên tiếng than, lên tiếng kêu, tiếng khóc dùm dân oan! Nhưng xét ra cái sự hèn của “nhân dân ta” cũng là đương nhiên thôi, vì đó là căn bệnh trầm kha mãn tính mà đa số nhân dân các nước dưới sự kìm kẹp của CS (nhất là ở phương Đông) đều mắc phải. Này nhé, nhân dân Bắc Hàn trải qua gần thế kỷ dưới sự “lãnh đạo anh minh” của cha con lãnh chúa Kim Nhật Thành khổ còn hơn…chó mà có thấy một ai dám “húng hắng” kêu ca hoặc than khổ lấy một tiếng đâu.

Đói đến rã họng, rách đến tả tơi mà hễ cứ mở miệng là đứng thẳng người chắp tay cung kính tri ân đại lãnh tụ! Cả mấy chục triệu người mà run sợ đến khiếp nhược một con người thì không hèn là gi. George Eliot đã nói: “It is mere cowardice to seek safety in negations” (Thật là một sự hèn nhát hiển nhiên để tìm lấy yên ổn trong mọi chối từ). Rồi tới việc các đại đồng chí Trung quốc cai trị nhân dân bằng roi vọt, bằng cái bóp chặt dạ dầy, bằng đầy ải trong các trại tập trung nơi công trường mà trải qua ngót thế kỷ chỉ mới xẩy ra có một biến cố Thiên An môn. Cả tỷ con người ấy mà đồng tâm nhất trí “ngàn vạn cánh tay đưa lên”, mỗi người chỉ cần…búng nhẹ một cái thôi thì mấy chục tên chúa đỏ ngồi ở Trung Nam Hải chỉ có nước tan thây nát xác, chết không kịp ngáp. Nhà văn hào Nga Solzhenitsyn đã viết (hồi còn con ma CS) “chỉ cần 200 cánh tay giơ lên cùng lúc thì cục diện nước Nga đã không còn như bây giờ”.

Vâng, mọi sự tệ hại trên thế gian này có thể nói đều do cái hèn của con người cả. Nói đâu xa, việc đang diễn ra trong nước ta đấy. Bọn bành trướng Bắc Kinh tự vẽ họa đồ đặt định hải phận, cướp không của đất nước chúng ta hàng ngàn hải lý rồi còn ngang xương ra lệnh cấm đồng bào ta (bao đời đánh bắt cá trên vùng biển thân thương) không được lớ xớ tới vùng cấm do chúng áp đặt. Biết bao ngư dân của chúng ta bị bọn bành trướng đánh đập bắt giam giết chết và tịch thu tầu thuyền mà có thấy “các đồng chí lãnh đạo” đảng, nhà nước ta mở miệng phản đối đâu! Người trong nước gọi “các đồng chí lãnh đạo” là “hèn đại nhân”. Tướng quân Trần Bình Trọng (nghĩa khí ngút trời) có linh thiêng xin ngài hiện về cầm gươm chỉ vào mặt bọn bán nước cầu vinh này bài học “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.

Đó là chuyện của những hèn đại nhân. Bây giờ tôi xin kể tiếp chuyện của các “hèn sĩ”. Chuyện mới diễn ra ngay trên đất Mỹ này. Mấy tháng nay có khá nhiều nhà văn, nhà báo, nhà bình luận trong nước (được giới báo chí, văn nghệ Việt Nam hải ngoại phong cho là “các nhà văn đối kháng”, (vì trước đây đã có can đảm viết sách, viết báo chống đối đảng, nhà nước gửi ra ngoài này đăng) được đảng, nhà nước ta cho phép “Mỹ du” đọc đít cua, đít cáy tại mấy trường đại học Mỹ. Những ông nhà văn nhà viết này đều thuộc hàng đói rách thâm niên, (vì không được đảng, nhà nước tận tình chiếu cố như các “hèn sĩ” Tô Hải) thì lấy đâu ra tiền chi cho việc mua vé bay, việc di chuyển ăn ở từ Bang này sang Bang khác gặp gỡ bà con hay bạn bè (ngụy) cũ? Một là do các trường đại học Mỹ chi. Hai là do đảng, nhà nước ta cung cấp. Riêng cái việc được đảng, nhà nước cho “Mỹ du” cũng đã phải cam kết thi hành chỉ thị rồi. Đó là thực thi chính sách “tam thập lục kế” (tức nghị quyết 36).

Có anh nhà văn sang đây cứ đóng vai câm điếc, ai hỏi gì cũng không nói, ai “thắc mắc” gì cũng nhe răng cười trừ. Vì sợ nói năng lăng quăng bị bọn báo chí bên này “xuyên tạc” thì khi về nước khó mà sống nổi với các đại đồng chí. Cứ đóng vai câm điếc chắc ăn. Có anh trước đây mấy năm hung hăng con bọ xít viết sách chỉ trích đường lối chính sách của đảng, nhà nước và “chơi” luôn cả thánh kinh Mác xít nữa, được bọn lái sách ngoài này in ấn, quảng cáo ầm ĩ. Thế mà khi sang đây, trái với ý muốn của bọn đầu cơ chính trị, ”hèn sĩ” này thay vì nói về “thi sĩ mầu tím hoa sim” (như chương trình đã định) lại quay ngoắt 180 độ, mở miệng khuyên sinh viên người Việt nên về nước học hỏi thêm và sau này thành tài thì về nước phục vụ “quốc gia dân tộc”. Và “ hèn sĩ” (chắc là được ai đó mớm) còn to tiếng kêu gọi người Việt hải ngoại khi gửi tiền về làm công việc từ thiện nên giao cho các đoàn thể hiệp hội trong nước “đưa giúp”! Tấn trò hèn lộ liễu quá ông “hèn sĩ” ơi. Thà rằng cứ câm miệng ăn tiền may ra còn được chút cháo bố thí của người Việt hải ngoại vốn giầu từ tâm.

Nghĩ mà …tội nghiệp cho đồng hương ta, chỉ vì tấm lòng từ tâm bao la như trời biển “thương người như thể thương thân”, lúc nào cũng muốn cứu giúp kẻ lầm than nên cứ bị bọn “hèn sĩ” trong nước (qua Mỹ, qua Pháp) lợi dụng sỏ mũi hoài. Họ được “quân ta” bốc lên tận mây xanh, được ăn được nói và được cả “gói” bỏ túi. Thế mà khi “qua cầu” là họ giở ngay cái giọng điệu xỏ xiên xem thường xem khinh…”bọn ngụy” liền! Bây giờ tôi xin trở lại với “thằng hèn” Tô Hải. Qua những lời “thú tội” của ông nhạc sĩ già Tô Hải trên 500 trang sách thì ngoài cái sự hèn ra tôi còn nhận thấy ông là một tên gian manh thượng thặng. Ông không phải là nhạc sĩ tài ba nhất chế độ, lại có thân nhân làm tướng Ngụy, (có thân nhân là dân ngụy đã khốn khổ trăm bề huống chi lại là tướng!) mà trải qua trên nửa thể kỷ ông vẫn cứ sống phây phây ăn trên ngồi trước, được đảng, nhà nước tin tưởng và biệt đãi hậu hĩnh (trong khi cả nước đói khổ) thì phải biết “tài năng” bợ đỡ và thủ đoạn của ông đạt tới mức thượng thừa như thế nào. Ông bảo ông đã nhìn thấy cái đống phân hôi thối (bọn cầm quyền) từ lâu nhưng vì hèn nên cứ nhắm mắt bịt mũi “cũng đành nhắm mắt đưa chân” để được vinh thân phì…da.

Mãi tới khi sắp về chầu tiên tổ và thấy thiên hạ “cả tiếng dài hơi” sỉ vả đảng, nhà nước (mà không hề hấn gì) nên ông mới liều tung ra cuốn hồi ký kể tội người và kể tội mình. Nếu có “ra sao” thì ông cũng cóc sợ vì ông chẳng còn gì để mất, trên 80 tuổi rồi, chết còn không ngán thì còn gì để mà sợ.Thế là ông hết hèn. Dù sao chúng ta cũng phải thán phục ông, ông còn hơn các “đồng nghiệp hèn” của ông nhiều, giờ vẫn đang tiếp tục sống nhục, sống hèn. Duy có một điều tôi vẫn thấy ái ngại cho ông. Vì trải qua hết cả đời người phục vụ cho đảng, dù muốn hay không, bàn tay cũng đã nhúng máu anh em. Liệu những lời ăn năn sám hối có rửa sạch được không? Nhưng dù sao “có còn hơn không”. Ước chi những người hiện đang sống một cuộc sống hèn trong nước, đang đưa lưng cho lũ bạo quyền cưỡi, sớm tỉnh ngộ và cùng lúc giơ cao cánh tay lên hét lớn: “Chúng tôi không hèn nữa. Chúng tôi ăn năn hối hận. Chúng tôi muốn làm người”. Tôi nghĩ may ra lúc đó nhân dân ta, đất nước ta mới thoát khỏi nỗi nhục khi ra nước ngoài không dám nhận mình là người Việt Nam. Còn nếu cứ như bây giờ thì…

Thanh Thương Hoàng
Nguồn thongtinberlin
Đoc thêm: Hồi ký của một thằng hèn
- phamxuannguyen

Anti Communism


Hình ảnh lịch sử chôn vùi cờ đỏ.