Friday, March 30, 2012

USA-HC


Pháp Đình và Cải Tổ Y Tế‏

Cách nay hai năm, luật cải tổ y tế Hoa Kỳ đã được lưỡng viện Quốc Hội thông qua và được Tổng Thống Obama ký ban hành. Có một số điều khoản đã trở thành hiệu lực kể từ năm nay, như con cái còn ở chung với cha mẹ có thể hưởng chung trong bảo hiểm của người lớn cho đến năm 26 tuổi. Ngoài ra, các điều khoản còn lại sẽ được thi hành vào hai năm tới, gồm có việc bắt buộc mọi người phải có bảo hiểm y tế, hoặc nhận từ sở làm hoặc mua riêng, nếu không sẽ bị phạt. Thế nhưng sau đó 26 tiểu bang và một nhóm tiểu thương chống luật này đã khởi đơn kiện luật này ra tòa, nại cớ tính cách bất hợp hiến của đạo luật. Lần lượt các toà án liên bang cho tới tòa kháng án liên bang đã thụ lý vụ kiện và đã đưa ra phán quyết cho vụ xử này thế nhưng một trong hai bên, nguyên, bị, không hài lòng. Vì thế cho nên cuối cùng vụ kiện đã được chuyển lên Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phân xử.

Vào Thứ Hai, 26/3/2012, TCPV bắt đầu nghe luật sư đại diện của hai bên, nguyên đơn và chính phủ, trình bày sự việc, trả lời các câu hỏi và các vấn đề liên hệ do các Thẩm phán nêu lên. Tòa án chỉ có sức chứa cho 400 người tham dự. Một số Thống đốc và ứng cử viên Tổng thống thuộc đảng Cộng Hòa đã hiện diện tại tòa kể từ ngày xử đầu tiên. Nhiều người khác thuộc cả hai phe đã đứng bên ngoài tòa án, vừa để theo dõi diễn tiến bên trong vừa để ủng hộ phe nhà.

Có hai cách xét xử mà các Thẩm phán sẽ thực hiện lần này liên quan đến Luật Y Tế. Hoặc là đưa ra phán quyết tuyên bố toàn bộ Obamacare là vi hiến và vì thế toàn thể luật này trở thành vô hiệu và không được thi hành. Hoặc là chỉ có một số điều khoản của luật này là bất hơp hiến và như thế chỉ có các điều khoản ấy bị vô hiệu hóa mà thôi. Tuy nhiên, mặc dù chỉ có vài điều khoản bị các Thẩm phán đánh đổ nhưng nếu đó lại là điều khoản cốt lõi, toàn bộ đạo luật sẽ vì thế bị ảnh hưởng theo và cuối cùng có thể đưa đến tình trạng vô hiệu hóa toàn diện.

Mở màn phiên tòa, có Thẩm phán, Sotomayor, đặt vấn đề là luật do Quốc Hội làm ra, vậy nếu muốn hủy bỏ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phải chăng là Quốc Hội thay vì là tòa án?

Lại có một vấn đề khác được đặt ra là luật y tế có hiệu lực kể từ 2014 mà năm nay là 2012, như thế nếu tòa án phân xử từ bây giờ e rằng có sớm quá chăng, trong lúc cả hai phe đều mong muốn TCPV xử liền một khi.

Tổng số Thẩm phán là 9 vị, trong đó có 4 vị thuộc phe tự do; Breyer và ba nữ Thẩm phán Ginsburg, Sotomayor và Kagan. 5 ông còn lại; Chủ tịch Roberts, Scalia, Thomas, Alito và Kennedy thuộc phe bảo thủ. Trong số các Thẩm phán bảo thủ, ngài Kennedy lại thường lăng ba vi bộ cho nên chưa biết ý ngài sẽ như thế nào. Ông này và Chủ tịch Roberts sẽ là người cuối cùng quyết định sự thành bại của luật healthcare. Người ta bảo mặc dù các Thẩm phán trong khi tranh luận ít nhiều tỏ rõ lập trường của họ nhưng đến khi quyết định tối hậu lại có phán quyết khác hẳn. Rồi có người lại nói Thẩm phán Thomas, người Mỹ gốc Phi châu duy nhất của pháp đình xưa nay thuộc mẫu người kín đáo tối đa, không nói năng chi qua các phán quyết mà các đồng viện của ngài thông qua trong quá khứ, thành ra không biết lần này ngài sẽ hành động ra sao. Trong ba ngày nay, ngài này chỉ ngồi nghe chứ không nêu câu hỏi hay đóng góp ý kiến.

Luật y tế bắt buộc các công ty bảo hiểm không được từ chối bảo hiểm cho nhưng người đã có mầm mống bật tật từ trước, ấn định giới hạn tối đa số tiền mua bảo hiểm mà công ty đòi người tiêu thụ phải trả, dân chúng phải có bảo hiểm y tế; từ hãng làm hay tự mua và nếu không có, họ sẽ bị phạt, nới rộng chương trình y tế liên bang Medicaid dành cho những gia đình có lợi tức thấp. Hiện nay có khoảng 30 triệu người không có bảo hiểm y tế.

Một trong những lý luận mà chính phủ sử dụng để bảo vệ luật y tế là Hoa Kỳ là một nước tiền tiến duy nhất trên thế giới không có luật y tế cho toàn dân. Phe Cộng Hòa chống luật y tế với lý do giản dị, luật này không được phổ thông và tốn kém hàng tỉ Mỹ kim trong khi Hoa Kỳ đang bị thâm thủng ngân sách trầm trọng và thiếu nguồn tài trợ.

Có những câu hỏi do các Thẩm phán nêu ra cho luật sư của hai bên xem ra thú vị. Chẳng hạn như, nếu chính phủ có thể buộc dân chúng mua bảo hiểm, thế chính phủ có thể sẽ buộc dân chúng mua bảo hiểm chôn cất, mua điện thoại di động hay rau tươi Broccoli được hay không. Chủ tịch Roberts nói, lần này là bảo hiểm y tế vậy lần tới sẽ là một thứ khác. Thẩm phán Scalia nói, nếu chính phủ làm được điều này thì có cái gì khác chính phủ không làm được. Thẩm phán Kennedy dè dặt bảo rằng cho phép chính phủ cưỡng bách dân như thế sẽ làm thay đổi quan hệ giữa chính phủ và công dân, và cái quyền ấy cần phải được biện minh chính đáng dựa theo đòi hỏi của Hiến pháp hay không. Thẩm phán Breyer hỏi luật sư Carvin, đại diện cho giới tiểu thương; the National Federation of Independent Business, là nếu có một bệnh dịch lan tràn khủng khiếp trên nước Mỹ, chính phủ không thể nào bắt dân chích ngừa phải không, luật sư trả lời, không thể, vì Quốc Hội không có quyền này. Còn Thẩm phán Ginsburg so sánh giữa y tế và an sinh xã hội rằng, Quốc Hội bắt thanh niên đóng thuế an sinh xã hội trong khi giới hạn, không cho họ có tiếng nói liên quan đến y tế được không.

Đại diện cho chính phủ Obama, bào chữa, bảo vệ luật y tế Patient Protection and Affordable Care Act 2009 là luật sư Verrilli Jr. Đại diện cho 26 tiểu bang khởi kiện là luật sư Paul Clement và như đã đề cập ở trên, đại diện cho giới tiểu thương là luật sư Carvin. Luật sư Long đại diện cho Tòa Kháng Án Liên Bang Richmond, Virginia. Đây là tòa dưới đã từ chối ra phán quyết tranh tụng về y tế bây giờ vì cho là quá sớm.

Phe Cộng Hòa muốn hủy toàn bộ luật y tế hay ít ra hai điều khoản chính và từ đó luật sẽ bị ảnh hưởng. Thứ nhất là điều khoản bắt buộc thanh niên phải mua bảo hiểm. Thứ hai là nới rộng bảo hiểm y tế cho các gia đình có lợi tức thấp mà theo chương trình y tế liên bang Medicaid hiện nay họ không hội đủ điều kiện căn cứ vào tiêu chuẩn lợi tức.
Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy là trên 50 phần trăm số người được thăm dò đều đồng ý là toàn dân cần có bảo hiểm y tế. Và đa số người được thăm dò không chấp nhận điều luật bắt buộc dân chúng phải mua bảo hiểm. Làm như thế là xâm phạm tự do cá nhân, bắt dân chúng làm cái việc mà họ không muốn làm. Việc tài trợ cho chương trình y tế dựa trên sự cắt xén các chương trình y tế liên bang hiện hữu và tiền mua bảo hiểm của thanh niên, cái giới ít có cơ hội sử dụng bảo hiểm, viếng thăm nhà thương và bác sĩ vì tình trạng tương đối khỏe mạnh của họ. Các công ty bảo hiểm sẽ chi ra nhiều tiền hơn vì luật y tế bắt họ phải nhận những người mua bảo hiểm có sẵn mầm mống bệnh hoạn và lại không phân biệt tuổi tác và tình trạng sức khỏe. Hãng bảo hiểm kinh doanh với mục đích kiếm lời. Luật bắt họ nhận vào khách hàng bệnh sẵn, nhất là bệnh hiểm nghèo, tốn kém như thế, họ chỉ có đường sập tiệm. Vậy thì để đền bù, hiểu ngầm là chính phủ phải đền bù cho họ để họ sinh tồn chứ, bằng cách buộc nhóm thanh niên khỏe mạnh, ít bệnh tật, phải mua bảo hiểm. Nói cách khác, ép một thành phần khỏe mạnh nộp tiền cho tư bản bảo hiểm bù vào chỗ tốn phí kia là ổn thỏa thôi. Khổ một cái là dân chúng có ý thức và quen sống tự do lâu ngày cho nên chính phủ buộc họ thế nào được. Thế thì giải pháp tốt nhất là lôi nhau ra tòa, nhờ tòa án xử thôi. Với chi phí y tế khổng lồ như thế này, có lẽ các biện pháp thuế khóa sẽ phải được thực thi thôi.

Tòa Kháng Án liên bang Richmond, Virginia cho rằng vụ kiện tụng này bây giờ đem ra xử là sớm quá. Vào thời điểm bầu cử Tổng thống và Quốc Hội như năm nay đây là một vấn đề chính trị tế nhị. Có lẽ vì thế mà tòa dưới không muốn can dự cũng nên. Thế nhưng TCPV không đồng ý, sẽ xử cho xong. Có một đạo luật của thế kỷ thứ 19 tên là the Anti-Injunction Act, liên quan đến thuế vụ, theo đó luật cấm tòa án không được xử các vụ kiện tranh tụng về thuế cho tới khi nào tiền thuế đã được thâu. Tòa Richmond dựa vào luật này và đưa ra lý do từ chối xử là, luật y tế, đặc biệt là điều khoản bắt buộc dân chúng phải có bảo hiểm y tế, có hiệu lực kể từ 2014. Người nào không có thì vào thời gian khai thuế cho 2014 tức là đầu năm 2015 sẽ phải nộp phạt và số tiền phạt này sẽ được khai và kèm theo mẫu khai thuế của năm 2014. Hiện nay còn sớm quá, chưa thể khai thuế cho năm ấy và chưa có vấn đề nộp phạt thì làm sao mà tòa xử vụ tranh tụng này cho được. Nếu cứ tiến hành, e rằng như thế là không đúng với nột dung của đạo luật cũ cả 145 năm nói trên. TCPV nghĩ khác, thuế (tax) và tiền phạt (penalty) là hai mục hoàn toàn khác nhau. Cho nên TCPV sẽ phân xử.

Sau ba ngày dài hỏi han, đối chất, và nghe kỹ các luật sư đại diện cho chính phủ Obama và 26 tiểu bang cũng như giới tiểu thương và tòa kháng án liên bang Richmond, TCPV từ nay trở đi sẽ rút vào họp kín nội bộ. Phán quyết sẽ được trình làng và số phận của Obamacare sẽ được quyết định một phần hay toàn phần vào cuối tháng Sáu tới đây.

Nếu vào tháng 11 tới, ứng viên Cộng Hòa đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ, dù là bất cứ người nào, họ cam kết sẽ cùng với Hạ viện ra sức hủy bỏ luật cải tổ y tế liên bang.

Nếu TCPV phán rằng điều khoản của luật y tế bắt buộc dân chúng phải mua bảo hiểm là bất hợp hiến, các phần còn lại khó mà đứng vững được. Không khéo cả một công trình tốn kém về nhân lực và tài lực của cả từ hành pháp cho tới lập pháp trong các năm qua nhằm tạo dựng nên một bộ Luật Y Tế lịch sử của Hoa Kỳ có triển vọng tan thành mây khói!

Nguyễn Văn Huy
CA,March.29-2012

China


Trung Quốc : Cường quốc đơn độc

Vì sao chỉ còn lại những nước xảo trá là bạn thật sự của Trung Quốc?

Suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa, những vị khách hiếm hoi từng đặt chân đến Trung Quốc thường nhìn thấy tấm áp phích khổng lồ đặt tại sân bay, với những dòng chữ khoe khoang đến nực cười, “Chúng tôi có bạn bè khắp nơi trên thế giới”. Thực sự, nước Trung Hoa theo chủ nghĩa Mao – một nhà nước xảo trá chuyên xuất khẩu cách mạng và đấu tranh vũ trang đi khắp thế giới, một kẻ thù không đội trời chung của phương Tây và khối Xô-viết cũ – từng bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trong quá khứ, Trung Quốc chỉ có mối giao hảo với một vài nước như Rumani của Ceausescu, Campuchia của Pol Pot; duy nhất chỉ có quốc gia bé nhỏ Albania, từng là đồng minh thật sự của Trung Quốc, nhưng chỉ trong những năm tháng ngắn ngủi và ảm đạm.

Bốn mươi năm sau, một Bắc Kinh quả quyết và hùng mạnh có thêm nhiều bạn. Sự hiện diện kinh tế của Trung Quốc được nhiều chính phủ châu Phi chào đón nồng nhiệt (không nhất thiết dân địa phương có hoan nghênh hay không); các nước châu Âu thì xem Trung Quốc như một “đối tác chiến lược”, và Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ với các nền kinh tế đang nổi lên hàng đầu như Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil và Nam Phi. Tuy có Pakistan, nước phụ thuộc vào trợ giúp của Trung Quốc về kinh tế và quân sự, được Trung Quốc yểm trợ với mục đích chủ yếu nhằm tạo thế đối trọng chống Ấn Độ, Bắc Kinh thiếu hẳn những đồng minh thật sự đến mức khó tin.

Quan hệ hữu nghị hay đồng minh chiến lược thật sự không phải là thứ hàng hóa có thể mua hoặc đổi chác theo cách thông thường. Nó đặt trên nền tảng cùng chia sẻ những mối quan tâm về an ninh, được củng cố bằng những giá trị tư tưởng giống nhau và sự tin cậy lâu dài. Trung Quốc nổi tiếng về “thủ đoạn ngoại giao con buôn” – đi khắp thế giới giở trò mua chuộc một cách dễ dàng bằng tập chi phiếu dày cộm, ủng hộ những chế độ (thường là thối nát, bị cô lập, là nước nghèo) như Angola, Sudan để đổi lại những điều khoản có lợi về khai thác tài nguyên thiên nhiên, hoặc biểu quyết chống lại những nghị quyết do phương Tây bảo trợ, có nội dung chỉ trích thành tích nhân quyền của Trung Quốc. Và nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này vẫn thiếu hẳn những đồng minh chiến lược đáng tin cậy, nguyên nhân từ ba yếu tố có quan hệ với nhau: địa lý, ý thức hệ và chính sách.

Trước hết, Trung Quốc nằm ở vị trí địa chính trị là một trong những nước láng giềng khó chịu nhất thế giới. Trung Quốc có cùng biên giới với Nhật, Ấn Độ và Nga; cả ba cường quốc chủ chốt này từng trực tiếp xung đột quân sự với Trung Quốc trong thế kỷ 20. Trung Quốc vẫn còn tồn tại những tranh chấp lãnh thổ với Nhật, Ấn Độ, và người Nga đang lo sợ những dòng người Trung Quốc di cư, đến sinh sống tràn ngập khu vực Viễn Đông thưa thớt dân cư. Là những đối thủ địa chính trị tự nhiên như vậy, những quốc gia này không dễ dàng trở thành đồng minh với Trung Quốc. Vùng Đông Nam Á có Việt Nam, một nước không dễ khuất phục, không những từng trải qua nhiều cuộc chiến với Trung Quốc, nước này có vẻ đang tăng cường nỗ lực đấu tranh vì chủ quyền đối với vùng biển đang tranh chấp, thuộc khu vực biển Đông. Và ngang qua biển Hoàng Hải là Hàn Quốc, trong lịch sử từng bị Đế quốc Trung Hoa đô hộ, nhưng nay trở thành một đồng minh vững chắc của Mỹ.

Còn lại các nước như Myanmar, Campuchia, Lào và Nepal, những nước yếu kém này là những “cục nợ chiến lược” thật sự của Trung Quốc: duy trì rất tốn kém nhưng mang lại lợi ích rất nhỏ. Thập niên vừa qua, Trung Quốc ra sức tranh thủ thuyết phục các quốc gia có vai trò quan trọng hơn ở Đông Nam Á gia nhập quỹ đạo của mình với chiêu bài tự do thương mại và những hứa hẹn ngoại giao. Trong lúc chiến dịch này chỉ tạo ra thời kỳ trăng mật ngắn ngủi giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực, nó đã nhanh chóng tuột dốc khi Trung Quốc tăng cường khẳng định chủ quyền trong tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải trên biển Đông, điều này khiến các quốc gia Đông Nam Á nhận ra rằng, sự lựa chọn an ninh tốt nhất của họ vẫn là Mỹ. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vừa qua ở Bali, tháng 11 năm 2011, hầu hết các nước thuộc khối ASEAN đều lên tiếng ủng hộ lập trường của Washington về vấn đề biển Đông.

Trung Quốc có thể là nước bảo trợ của Bắc Triều Tiên, nhưng hai quốc gia này lại không ưa gì nhau. Nỗi lo ngại về một Triều Tiên tái thống nhất khiến Trung Quốc phải tiếp tục bơm viện trợ ồ ạt cho Bình Nhưỡng. Mặc dù có được Trung Quốc như cái máy rút tiền và trạm tiếp nhiên liệu, nhưng Bình Nhưỡng vẫn không tỏ ra biết ơn đối với Bắc Kinh, cũng như rất hiếm khi chịu để những mối quan tâm an ninh của mình song hành với Trung Quốc: cứ xem tham vọng theo đuổi vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, rõ ràng đã làm tồi tệ hơn môi trường an ninh của Trung Quốc. Thậm chí còn tồi tệ thế này, Bình Nhưỡng từng nhiều lần tiến hành các cuộc đàm phán trực tiếp với Washington sau lưng Bắc Kinh trong suốt quá trình đàm phán sáu bên do Trung Quốc bảo trợ, cho thấy Bắc Triều Tiên luôn sẵn sàng bán đi “người bạn” và láng giềng của mình cho kẻ ra giá cao nhất. Tuy Trung Quốc có ít sự lựa chọn, nhưng nước này nên cư xử đẹp, không nên hằn học dù mối quan hệ giữa họ và nước Triều Tiên thống nhất có thể xấu đi: Nếu Hàn Quốc dân chủ thâu tóm được Bắc Triều Tiên, quốc gia mới tất nhiên sẽ tiếp tục tăng cường quan hệ an ninh với Mỹ, thay vì gần gũi hơn với Trung Quốc.

Trong tất cả các nước láng giềng, duy chỉ có Pakistan tạo ra được lợi ích an ninh thật sự cho Trung Quốc. Nhưng do tình hình bất ổn trong nước làm suy yếu chính phủ Pakistan, lợi ích sau cùng của mối quan hệ này đang suy giảm. Việc Trung Quốc mở rộng quan hệ an ninh, thương mại với các chế độ chuyên quyền Trung Á gặp phải sự cạnh tranh từ Nga (nước bảo hộ truyền thống của họ) và Mỹ; những chính phủ này có thể cần Trung Quốc để cân bằng trong quan hệ với các cường quốc khác, vốn đang thèm muốn nguồn tài nguyên và vị trí chiến lược của họ, nhưng các nước Trung Á cũng rất lo sợ trước viễn cảnh bị rơi vào quỹ đạo Trung Quốc, dẫn đến việc thiết lập liên minh thật sự với quốc gia này.

Nếu phương diện địa lý góp phần làm cho Bắc Kinh mất đi những đồng minh an ninh lâu bền, hệ thống độc đảng của Trung Quốc cũng làm hạn chế nghiêm trọng một loạt các ứng viên có thể đưa vào quỹ đạo của Bắc Kinh. Các nền dân chủ tự do – hầu hết là những nước giàu mạnh và có ảnh hưởng – đều ngoài tầm với của Trung Quốc, do những ảnh hưởng bất lợi trong nước và quốc tế khi họ thành lập liên minh với một chế độ độc tài. EU và Trung Quốc sẽ không có chuyện xúc tiến một liên minh an ninh; việc nâng cấp mối quan hệ lên tầm “đối tác chiến lược” chỉ là lối nói hoa mỹ, ngay lập tức trở nên rỗng tuếch bởi lệnh cấm vận vũ khí EU đang áp đặt lên Trung Quốc và những tranh chấp thương mại triền miên.

Các chế độ dân chủ thông qua bầu cử chiếm đến khoảng 60% tổng số các nước trên thế giới, làm cho số lượng các nước đồng minh chính trị tiềm năng của Trung Quốc trở nên nhỏ hơn rất nhiều so với thập niên 1960 và 1970. Những thể chế dân chủ tự do mới sau này như Mông Cổ, nước láng giềng của Trung Quốc, tỏ ra miễn cưỡng khi bang giao với một gã khổng lồ độc tài, đặc biệt trong quan hệ láng giềng. Thay vào đó, Mông Cổ theo đuổi liên minh với phương Tây vì mục đích an ninh (và người ta cho rằng Bắc Kinh không hài lòng về cuộc tập trận quân sự chung được tổ chức gần đây giữa Mỹ và Mông Cổ). Ngày nay, mối quan hệ được thổi phồng từ thời chiến tranh lạnh giữa Trung Quốc và Romania, Albania đã sụp đổ. Mặc dù nền dân chủ của họ còn nhiều khiếm khuyết, nhưng lãnh đạo hai nước này có vẻ hiểu rằng, nếu ràng buộc vận mệnh đất nước mình vào Trung Quốc sẽ làm hỏng cơ hội trở thành một phần của phương Tây. Kinh doanh, giao dịch buôn bán với Trung Quốc là một chuyện – có lẽ đó là điều không tránh được trong nền kinh tế hiện đại và toàn cầu hóa, nhưng đồng hành với nhau trong chính sách đối ngoại lại là vấn đề hoàn toàn khác.

Trong ba thập niên qua, chiến lược chính sách đối ngoại của Bắc Kinh không tập trung vào việc xây dựng khối đồng minh chiến lược. Thay vào đó, Trung Quốc nhấn mạnh vào việc duy trì quan hệ ổn định với Mỹ, tận dụng môi trường hòa bình ở bên ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước. Chính sách ngoại giao Trung Quốc thời hậu Mao Trạch Đông ở trạng thái tăng tốc làm việc hết sức chỉ đúng có hai lần: khi Trung Quốc gây sức ép lên Đài Loan vào thời điểm chính phủ ủng hộ độc lập lên nắm quyền tại đảo quốc này (giai đoạn 1995-2008), và khi Trung Quốc tập hợp các nước đang phát triển nhằm làm thất bại chiến dịch nhân quyền của phương Tây chống lại Trung Quốc. Đó là những lần Bắc Kinh phải dựa vào mối quan hệ ngoại giao (đi kèm theo sự đe dọa ngấm ngầm) để đạt được mục đích của mình, chẳng hạn Trung Quốc từng thuyết phục các nước như Algeria, Sri Lanka tẩy chay lễ trao giải Nobel Hòa bình vào tháng 12 năm 2010 nhằm vinh danh nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc Lưu Hiểu Ba. Nhưng mặt khác, giới lãnh đạo Trung Quốc có niềm tin chắc chắn rằng phương cách đáng tin cậy nhất để một cường quốc có thể bảo đảm những lợi ích và an ninh của mình vẫn là tập trung phát triển mọi tiềm năng của đất nước, trong khi đó lại không quan tâm đến phần còn lại của thế giới.

Như các cường quốc khác, Trung Quốc cũng có những quốc gia chư hầu, chẳng hạn như Bắc Triều Tiên và Myanmar. Nếu Bắc Triều Tiên thể hiện một nước chư hầu có thể trở thành kẻ phá rối nguy hiểm đến dường nào, thì Myanmar lại là một ví dụ cho thấy, vì sao một nước bảo trợ không nên cho rằng vai trò “thượng quốc” của mình mãi là điều hiển nhiên. Cho đến khi xảy ra những biến chuyển chính trị mạnh mẽ gần đây tại Myanmar, Trung Quốc vẫn nghĩ rằng chính quyền quân sự của quốc gia cô lập này vẫn ngoan ngoãn nằm trong túi của mình. Thế nhưng, giới tướng lĩnh cầm quyền Myanmar dường như đã có kế hoạch khác, họ đã hủy một hợp đồng với Trung Quốc liên quan đến việc xây một con đập gây tranh cãi. Trước khi Bắc Kinh tỏ thái độ tức giận, Myanmar đã thả tù chính trị, và mời Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến Yangon trong chuyến thăm lịch sử. Hiện nay, Myanmar hình như đang rời khỏi quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc.

Ngoài ra, Trung Quốc có thể có một vài nước thật sự đúng nghĩa bạn bè, như Venezuela của Hugo Chávez, Zimbabwe của Robert Mugabe, Cuba của anh em nhà Castros. Nhưng nhìn chung, đây là những nhà nước nằm dưới sự lãnh đạo của các chính trị gia thường bị thế giới xa lánh, chuyên trục lợi khi quan hệ với các cường quốc. Bên cạnh việc tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhận được sự ủng hộ tại Liên Hiệp quốc, mức độ quan trọng chỉ có thế, việc quan hệ tốt với những quốc gia đó chỉ đem lại cho Bắc Kinh lợi ích nhỏ nhoi. Vả lại, hầu hết lãnh tụ của những nước này đều già yếu. Một khi thế hệ chính trị gia mới, giỏi giang hơn, theo đường lối dân chủ lên nắm quyền, quan hệ giữa những nước này với Trung Quốc có thể không còn nồng ấm.

Nga, một nước gần gũi nhất, gần như là một cường quốc đồng minh với Trung Quốc. Họ cùng chia sẻ nỗi lo ngại và căm ghét phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đã đem Moscow và Bắc Kinh đến gần nhau hơn bao giờ hết. Tuy vậy, lợi ích kinh tế chung của hai nước lại đang đi xuống: Nga đã làm Trung Quốc thất vọng khi từ chối cung cấp năng lượng và không bán cho Trung Quốc những vũ khí tiến tiến, trong khi Trung Quốc lại không bày tỏ đủ sự hậu thuẫn đối với Nga trong cuộc tranh cãi của nước này với Mỹ liên quan đến hệ thống phòng thủ tên lửa, cũng như trong vấn đề Gruzia. Nhưng xét về khía cạnh hoàn toàn chiến thuật, Trung Quốc và Nga đã trở thành đối tác lợi dụng lẫn nhau, cùng hợp tác tại Hội đồng Bảo an LHQ nhằm tránh sự cô lập, bảo vệ lợi ích sống còn của mình. Về vấn đề Iran, Nga và Trung Quốc điều phối nhau một cách chặt chẽ để giảm nhẹ áp lực của phương Tây lên Tehran. Đối với Syria, họ từng hai lần phủ quyềt các nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ để bảo vệ chế độ Assad. Tuy nhiên, bất kỳ người Nga hay người Trung Quốc chân thật nào cũng sẽ nói thẳng với mọi người rằng họ không phải là đồng minh; việc thiếu sự tin cậy chiến lược giữa hai nước đã khiến việc hình thành liên minh thật sự trở thành điều không thể.

Sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc đã tạo nên nỗi lo ngại “tiến thoái lưỡng nan về an ninh”: Thay vì làm cho Trung Quốc an ninh hơn, sức mạnh đang lên của Trung Quốc đã tạo ra nỗi bất an đối với các nước láng giềng, nghiêm trọng hơn, nó đã gây ra sự phản ứng chiến lược từ Mỹ, nước đang tập trung chuyển trọng tâm an ninh hướng về châu Á. Cuộc đối đầu chiến lược đang nổi lên này sẽ thử thách gay gắt kỹ năng ngoại giao của Bắc Kinh. Những lựa chọn chiến lược hiện có đối với Trung Quốc về phương diện tăng cường cấu trúc đồng minh là không nhiều. Hầu hết các nước châu Á đều muốn Mỹ duy trì vai trò cân bằng chủ chốt trong khu vực; những người bạn mà Trung Quốc có được ở những vùng khác trên thế giới không đem lại lợi ích gì cho cuộc đối đầu này. Tuy nhiên, có hai con đường, tuy khó khăn nhưng đầy hứa hẹn, Trung Quốc có thể tiến bước. Một là, Trung Quốc phải giải quyết những tranh chấp lãnh thổ còn tồn tại với các nước láng giềng, và ủng hộ cơ chế an ninh tập thể trong khu vực, một khi thực hiện, có thể làm vơi đi nỗi lo của các quốc gia láng giềng, giảm bớt căng thẳng đối đầu Mỹ – Trung, làm triệt tiêu nhu cầu cần có đồng minh của Trung Quốc. Hai là, Trung Quốc cần dân chủ hóa hệ thống chính trị của mình, bước đi này sẽ loại bỏ triệt để những nguy cơ của một cuộc xung đột chính thức Mỹ-Trung, giúp Trung Quốc có được “bạn bè khắp nơi trên thế giới”. Bước đầu tiên có thể trong khả năng của Trung Quốc, dù quá ít và quá trễ – và phải kiên trì, đừng nôn nóng với bước đi thứ hai.

Tác giả: Ông Minxin Pei là giáo sư môn chính phủ học tại trường Claremont McKenna College (CA-USA).

Minxin Pei
Nguyễn Tâm dịch

Wednesday, March 28, 2012

VN-BD


Nam Phương hoàng hậu
và các thứ phi của cựu hoàng Bảo Đại

1* Nam Phương Hoàng Hậu

Người thiếu nữ Gò Công sắc nước hương trời, đức hạnh vẹn toàn, được xem là “mẫu nghi thiên hạ”, tưởng đâu cuộc đời hạnh phúc, nhưng số phận hẩm hiu, phải sống cô đơn sầu muộn và chấm dứt cuộc đời nơi đất khách quê người, trong buồn thảm. Bà hoàng sầu muộn đó chính là Nam Phương Hoàng Hậu.(Nam Phương Hoàng Hậu trong triều phục, 1934.)

Bà là vợ của Hoàng Đế Bảo Đại, hoàng hậu duy nhất của nhà Nguyễn được phong chức hoàng hậu khi còn sống, và cũng là hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam.

1.1. Xuất thân

Bà tên là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 4-12-1914 tại Gò Công, xuất thân từ một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất Nam Kỳ thời bấy giờ. Tên thánh là Marie Thérèse (Maria Têrêsa), quốc tịch Pháp tên Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan.

Con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại ông Lê Phát Đạt (Huyện Sỹ), là một trong 4 người giàu nhất Việt Nam đầu thế kỷ 20. Miền Nam có câu: “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định”.

Nguyễn Hữu Hào có hai người con gái, Nguyễn Hữu Thị Lan và người chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào, lấy chồng sớm là Bá tước Didelot, làm công chức cho Tây.

Qua những tấm hình đăng trên tờ Indochine, thì hai chị em đều cao lớn, hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam khác.

Năm 1926, 12 tuổi, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sang pháp học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng tại Paris, do các nữ tu điều hành.

Tháng 9 năm 1932, sau khi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên chiếc tàu d’Artagnan của hảng Messagerie Maritime. Bảo Đại cũng về nước trên chiếc tàu đó để lên ngôi vua, nhưng hai người không gặp nhau.(Tem in hình Nam Phương Hoàng Hậu )

1.2. Cuộc tình với Bảo Đại

Gần một năm sau, khi Hoàng Đế Bảo Đại lên nghỉ mát ở Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace, do Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier và Thị trưởng Đà Lạt sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Hoàng Đế Bảo Đại gặp mặt nhau.

Về cuộc tình duyên, trong cuốn Con Rồng An Nam, Bảo Đại viết như sau:

“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi gặp mặt nhau trao đổi tâm tình, Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, nàng rất thích thể thao và âm nhạc.

Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam, pha một chút Tây phương, do vậy, tôi đã chọn hai chữ Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các tiên đế của tôi cũng hướng về phụ nữ miền Nam, đã có 7 phụ nữ miền Nam từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế.

Trước kia, đức Thế Tổ Cao Hoàng (Vua Gia Long) được dân miền Nam yểm trợ khôi phục giang sơn, do đó, có sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều và người dân miền Nam”.

Trong cuốn hồi ký, Nam Phương Hoàng Hậu cũng ghi lại:

“Hôm đó, ông Darle, thị trưởng Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phước An của tôi và tôi đến dự tiệc tại Hotel Palace. Tôi không muốn đi, nhưng cậu An năn nỉ và hứa chỉ đến tham dự và vái chào nhà vua xong thì về, nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng. Chỉ trang điểm sơ sài và mặc chiếc áo bằng lụa đen mua từ bên Pháp.

Chúng tôi đến trễ. Bữa tiệc bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi bên ngoài, thì ông Darle trông thấy, chạy đến kéo chúng tôi vào trong nhà. Ông nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được”.

Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành giữa nhà. Ông Darle bước đến bên cạnh nhà vua, nghiêng mình cúi chào, và kính cẩn nói: “Votre Majesté, Monsieur Lê Phước An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse”. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phước An và cháu gái, cô Marie Thérèse).

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux chỉ dạy, nên tôi biết phải làm thế nào để tỏ lòng tôn kính đối với một quân vương, vì thế, tôi không ngần ngại đến
trước mặt hoàng đế, quỳ một gối và cúi đầu sát sàn nhà, cho đến khi bàn tay của cậu tôi kéo dậy. Nhà vua gật đầu chào tôi, thì vừa đúng lúc, tiếng nhạc trổi lên theo nhịp Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy. Rồi chúng tôi bắt đầu trò chuyện.

Về sau, khi đã thành vợ chồng, Ngài cho biết là hôm đó, Ngài rất chú ý đến cách phục sức đơn giản của tôi. Tôi nghĩ rằng, nhà vua chú ý đến tôi, một phần là, tôi là người VN duy nhất biết nói tiếng Pháp và hành lễ đúng cung cách lễ nghi đối với Ngài”.

Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết:

“Lan có vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rủ làm tôi say mê, sang trọng nhưng không kiêu, có nụ cười kín đáo và không e lệ”.

1.3. Gặp trắc trở

Khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:(Hoàng Hậu Nam Phương và các con)

- Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong hoàng hậu chánh cung ngay trong ngày cưới.
- Được giữ nguyên đạo Công giáo. Các con sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.

- Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo

- Phải được Toà thánh Vatican cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.

Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, đã từng 3 lần đoạt giải Hoa Hậu Đông Dương, nhưng bà mang quốc tịch Pháp và đạo Công giáo, vì thế, cuộc hôn nhân gặp phải nhiều phản đối.

Thái Hậu Từ Cung, mẹ Bảo Đại, không bằng lòng. Các quan trong triều, vốn có ác cảm với người Pháp và Thiên Chúa giáo vì đã có những vụ cấm đạo, giết giáo sĩ, giáo dân, hơn nữa, một số quan lại có con gái, muốn cho vào làm dâu nhà Nguyễn.

Vua Bảo Đại nói với thân mẫu, nếu không cưới được Nguyễn Hữu Thị Lan, thì ông ở vậy, không lấy vợ.

Trước Hoàng tộc, nhà vua nói: “Trẩm cưới vợ cho Trẩm, đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và triều đình”.

Tôn Thất Hân làm Viện trưởng Cơ Mật Viện và Thượng thư Bộ Hình.

1.4 Hôn lễ và đăng quang

Ngày 20-3-1934, hôn lễ được tổ chức tại Huế. Khi đó, Bảo Đại 21 tuổi, Nguyễn Hữu Thị Lan 19. Bốn ngày sau, lễ Tấn Phong Hoàng Hậu rất trọng thể ở Điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng hậu tước Nam Phương Hoàng Hậu.

Việc phong hoàng hậu là một biệt lệ, vì 12 đời vua trước, các bà vợ chỉ được phong Vương Phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng Hậu.

Bảo Đại giải thích hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì của hoàng hậu mới là Nam Phương, có nghĩa là “Hương thơm của miền Nam” (Parfume du Sud) và tôi đã ra một chỉ dụ, đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng, là màu dành riêng cho Hoàng đế”. (Có câu “Lưu phương bách thế” là tiếng thơm lưu truyền muôn thuở. Hoặc “Ngàn năm lưu xú diệt lưu phương” là tiếng xấu làm mất tiếng thơm ngàn năm).

Đêm 1-4-1936, người dân Huế nghe những tiếng súng đại bác báo tin mừng Hoàng hậu hạ sinh, và tờ mờ sáng, thì nghe 7 tiếng súng thần công nổ rền, báo tin mừng là một hoàng tử. (9 tiếng đại bác, là công chúa). Đó là Đông Cung Thái Tử Bảo Long.

Bảo Đại rất thương yêu vợ. Ông thường tự lái xe đưa Hoàng hậu thăm viếng những danh lam thắng cảnh của đất nước, có lần lái xe đến tận Nam Vang (Phnom Penh).

Nam Phương giúp nhà vua trong những buổi tiếp đón những phái đoàn ngoại giao, mà trước kia chưa có hoàng hậu nào tham dự như tiếp Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Norodom Sihanouk của Campuchia và Quốc Vương Lào Soupha Vangvong.

Bà cũng đem lại hoà khí giữa những chức sắc đạo Thiên Chúa với Hoàng triều nhà Nguyễn.

1.5. Cuộc sống lưu vong

Năm 1945, Hoàng Đế thoái vị, làm một thường dân.

Năm 1947, Hoàng hậu rời VN bắt đầu cuộc sống lưu vong. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại một làng cổ tên Chabrignac, tỉnh Corrèze, Pháp.

Khu trang trại có rừng bao quanh, toà nhà gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Cựu hoàng có đến thăm bà vài ba lần.(Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương năm 1953)

Dân làng Chabrignac kể rằng, Nam Phương giàu có nhưng thiếu hạnh phúc, buồn nản về tình cảm nên sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Những ngày vui ngắn ngủi trong mùa hè, khi các con về thăm rồi lại đi.

1.6. Trút hơi thở cuối cùng

Ngày 14-9-1963, khi từ quận Brive kế bên về nhà, bà kêu đau cổ họng. Hôm sau bác sĩ đến, cho là viêm cổ họng thông thường, kê toa mua thuốc rồi ra về. Bác sĩ không biết rằng bà có bịnh lao hạch trước kia. Vài giờ sau, bà kêu khó thở. Quản gia gọi điện thoại đến xã Jouillac kế bên, rồi gọi đến thị trấn Pompadour cách đó 10 cây số, khi bác sĩ đến thì đã quá trễ. Bà đã chết vì nghẹt thở ở tuổi 49. Ngoài người giúp việc và ông quản gia ra, không có ai khác cả. Các con đi làm hoặc đi học ở Paris.

Đám tang ảm đạm cũng như cuộc đời sầu muộn của bà. Được tổ chức sơ sài, lặng lẽ, không một lời ai điếu. Ngoài 2 hoàng tử và 3 công chúa đi bên cạnh quan tài, không có bà con nào cả. Về phía chính quyền, có hai thị trưởng Brive La Gaillarde và Chabrignac.

1.7. Ngôi mộ

Nơi an nghỉ của bà là khu mộ của gia đình Bá tước De La Besse, vì thế, hôm đưa tang, người chủ đất là bà Bá tước đến thăm. Bà Bá tước chính là công chúa Như Lý, con gái vua Hàm Nghi, mà dân Pháp gọi bà là công chúa An Nam (Princesse d’Annam), thuộc vai vế hàng cô (tante) của Bảo Đại.(Ngôi mộ Nam Phương Hoàng Hậu)

Kể lại chuyện nầy, công chúa Như Lý nói: “Ở gần nhau suốt 5 năm mà không biết nhau, đến khi người cháu Nam Phương qua đời mới biết, thật là đáng tiếc.”

Ngôi mộ của bà thấp lè tè, nằm khiêm nhường và kín đáo bên cạnh những ngôi mộ to lớn ở đó. Trên mộ bia, ghi rõ tên và phẩm tước bằng chữ Pháp: “Nơi đây, an nghỉ của Hoàng hậu nước An Nam, tên là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan”. (ICI, REPOSE L’IMPÉRATRICE D’ANNAM, NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN)

Phía sau có khắc dòng chữ Hán, đọc từ trên xuống “Đại Nam, Nam Phương Hoàng Hậu Chi Mộ”.

Người ta đồn, thi hài được chôn theo nhiều nữ trang quý báu như kiềng cổ, một xuyến nạm ngọc lam…

Ngôi mộ bị đào 3 lần, hai lần có mục đích trộm cắp và một lần vì lý do chính trị. Đó là ngày kỷ niệm Pháp thất trận Điện Biên Phủ, cho nên người Pháp không ưa người Việt Nam và không biệt bất cứ người Việt nào.

Hiện nay, bia đã sứt cạnh, dáng vẻ điêu tàn, vì người giữ nghĩa trang ngày càng già yếu, không còn đi lại chăm sóc mồ mả ở đó chu đáo được nữa.

Hàng năm, vào dịp Thanh Minh, công chúa Phương Liên, con gái thứ hai, sống ở Bordeau, mang hoa tươi đến trồng trên mộ.

Theo dân làng Chabrignac, thì Bảo Đại chưa một lần nào đến viếng mộ cả, ngay trong ngày tang lễ cũng vắng bóng ông, đó là lý do khiến cho các con ngày càng xa lánh ông. Người bạc tình.

2* Thứ phi Mộng Điệp

Bà Bùi Mộng Điệp sinh năm 1924, người Bắc Ninh, xuất thân từ một gia đình bình thường, người cha làm việc trong ngành đường sắt..(Mộng Điệp)

Mộng Điệp có một sắc đẹp mà người ái mộ cho là “nghiêng nước nghiêng thành”. Năm 17 tuổi đã lọt vào mắt xanh của một bác sĩ tiếng tăm ở Hà Nội, Phạm Văn Phán. Kết cuộc mối tình là một đứa con trai tên Jean. Hai người chia tay, vì bác sĩ Phán đã có vợ, và là người Công giáo, nên không thể có hai vợ.

Tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền. Bảo Đại thoái vị.

Tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh mời Bảo Đại ra Hà Nội, làm “Cố Vấn Tối Cao cho Chính Phủ Lâm Thời VN”. Trong thời gian ở Hà Nội, ông sống với Mộng Điệp “già nhân nghĩa, non vợ chồng”

Ngày 26-3-1946, cựu hoàng tham dự phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà sang Trùng Khánh viếng thăm nước Trung Hoa, ông không về nước mà đến Côn Minh, rồi sang Hồng Kông. Trong khi đó, ở VN, bà Mộng Điệp sinh đứa con gái.

Khi Pháp trở lại chiếm Hà Nội, chúng bắt Bùi Mộng Điệp vì nghi ngờ làm gián điệp cho Việt Minh, mục đích cầm chân Bảo Đại ở lại với VM. Từ Hồng Kông, Bảo Đại viết thơ phản đối, và Mộng Điệp được thả ra.

Năm 1949, Bảo Đại về nước làm Quốc Trưởng. Mộng Điệp được đón về và phong làm Thứ Phi.

Mộng Điệp theo đạo Phật, thông thạo nghi lễ, chăm lo thờ phượng tổ tiên, và rất khôn khéo, biết chiều chuộng Thái hậu Từ Cung (mẹ Bảo Đại) và các thành viên trong Hoàng tộc nên được mọi người quý mến.

Nam Phương Hoàng Hậu là người Công giáo, tính tình thẳng thắng nên đôi khi xung đột với Thái Hậu.

Trong khi Nam Phương Hoàng Hậu ở Pháp, thì Thái hậu ban áo mảo, để bà thay Nam Phương trong việc tế lễ.

Sau năm 1949, Mộng Điệp luôn luôn bên cạnh Bảo Đại ở Đà Lạt rồi đến Ban Mê Thuột. Bà giúp cựu hoàng trông nom văn phòng Hoàng Triều Cương Thổ, tức là vùng Cao nguyên Trung Phần, mà Pháp trả lại cho Bảo Đại trực tiếp quản lý. Hoàng Triều Cương Thổ là một thể chế hành chánh đặc biệt thuộc về Hoàng gia.

Mộng Điệp đảm đang, tháo vát. Có lần Bảo Đại đi săn bị lạc trong rừng, bà cởi voi đi tìm. Bà nuôi một đàn voi 40 con để phục vụ cho việc đi săn của cựu hoàng. Bà cũng biết lái xe ôtô.

Mộng Điệp gọi một nhà thầu trong Hoàng tộc là Tôn Thất Hối, xây ngôi biệt điện cách Ban Mê Thuột 50 cây số, để cho Bảo Đại nghỉ ngơi và tiện việc đi săn.

Thừa lịnh Thái hậu, bà cho xây ngôi chùa Khải Đoan, là 2 chữ ghép từ Khải Định và Đoan Huy Thái Hậu Từ Cung. Bà cũng quản đốc việc xây phi trường Ban Mê Thuột (BMT) để tiện lợi cho việc di chuyển từ BMT đến Hà Nội, Huế, Đà Lạt, Nha Trang và Sài Gòn.

2.1. Cuộc sống lưu vong của Thứ Phi Mộng Điệp

Năm 1953, bà Mộng Điệp mang ấn, kiếm và 600 món báu vật sang Pháp trao cho Nam Phương Hoàng Hậu. Quốc ấn và Quốc kiếm là 2 báu vật tượng trưng cho vương quyền nhà Nguyễn.

Ở Paris, bà sống tự lập, mà không nhờ đến trợ cấp của chính phủ Pháp. Bà làm việc vất vả đủ nghề để nuôi con ăn học. Bà thành công trong nghề mua bán bất động sản và trở nên giàu có, mua nhà cũ giá rẻ, thuê kiến trúc sư nổi tiếng như ông Lê Phổ, trang trí nội thất rồi bán lại cho người giàu. Chỉ sau vài năm trở nên giàu có thật sự, cho con ăn học thành tài.

Kể từ khi qua Pháp, cũng giống như Nam Phương Hoàng Hậu, bà Mộng Điệp không có liên lạc với cựu hoàng.

Bà có ba người con với Bảo Đại:

1. Hoàng nữ Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh 1946
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955)
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987)

Bảo Sơn học hành xuất sắc, đổ tiến sĩ ngành kỹ thuật chế tạo tại một trường kỹ thuật nổi tiếng của nước Pháp. Bà rất hảnh diện về người con nầy.

Năm 1987, Bảo Sơn lái máy bay đi tắm biển, bị sóng đánh, đập đầu vào đá, thiệt mạng ở tuổi 30. Bà rất đau buồn và lui vào cuộc sống ẩn dật ở số nhà 24 Đại lộ Rueilly, quận 12, Paris.

Học giả Trần Trọng Kim khen ngợi bà: “Bà Bùi Mộng Điệp là người biết đường khinh, trọng, biết lời phải chăng”.

2.2. Bà Mộng Điệp qua đời

Ngày 26-6-2011, sau ca giải phẩu tim không thành công, bà Mộng Điệp qua đời tại bịnh viện Saint Antoine vào lúc 12 giờ trưa chủ nhật cùng ngày. Thọ 87 tuổi.

2.3. Hai báu vật của nhà Nguyễn

Hai báu vật thiêng liêng, biểu tượng cho vương quyền nhà Nguyễn, đã qua một cuộc hành trình khá li kì. Đó là chiếc Quốc ấn (con dấu) bằng vàng và thanh Quốc kiếm có vỏ nạm ngọc.

Ngày 30-8-1945, trong buổi lễ Thoái Vị tại Huế, Hoàng Đế Bảo Đại đã trao hai báu vật tượng trưng cho vương quyền nhà Nguyễn cho trưởng phái đoàn của Chính Phủ Lâm Thời là Trần Huy Liệu, mang về Hà Nội để báo cáo cho chính phủ và trình diện trước quốc dân trong ngày Tuyên bố Độc Lập tại Công trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Chiếc ấn bằng vàng ròng, nặng 10 kí lô, lưỡi kiếm bị rỉ sét.

Thế rồi, Pháp trở lại Hà Nội, chiến tranh nổ ra. Hai báu vật nầy tình cờ lọt vào tay người Pháp, khi nó được cất giấu trong một cái thùng dầu lửa bằng sắt tây. Đó là, năm 1951, trong khi đào móng để sửa chữa một ngôi nhà ở Hà Đông, lính Pháp tình cờ tìm thấy hai báu vật nầy.

Cựu hoàng Bảo Đại đang ở Pháp, yêu cầu trả lại hai báu vật đó cho người đại diện của ông là Thứ Phi Mộng Điệp với sự chứng kiến của Thái hậu Từ Cung.

Năm 1953, Mộng Điệp mang ấn, kiếm và 600 món báu vật qua Pháp, bà không trao cho Bảo Đại, mà giao cho Nam Phương Hoàng Hậu để Bảo Long cất giữ sau nầy. Nam Phương căn dặn Bảo Long: “Đừng bao giờ tách hai vật thiêng liêng nầy ra hai nơi”.

Kiện ra toà

Khi Bảo Đại viết xong quyển Con Rồng An Nam, muốn mượn con dấu đóng lên đó làm tăng thêm giá trị của quyển sách, nhưng Bảo Long không cho, lấy lý do là làm theo lời căn dặn của mẫu hậu. Vì thế, có tranh chấp. Kiện ra toà. Toà xử Bảo Đại giữ chiếc ấn, Bảo Long có quyền giữ thanh kiếm. Tình cảm cha con sức mẻ. Đến nay, không biết hai báu vật nầy ở đâu.

3* Bà Monique Baudot

Ngoài hai người vợ được xem như chính thức là Nam Phương Hoàng Hậu và Thứ Phi Mộng Điệp, một người vợ chính thức của Bảo Đại khi ông 65 tuổi ở Pháp, là bà đầm Monique Baudot.

Tên đầy đủ là Monique Marie Eugene Baudot, sinh năm 1946, nhỏ hơn ông 33 tuổi.(Monique Baudot)

Lễ thành hôn ngày 18-1-1983 tại quận 16, Paris. Trước kia, hồi năm 1969, bà Monique Baudot làm việc tại Phòng Báo chí của toà Đại sứ nước Zair tại Paris. Bà Monique như là một người bạn, mà những người không ưa bà gọi bà là thư ký riêng, một quản gia hay một người hầu phòng của cựu hoàng Bảo Đại.

Bà Monique kể lại: “Khi tôi đang làm Lãnh sự Danh Dự của nước Cộng Hoà Zair, Trung Phi, thì tôi nghe nói cựu hoàng An Nam đang sống độc thân trong cơn túng bấn, gần như bị bỏ rơi”. Thế rồi bà đến với ông. Sau khi cưới, với tư cách là vợ chính thức của cựu hoàng, bà tự nhận là Quận chúa Monica và tự xưng tước vị là Thái Phương Hoàng Hậu.Có hôn thú nhưng không có con.

4* Những người tình của Bảo Đại

4.1. Lý Lệ Hà

Ở vào thời điểm 1936, 1938, khu phố Khâm Thiên Hà Nội có 6 vũ trường và ở đường Bà Triệu có vũ trường Liszt nổi tiếng nhất, vì có một vũ nữ hoa khôi, với những điệu nhảy lả lơi, nóng bỏng. Đó là Lý Lệ Hà và cũng là người tình của Bảo Đại.

Vào năm 1930, cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức tại Hà Đông. Những cô gái tham dự không phân biệt tuổi tác, nhưng với điều kiện là phải mặc áo lụa Hà Đông.

Lý Lệ Hà là một cô gái nông thôn nghèo ở Thái Bình đoạt giải hoa hậu. Từ đó, cô là người đẹp nổi tiếng được các công tử con nhà giàu ngưỡng mộ, nhưng không có ai vói tới cả, vì cô là người tình của Bảo Đại trong thời gian ông sống ở Hà Nội, làm Cố Vấn Tối Cao của Chính Phủ Lâm Thời VN, cũng là thời kỳ ông sống với Mộng Điệp còn bà Nam Phương đang ở Huế.

Hoa hậu Lý Lệ Hà có hàm răng rất đẹp, như những hạt ngọc. Người đẹp mặc áo lụa Hà Đông là nguồn cảm hứng để nhà thơ Nguyên Sa sáng tác bài thơ và được người nhạc sĩ trẻ tài hoa Ngô Thuỵ Miên phổ thơ thành nhạc, Áo Lụa Hà Đông.

Bà Lý Lệ Hà sang Pháp, sống tại một làng ngoại thành Paris trong một khu quân nhân. Ở tuổi 81, bà vẫn còn đam mê chuyện tranh cử. Chồng người Pháp làm chính trị, đang nhắm vào một trong những chiếc ghế lãnh đạo thành phố. Bà chưa gặp lại cựu hoàng kể từ khi đến Pháp 30 năm về trước.

4.2. Lê Thị Phi Ánh

Bà Phi Ánh con nhà lành, giàu có, thuộc dòng họ danh giá, bà là em vợ của Phan Văn Giáo sau làm Thủ hiến Trung Phần. Cũng là một tuyệt sắc giai nhân nên được Bảo Đại yêu thương, tặng một biệt thự sang trọng. Bà có 2 con với Bảo Đại, một gái, một trai.(Lê Thị Phi Ánh)Sau khi chiến tranh VN kết thúc, bà Phi Ánh ở lại VN và chết trong cô đơn tại Sài Gòn. Con gái là Phương Minh, lấy chồng Pháp và sang lập nghiệp ở Hoa Kỳ.

4.3. Cô gái Trung Hoa Hoàng Tiểu Lan

Năm 1946, khi sống ở Trung Hoa, Bảo Đại thương yêu một cô gái Tàu lai Tây, tên Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong) và đã có với cô một đứa con gái.(Hoàng Tiểu Lan)

4.4. Bà đầm Vicky

Ở Pháp, thời kỳ tinh thần cựu hoàng suy sụp nhất là phải rời khỏi vùng Alsace, bỏ lại tài sản, nhà cửa cho người vợ hờ người Pháp tên Vicky, sau mấy năm chung sống và có một đứa con gái tên Nguyễn Phúc Phương Từ.

5* Tang lễ cụu hoàng Bảo Đại

Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua sống lâu nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời vào lúc 5 giờ sáng ngày 31-7-1997 tại quân y viện Val-de-Grâce, hưởng thọ 85 tuổi. Chết vì bị ứ nước trong màng phổi, xuất huyết thận và ung thư tụy tạng.

Tang lễ được tổ chức lặng lẽ hồi 11 giờ ngày 6-8-1997 tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot, quận 16, Paris. Ông đã rửa tội, theo đạo Thiên Chúa.

Chính phủ Pháp cử một sĩ quan mang quốc kỳ Pháp và một tiểu đội binh sĩ quân phục trắng, ngù đỏ trên hai vai, ngực đeo huy chương, bồng súng đi hai bên linh cửu. Cựu hoàng được an táng tại nghĩa trang Passy trên đồi Trocadero.

Vua Bảo Đại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con.

5.1. Vợ và tình nhân
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Điệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Vũ nữ, không hôn thú, không con
4. Hoàng Tiểu Lan. Vũ nữ, không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con
6. Vicky (Pháp) Không hôn thú, 1 con gái
7. Clément. Vũ nữ. Không hôn thú
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.

5.2. Những người con của Bảo Đại
I. Với Nam Phương Hoàng Hậu
1. Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936 - 28-7-2007)
2. Công chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937)
3. Công chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938)
4. Công chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942)
5. Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Thắng (9-12-1943)

II. Với Thứ Phi Mộng Điệp
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946)
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954 – 1955)
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn ( 1957 – 1987)

III. Với Hoàng Tiểu Lan
1. Nguyễn Phúc Phương Ân

IV. Với Lê Thị Phi Ánh
1. Nguyễn Phúc Phương Minh
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân

V. Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ.

Ba lãnh tụ Việt Nam, về gái, thì cả Bảo Đại và Hồ Chí Minh đều thua Tổng thống Ngô Đình Diệm, một trời, một vực. Bảo Đại thì chơi công khai, chấp nhận tiếng đời thị phi, trái lại, Hồ Chí Minh thì chơi cú tiêu lòn, chơi chui, thế mà khuyên thanh niên: “Các cháu bắt chước bác cái gì cũng tốt, chỉ trừ việc hút thuốc và không lập gia đình”. Bảo Đại thì mê hoa hậu, trái lại, "bác" thì chỉ thích con gái sắc tộc thiểu số mang hương vị rừng núi của miền Thượng du.

Bảo Đại hận Hồ Chí Minh đã cho báo chí chiến khu kết án ông là phản quốc. Toà án quân sự Liên Khu 3 đã lên án tử hình vắng mặt năm 1949. Rồi chính quyền Ngô Đình Diệm đã truất phế ông, tịch thu tài sản và nhục mạ ông.

Tài sản khổng lồ, địa vị, danh dự bị mất tất cả. Những năm cuối đời, sống nhờ trợ cấp xã hội của chính phủ Pháp. Đau khổ nhất là vợ con đều xa lánh.

6* Kết

Nam Phương Hoàng Hậu có 12 năm sống tràn đầy hạnh phúc, 16 năm sống cô đơn trong cuộc đời lưu vong nơi đất Pháp. Buồn nhiều hơn vui.

Hoàng hậu tan nát cõi lòng với mặc cảm bị bỉ rơi, tủi phận, đau đớn xót xa.

Bà cũng nặng lòng với dân tộc. Khi Pháp trở lại tái chiếm thuộc địa VN, Bảo Đại đã thoái vị, mặc dù mang quốc tịch Pháp, nhưng bà Nam Phương đã gởi một thông điệp cho các bạn bè châu Á, yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp. Bà viết: “Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ VN, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi, của VN hãy binh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do can thiệp, để kiến tạo một nền hoà bình chân chính cho VN. Xin quý vị nhận tấm lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào Việt Nam chúng tôi”.

Bà Nam Phương được gọi là viên kim cương cuối cùng của nhà Nguyễn.

Trúc Giang
Minnesota ngày 26-1-2012

Tuesday, March 27, 2012

YT-VN


MẤY LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA

(Bài nói chuyện của Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm,do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày 29-6-1968 Tại Trung Tâm Y Khoa-Đại Học SAIGON)

Các bạn sinh viên thân mến,

Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là một nghề cao đẹp nhất, và chính để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện hôm nay một buổi nói chuyện thân mật giữa một người thày thuốc-đã hành nghề trên 30 năm-với những người thày thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế hệ nay đã được coi như thuộc về một gia đình-đại gia đình y giới- và riêng về điểm đó, ngay từ bây giờ, các bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự do khác.

Các bạn thân mến,

Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất cả một tấm lòng nhiệt hứng, hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy ai chịu tìm hiểu những lý do thúc đẩy mình vào con đường ấy?

Có một số bạn trẻ chọn nghề này, coi như một lẽ đương nhiên để nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc.

Có một số, vì ham thích và cũng như mọi ham thích, khó lòng mà giải thích được tại sao. có thể vì hồi nhỏ ốm đau, đã được người thày thuốc tận tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh thập tử nhất sinh mà được bàn tay người bác sĩ cứu sống.

Đối với một số nữa-rất hiếm- có lẽ làm nghề thuốc vì đó là một thiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng bác sĩ để hành nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà khảo cứu, một vị bác học hoặc một giáo sư đại học.

Thiên chức theo định nghĩa, là một tiếng nói tự đáy lòng phát ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó, Giáo sư Maranon bảo là: ”một loại đam mê có tính chất của tình thương, kẻ nào có một thiên chức coi vật mình yêu như một mụa đích độc hữu, không thể chia xẻ được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt đối không vụ lợi” và vẫn theo lời Maranon “sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì thanh niên, khi chọn nghề đó không phải vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy vọng có một địa vị cao sang”.

Người ta đã điều tra một số sinh viên y khoa để biết tại sao họ chọn nghề thuốc: trong số 100 sinh viên có tới 70 người trả lời: Không biết. Còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những thỏa mản tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh giá lại kiếm được nhiều tiền

Tôi biết một số thanh niên sau khi đậu xong Tú Tài lưỡng lự không biết chọn ngành nào ở Đại Học bèn chọn đại Y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân thuộc-những người này không phải là thày thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm là: nhà lầuxe hơi tiền bạc…. Những người đó xem nghề thuốc như nghề đi buôn và cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn bổn phận của mình những gì, trách nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?Đối với hạng người này tôi xin nhắc lại ở đây câu nói của P. Le Gendre”

“Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào chúng ta có một tinh thần vị tha, hỉ xả. ”

Các bạn thân mến,

Khi các bạn chọn nghề này, dĩ nhiên là để sinh sống, để nuôi gia đình, để hưởng một đời sống sung túc. tuy nhiên chúng ta không được quan niệm nghề thuốc như một nghề để làm tiền, vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được.

Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn có một lý do nào khác nữa nó thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không dám dùng những danh từ quá to tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói; sở dĩ làm nghề thuốc là để mong xoa dịu được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn giúp ích cụ thể cho xã hội.

Có bạn học thuốc, như trên vừa nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, những biết những kỳ quan của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những gì, tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia tắc, rồi ngưng chạy…

Đối với sinh viên y khoa, còn gì vui sướng và hồi hộp bằng lần đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ lên ngực bệnh nhân mà đã đoán được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc kim chọc vào phổi thì quả nhiên thấy có nước thật.

Không những học để biết mà còn để phụng sự nữa. Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian vật lộn với tử thần người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me đứa con thân yêu của bà.

Người ta muốn phê bình sao thì phê bình, một người thày thuốc sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra tiền” chẳng hạn, nhưng tôi dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có những động cơ nào khác nó thúc đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc. Họ không thể không băn khăn lo lắng mỗi khi rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng của một người cha, cột trụ của cả một gia đình, hoặc tính mạng của một người mẹ với đàn con thơ dại đang cần có người săn sócdạy dỗ, hoặc tính mạng của một đứa hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết yểu…

Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh người thày thuốc trong bửa ăn giấc ngủ của họ.

Người thày thuốc không thể không có những suy tư sau khi ngồi bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của thân chủ mình, rồi cố tìm một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu được phần nào những nỗi khổ đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của một lương tâm đang bị cắn rứt….

Người thày thuốc không những chỉ đem lại cho ta sức khỏe, họ giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta nhắm mắt cho yên nữa.

Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những khi thất bại ?

Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ của người thày thuốc, dù ham tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản phụ, những mong cứu sống được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người, nhưng rút cuộc không cứu nỗi ai hết. Và trong khi người thày thuốc ấy, khác nào một kẻ bại trận, rửa tay-hai bàn tay đẩm máu và rung lẩy bẩy- thu xếp đồ dùng cho vào cặp rồi lủi thủi ra về, mặt mũi phờ phạ, đầu chóang mắt hoa, có những con mắt ngấn lệ, đầy đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không lên án họ. ? Ôi, VINH NHỤC của nghề thuốc!

Người ta muốn phê bình người thày thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không có một niềm tin, một tia hi vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm lại, thế nào họ cũng phải có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm ra căn bệnh. Một niềm vui khi phụng sự và thành công.

Duhamel đã nói”Không có nghề nào cao đẹp và buồn bằng nghề thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm tinh thần, nhưng chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh thần, nó làm cho nghề chúng ta cao đẹp. ”

Những trách nhiệm của người thày thuốc ở vào thời đại này rất nặng nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau, ngoài sức tưởng tượng của con người, ” đã làm cho chúng ta trở thành những bậc THẦN THÁNH trước khi chúng ta xứng đáng làm người”(Jean Rostand)

Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn chục, y học đã tiến triển và khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn chặng đường đã qua, chúng ta không thể không giật mình kinh ngạc.

Giáo sư Jean Bernard đã viết không phải là quá đáng:

‘”Một người thày thuốc ở thời tiền chiến, vắng mặt sau một thời gian 30 năm và nay trở vềsẽ bở ngở không khác gì một bạn đồng nghiệp của ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày thế chiến thứ hai”

Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu sinh, không được quên ơn các bậc tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra cũng nhớ đến tên tuổi những vị đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin, Fleming …vv.

Nói về ngoại khoacách đây trên 40 năm một danh y về khoa giải phẫu, giáo sư J. L Faure trong bài diễn văn khai mạc một cuộc hội nghị quốc tế đã nói:

“Ngày nay khoa giải phẫu đã lên tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó lòng mà tiến hơn nữa”

Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai dám tự hào mình là một nhà tiên tri, và ngày nay -1968- chúng ta có thể lập lại câu nói và biết đâu trong vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa.

Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ) mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện mới. Nhất là sau cuộc cách mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của phần nhiều bệnh là vi trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của Lister, nhất là phương pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì giải phẫu giảm đi rất nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu vào trong cơ thể, nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương, …vvv

Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất mau, mặc dầu kỹ thuật giải phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải phẫu do những xáo trộn trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý (desordres biologiques) gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu( maladie post-operatoire) Bệnh này được nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp hồi sinh (reanimation) một phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở ngoại khoa mà còn ở nội khoa nữa.

Một trong những kỹ thuật kỳ lạ nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và nhờ phương pháp này, người ta có thể giải phẫu tim được.

Một đàng, nhờ có phương pháp hồi sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ có thuốc trụ sinh-mỗi ngày một nhiều-nhờ có thuốc ngăn đông huyết (anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả máu nữa, mà khoa giải phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai dám nghĩ tới như là mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần kinh (sympathique) hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận …vv. Mới đây các bạn còn nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và khiến mọi người phải kinh ngạc và thán phục vô cùng.

Bên cạnh những thành công rực rở đó nội khoa cũng phát triển rất nhanh.

Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh vào cuối thế chiến thứ hai, nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai…. đã bị đẩy lui.

Nhờ có Penicilllin-do Fleming tìm ra- nhiều loại vi trùng như: pneumocoque, streptocoque, méningocoque. đã bị tiêu diệt và nhiều bệnh phổi, bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được, cũng như bệnh đau tim do vi trùng streptocoque viridans-còn gọi là bệnh Osler- mà xưa kia y học đã phải bó tay.

Còn nhiều trụ sinh khác cũng được khám phá và đáng kể nhất là streptomycine-do Waksman tìm ra năm 1943- rất công hiệu để trị bệnh lao, một trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh nguy hiểm này đã bị đánh bại.

Ngoài trụ sinh ra, người ta còn tìm ra được nhiều loại thuốc hóa học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông dụng từ năm 1952 để chữa bệnh lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc khác như Chlopromazine (largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc này và những thuốc mới như resepine, tại các dưỡng đường điều trị người điên, loạn óc, ta không còn chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân không còn bị đối xử như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong chuồng sắt, chân tay bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh viên.

Chúng ta cũng thể quên được những khám phá quan trọng trong ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và nên biết rằng ngày nay, nhờ có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều bệnh như bệnh tê liệt (poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh cúm(grippe) bệnh sởi (rougeole). . vv

Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm như bệnh tả (choléra) bệnh dịch hạch (pest) bệnh cùi (hủi) bệnh hoàng đản (fièvre jaune) không còn là mối lo cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh như bệnh ngủ (maladie du sommeil) ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét cơn.

Các bạn thân mến,

Tôi không thể kê khai hết ở đây tất cả những phát minh khác của y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích thích tố( đặc biệt là cortisone, A. C. T. H ) hoặc nói đến những phương pháp tối tân để định bệnh bằng quang tuyến, bằng isotope. . vv mà chỉ nhấn mạnh tới những khám phá quan trọng trên lãnh vực trị liệu thôi.

Đời sống trung bình của con người cách đây hai thế kỷ là 35 năm, nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm nữa số người thọ 100 tuổi là thường.

Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan và yên trí rằng bất cứ bệnh nào cũng có thể trị được dù y học tiến bộ mấy đi nữa, hiện nay vẫn còn có một số bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai động mạch(arterio-sclerose), bệnh ung thư máu (leucemie)…Còn đối với những bệnh ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus neurotrope) chúng ta vẫn còn …. . bất lực.

Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc để cho ta khỏi già. Không những đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy hiểm và những bệnh do chính thuốc gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư Michel Conte đã nói:

Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bi kịch mà chúng ta không phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào trong một cơn gió lốc, và chúng ta phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những thứ thuốc mới, và cái đó không phải là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của người thày thuốc lại mạnh đến thế, nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng túng đến thế.

Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể tạo ra nhiều bệnh nặng do vi trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm(mycose) hoặc làm cho máu biến đổi.

Một vài loại sulfamide có thể gây ra bệnh ngoài da chết người được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và xuất huyết, dùng corisone có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho bệnh lao cũ tái phát. Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu thông đã xảy chỉ tại dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm lại.

Người ta cũng nói nhiều về trường hợp các lực sĩ chết vì dùng kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh.

Vẫn hay rằng những thuốc nói trên, trước khi đem ra dúng đã được thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích Penicilllin cho chuột và thấy không độc nên mới chích cho người, cũng như các loại thuốc an thần) nhưng làm sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ không nguy hiểm sẽ không nguy hiểm?Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng chậm, còn những thứ thuốc, thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng công hiệu lại càng nguy hiểm)

Người ta đã từng thí nghiệm thuốc thalidomide trước khi đưa ra thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó lại làm cho các sản phụ sinh ra quái thai. ?

Các bạn thân mến,

Tôi không có ý nêu ra đây những nguy hiểm của thuốc để các bạn sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận trọng mỗi khi các bạn cho toa, nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ có thể xảy ra với bất cứ loại thuốc nào. bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẻ bệnh nhân trước khi biên toa cho họ.

Tôi đã nói với các bạn không có nghề nào có nhiều trách nhiệm bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao quý bằng. Cứu sống một người bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ thuật, làm cho một bệnh nhân đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ đứ con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua khỏi, tất cả những cái đó, đối với một người không ở trong nghề, thật là phi thường và được coi như phép lạ.

Trách nhiệm của người thày thuốc nặng nề ngay từ khi định bệnh cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng của một người nằm trong tay họ.

Trách nhiệm đó làm cho người thày thuốc ngày đêm lo lắng đến quên ăn mất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được sống những giờ phút lo âu hồi hộp đó vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy được tất cả cái cao đẹp của nghề thuốc.

Trousseau, một vị danh sư của Pháp, đã từng khuyên các sinh viên y khoa:

‘”Các bạn có bổn phận làm vẻ vang cho nghề của các bạn, cũng như nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày và đêm của người ốm”

Các bạn nên yên trí rằng các bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui đầm ấm của gia đình và thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả.

Các bạn không được sợ thối tha bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn không được lùi bước trước cái chết khi cái chết đó xảy ra giữa những lúc nguy hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm cho ai nấy khi nhắc đến tên bạn, phải tỏ lòng kính mến. ”

Như tôi vừa nói, y học ngày nay tiến rất nhanh, và muốn trở thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh viên, phải siêng năng học tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ hoặc sai lầm khi cho thuốc (cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không thể tha thứ được. Bởi vậy thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi thêm câu này: Tôi xin thề suốt đời học hỏi Trong thời buổi này, bổn phận đầu tiên của người thày thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi đến chốn, chứ không được biết lờ mờ.

Không nói tất các bạn cũng rõ là những kiến thức của chúng ta ở trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa, chỉ trong vài ba năm, có khi vài tháng, đã trở thành” cũ rích”. vì vậy chúng ta cần phải trau dồi học hỏi luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy nhiệt hứng. Bận rộn mấy các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ hầu theo dõi những tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo cứu được thì càng hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải ông thày thuốc, dù tử tế dù tận tâm, nhưng” gà mờ “khiến tiền mất mà tật vẫn mang.

Người ta thường nói”có học mà không có lương tâm là sự đồi bại của linh hồn” (science sans conscience n’est que ruine de l’âme) nhưng có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy hiểm nữa là khác. “Tài năng và lương tâm chức nghiệp đều có liên hệ mật thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả” (Gosset)

Ngoài việc trau dồi kiến thức y học, người thày thuốc còn phải có một vài đức tính sau đây:

a)Có óc nhận xét, nếu không sẽ bỏ qua những triệu chứng cần thiết để định bệnh.

b) Có lương tri, tức óc phê bình, biết phán đoán, không quá tin ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy những kỹ thuật và thuốc này trái ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể nhầm được). Đừng ham mới chuộng lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các danh sư hoặc các bác sĩ đứng đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có nhiều thứ thuốc hôm nay được ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa giang mai. . ) Bởi vậy trước khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn nhớ tới lời châm ngôn cổ: Primum non nocere (trước hết đừng làm hại).

c) Có kinh nghiệm:

Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải hành nghề lâu năm. Tuy nhiên đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác, các bạn đứng tưởng rằng cứ nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, vì có “những cái mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm chồng chất lên nhau” (Sergent)

Một sinh viên y khoa năm thứ nhất, lần đầu tiên gặp một người mắc bệnh thương hàn lần sau gặp một người sốt liên miên, nom có vẻ mệt mỏi, chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương hàn. Trái lại một sinh viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị giảng sư dù đã từng chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt, không vội vả. Những người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng tài cao lại càng khiêm tốn”khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ vươn đầu lên trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống đất”(Leonard de Vinci )

Ngoài kiến thức về y học ra người thày thuốc còn phải có những đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương.

Làm thày thuốc dù giỏi, dù có lương tâm mà thiếu tình thương thì chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự thôi, và nhất định không thể nào yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng này rồi.

Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn kẻ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh tình nặng nhẹ ra sao, bao giời khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy là chưa đủ. Vì ngoài cái đau đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về, an ủi, bệnh nhân nào dù sang hèn, cũng muốn rằng người thày thuốc kiêm cả một nhà tiên tri nữa, biết hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm bệnh.

Phải chính bản thân mình đã từng bị đau ốm mới biết thế nào là một người thày thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết bao lo ngại, băn khoăn, rồi khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người thày thuốc đều quan trọng đối với người bệnh, và người này chỉ muốn cho ông thày lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình ra, bất kể đêm khuya, bất kể họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi !Lại còn những lời trách móc nếu mời mà đến chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay ngày lễ.

Chính nhờ có sự vững tâm nói trên mà nhiều khi bệnh mau khỏi. Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý, cần phải là một nền y học nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con người, con người toàn diện, con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải tôn trọng con người.

“Nhân bản là cảm thấy trong lòng con người ta trải qua bao thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người thì hoàn toàn và sống trong một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung động trước thiên nhiên, biết rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn sách khi suy ngẫm về những sự huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm, biết yêu, biết thương xót” (Maranon)

Một người ốm, không phải chỉ có phần xác, với tim, gan, phổi, thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon gọi là phần hồn nữa.

Một bệnh nhân thuộc về bất cứ thành phần nào trong xã hội không phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta thường quan niệm ở bệnh viện. Họ không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là một người như chúng ta, một người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có gia đình, có những hoài bão, ước mơ, cảm xúc.

Các bạn nên biết rằng một bệnh nhân khi nằm trên giường bệnh, không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một người bình thường, và buổi đầu thế nào họ cũng có những xúc động lo âu.

Người thày thuốc không phải là một người thợ máy sữa chữa cơ thể như ta sửa một cái máy hư”Đó là một con người cúi xuống một con người khác, mong giúp đở họ, có gì cho nấy, đem lại cho họ một chút khoa học nhưng rõ nhiều tình thương”(Ignacio chavez).

Muốn rằng thày thuốc là một con người máy và người ốm là một con số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý cả. Không nói tất các bạn cũng rõ là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu thuẩn, có lúc sống với những bản năng cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có những hành động thật là cao thượng, siêu nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các nhược điểm đó nên người thày thuốc, mỗi khi gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối xử với mình tệ bạc mà vẫn sẳn lòng tha thứ.

Không có một bộ máy nào dù cho tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến được, và giữa người thày thuốc và con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông, một mối dây liên lạc mật thiết “một cuộc đối thoại kỳ lạ”(une colloque singulier) như Duhamel đã nói, một bên thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng của mình, còn một bên thì cho mà không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm thấy sung sướng vô cùng, và nếu cái học của các bạn không phải là cái học nhân bản thì thật là vô ích và đáng tiếc lắm.

Tóm lại đối với người thày thuốc, xứng đáng với danh từ đó “không có bệnh mà chỉ có con bệnh thôi” (Mondor).

***
Ta thường nghe người ta phê bình ông thày thuốc này tốt, ông kia tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà vì ngoài công việc chữa bệnh ra, người thày thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của thân chủ mình, đến sự học hành của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp đở, nghĩa là làm tất cả những gì có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được hài lòng “ chỉ có người tốt mới có thể thành danh y được (Nothnagel) vì nhiều khi chính nhờ tấm lòng tốt của người thày thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục.

Ngoài tình thương và tấm lòng tốt ra người thày thuốc còn phải tế nhị đối với bệnh nhân nhất là ở bệnh viện.

Các bạn đừng quên rằng người ốm bao giờ cũng có nhiều mặc cảm (mặc cảm tự ti) hay lo lắng và thường để ý tới cử chỉ và lời nói của các bạn.

Các bạn đừng khinh người nghèo khó và nên nhớ rằng trước bệnh tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả.

Ambroise Pare người đã được coi như cha đẻ của khoa giải phẫu, nguyên là ngự y cho vua Chareles IX một hôm nhà vua đau cho vời ông lại và bảo: “Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn những người khác” Ambroise Pare đáp”Tâu bệ hạ hạ thần rất tiếc vì kẻ hạ thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương”

Ngay đến những sa đọa về tinh thần của bệnh nhân các bạn cũng phải tôn trọng.

Các bạn sinh viên thân mến,

Như trên tôi vừa nói, trong nghề thuốc của chúng ta có nhiều buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là những kẻ bội nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm được gì gọi là đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân.
***
Nói tới những bổn phận của các bạn, tôi không thể không đề cập đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret professionnel)

Tuyệt đối người thày thuốc không được tiết lộ cho ai biết căn bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn còn là sinh viên, các bạn không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của con bệnh, hoặc cho biết họ mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của mình mắc bệnh lao hay không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không được tiết lộ những gì bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng hỏi ông Dupuytren để biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong bệnh viện, ông ta đáp: ”Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có những người bị thương thôi”

Các bạn cũng nên biết rằng các bạn có thể bị phạt tù nếu các bạn không kín miệng.

Sau hết các bạn phải có lương tâm chức nghiệp, hay nói một cách vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm. Giáo sư Jean Gosset đã từng nói;”Trong phòng giải phẫu người thày thuốc là chúa tể sau đức Thượng Đế nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình”

Không riêng gì thày thuốc ngoại khoa mà có thể nói một cách tổng quan là không một ai có thể kiểm soát nỗi một bác sĩ ngoại trừ lương tâm của họ.
Sở dĩ ngày nay y học không có một địa vị xứng đáng trong xã hội, sở dĩ người thày thuốc không được trọng vọng, không được kính nể như hồi xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta có một số con chiên ghẻ, thiếu lương tâm chức nghiệp.

Các bạn thân mến,

Nghề thuốc mà các bạn đã lực chọn không giống những nghề khác. Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai đã chọn nghề này cần phài biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình.

Nếu các bạn không muốn sống khắc khổ, không sẳn sàng hi sinh tốt hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ bây giờ cũng chưa muộn. Không thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các bạn danh giá tiền bạc lại không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.

Có người, nhiều người lắmtưởng rằng nghề thuốc cũng như nghề đi buôn. Kỳ thực, giữa nghề đi buôn và những nghề tự do, trong đó có nghề thuốc, có một hố sâu không sao lấp được.

Mục đích nghề đi buôn là mua rồi bán để lấy lời. Giá hàng cao hay hạ là tùy thuộc ở món hàng tốt hay xấu, bền hay không bền.

Trái lại mục đích chính của nghề tự do không phải là tiền tài hay lợi lộc. Người thày thuốc khi săn sóc một người ốm, cũng như một giáo sư khi giảng bài cho học sinh, sinh viên, đều cố gắng hết sức mình chứ đâu có nghĩ tới tiền thù lao, lương lậu ?
Người đi buôn có quyền làm quảng cáo rùm beng, hoặc trên báo, hoặc trên đài phát thanh, trên đài truyền hình để “câu khách”, hoặc nhờ người dắt mối rồi cho họ ăn hoa hồng.

Người đi buôn có thể rao ầm ỉ để mọi người biết là hàng của họ đep, bền, rè nhất thế giới chẳng hạn mà không sợ ai chê cười. Trái lại, người thày thuốc, biết tự trọng, có liêm sĩ, không được phép làm như vậy. Không những Y sĩ đoàn, Nghĩa vụ luận không cho phép mà chính lương tâm của họ cũng không cho phép.

“Người ốm không phải là một món hàng và chúng ta cũng thế, chúng ta không phải là món hàng để cho thiên hạ đem tiền ra mua chuộc. Chính người thày thuốc, khi đem tài nghệ của mình ra để phục vụ người ốm, đã làm ơn cho họ, chứ không phải người ốm, vì đem tiền bạc hay thế lực mà ban ơn cho người thày thuốc”. (Leannec)

Ngoài bổn phận đối với bệnh nhân ra, các bạn còn có bổn phận đối với các bạn đồng nghiệp nữa.

Tôi nhận thấy ngày nay phần đông các bác sĩ không đối xử với nhau như các bậc đàn anh của họ hồi xưa: trên kính dưới nhường. Tuyệt đối các bạn không được nói xấu bạn đồng nghiệp, không được phê bình (với ác ý) chỉ trích cách định bệnh hoặc chữa bệnh của họ, không được gièm pha để tranh khách, không được len lỏi vào một gia đình nếu gia đình đó đã có một dồng nghiệp rồi.

Giáo sư P, V. Badot có kể lại truyện về giáo sư Maranon, một hôm tới bệnh viện Bichat và chăm chú nghe một sinh viên nội trú giới thiệu một bệnh nhân mắc chứng bệnh ở nội tiết tuyến (glandes endocrines) P, V. Badot viết: ”Khi tôi hỏi ý kiến của ông trước mặt đông đủ học trò của tôi thì ông chỉ mỉm cười, không trả lời. Khi chỉ có một mình ông với tôi, tôi nói:

-Thế nào ông có đồng ý không?

Giáo sư Maranon đáp:

-Tôi không hoàn toàn đồng ý với học trò của ông.

-Thế tại sao lúc ấy ông không nói?

-Bởi vì không ai có thể biết sự thật chắc chắn được, Vả lại, không bao giờ được làm mất lòng một bạn đồng nghiệp cả!”

Rồi giáo sư PVBadot kết luận: “Lịch sự tới cực độ ấy là một đặc tính của ông. ”

Còn một điều này nữa tôi muốn nói với các bạn, là ngoài nghề thuốc ra các bạn cần phải trau dồi văn hóa, không những trên lãnh vực khoa học mà cả trên lãnh vực văn chương nữa. Ở vào thời buổi này một nhà khoa học phải ham thích văn chương cũng như một nhà văn, không thể không biết tới khoa học.

Chính nhờ văn hóa mà bạn có óc phê bình, sự phán đoàn của bạn được sắc bén, mau lẹ và minh mẫn, trí tuệ không bị cùn nhụt, căn cỗi, thành chai, tâm hồn của bạn vẫn giữ được trẻ trung mãi mãi.

Giáo sư P, V. Badot đã viết:

Phải mở mang trí tuệ của thanh niên hơn là để họ sống gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của y khoa.

Tôi nhận thấy nhiều danh y của thế giới, hoăc nhiều giáo sư đại học, đều là những người hiếu học, ham đọc sách, yêu sách, yêu nghệ thuật, học thức rất uyên thâm, vừa là thầy thuốc trứ danh, vừa là nhà văn nổi tiếng, như Mondor (nổi danh nhờ con daocây bút và cây cọ) Jean Delay, P. V. Radot, Duhamel…. những người này vừa có chân trong Hàn Lâm viện Y khoa vừa là Hội viên của Hàn Lâm viện Pháp.

Nữ văn hào Han Suyin, Sommerset Maugham, Cronin, trước khi là nhà văn, đã từng làm nghề thuốc.

Tchekov, đại văn hào Nga, vừa sống về nghề thuốc, vừa viết văn. Ông thường nói: ”Y học là vợ chính thức của tôi, còn văn chương là tình nhân. Khi tôi chán bà này thì tôi đi với bà kia. Tuy nhiên đối với cả hai, tôi đều trung thành cả. Nếu không có nghề thuốc, có lẽ tôi không có tài liệu để viết văn. ”

Giáo sư Trousseau già tôi đã dẫn thượng, cũng bảo: Một nhà bác học mà không phải là một nghệ sĩ chỉ là một nhà bác học tầm thường”

Bởi vậy tôi khuyên các bạn, ngoài việc học ra, nên để thời giờ nhàn rỗi, trau dồi văn hóa, rèn luyện văn chương, nghệ thuật (âm nhạc hội họa……) chơi thể thao, để cuộc đời đỡ buồn tẻ, vì theo tôi, nếu suốt đời làm mãi một nghề, bất cứ nghề gì, mà vẫn hăng say, không thấy chán thì quả thật là một sự lạ.

Không những để cuộc đời khỏi buồn tẻ mà còn làm cho đời sống thêm phong phú, để biết sâu hiểu rộng, ngoài lãnh vực y khoa.

Người ta thường so sánh thày thuốc với ông Cha sở và ông Luật sư. Tôi không mang tiếng mắc bệnh chủ quan nếu phê bình vai trò của ba loại người đó, mặc dầu ở đây chỉ có các bạn và tôi mà chỉ xin dẫn Balzac và Duhamel là hai văn hào đã viết rất nhiều về cuộc đời của mấy nhân vật đó. Balzac nói:

Tôi cho rằng sở dĩ văn minh tiến bộ và nhân loại được sung sướng là nhờ ba người này”

Nhưng sau khi nhận thức đúng vai trò của người thày thuốc, ông nói thêm:

“Người nhà quê sẳn sàng nghe lời người kê toa cho mình để họ khỏi bệnh hơn là nghe lời ông Cha sở diễn thuyết về việc cứu vớt linh hồn. Một đàng có thể nói chuyện với họ về đồng áng và một đàng, chỉ có thể bàn với họ về thiên đàng, điều mà họ ít quan tâm tới. ”

Còn Duhamel thì viết về ba vị đó như sau:

“Ông luật sư mà ta nhờ cậy để bệnh vực công lý cho ta có thể chọn ngày giờ để tiếp khách. Nếu ông yêu nghề, ông sẽ hăng hái làm việc, dù sao, không có gì cấp bách cả. Đối với thân chủ của ông, dù sao tình thương không quý bằng tài hùng biện, bằng sự khôn khéo, bằng giao thiệp rộng.

Công việc của một nhà tu hành có thể ví với công việc của người thày thuốc. tuy nhiên tôi cần nói ngay là chỉ khi nào hấp hối, người ta mới mời ông Cha Sở. Lương tâm dù bị cắn rứt, đợi đến sáng hôm sau cũng không muộn. Nhưng thường thường khi lên cơn đau vì trong thận có sạn, thì không thể nào đợi được. Ít khi người ta đánh thức ông Cha sở, dù ông này tốt, vì có người ăn năn sám hối; nhưng hơi nhức đầu một tí, có khi chẳng sao cả, đang đêm người ta cũng dựng ông thày thuốc dậy. ”

Các bạn sinh viên thân mến,

Tôi vừa phác họa ra đây hình ảnh của một người thày thuốc, xứng đáng với danh từ ấy, suốt đời tận tụy, hi sinh cho người ốm, không quản vất vả, không mấy khi có thì giờ để nghỉ ngơi, giải trí, bữa ăn giấc ngủ thất thường, ngay đến những thú vui trong gia đình cũng không được hưởng, đã thế lại gặp nhiều bội bạc, hoăc có khi bị chính các bạn đồng nghiệp dèm pha, ghen ghét.

Tuy vậy nhưng tôi chưa hề thấy một người thày thuốc nào than phiền về cái nghề của họ, vì đó là một nghề cao đẹp, cao đẹp hơn hết mọi nghề khác cao đẹp ở chỗ tất cả những cảnh khổ não trên thế gian này chỉ càng thắt chặt thêm mối dây liên lạc giữa người thày thuốc với người ốm, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, cao đẹp ở chỗ chỉ có nghề thuốc mới dung hòa được khoa học với lý trí và tình thương.

Và để kết thúc buổi nói chuyện, kể cũng khá dài rồi, tôi xin mượn lời giáo sư E. Rist, trích trong cuốn: Y học là gì ?(Qu’est-ce la Medicine ?)

“Muốn lúc nào cũng lãnh được hết trách nhiệm tinh thần của nghề chúng ta, chỉ có cách chắc chắn nhất, ấy là chuyên tâm vào nghề của mình, yêu nghề đó tha thiết, và luôn luôn cố gắng để mỗi ngày một tiến.

Người thày thuốc muốn được tín nhiệm cần phải xứng đáng là người thày thuốc, cần phải có một nếp sống giản dị, không xa hoa đàng điếm, phải lập gia đình và ở trong gia đình, nêu một tấm gương thanh bạch đứng đắn.

Người thày thuốc phải sống thực tiễn và sống theo thời đại. Trí tuệ phải được rèn luyện, trau dồi luôn, hợp nhân đạo. Đối tượng của sự học là con người, con người toàn diện.

Người thày thuốc không những nên tìm hiểu con người trên lãnh vực khoa học mà còn cần biết đến đời sống tâm linh nhờ được tiếp xúc với đủ mọi tầng lớp người, nhờ được trông thấy những thử thách của cuộc đời và làm quen với những kiệt tác của nhân tâm, của nghệ thuật và của khoa học.

Sống cho người thân yêu và cho nghề của mình, đó không phải là một đề mục khá đẹp cho một mộ chí hay sao? Và nếu lại còn được cái đặc quyền sống cho Tổ Quốc nữa thì thật là sung sướng vô cùng. Và chung quy có lẽ đó là một cách thẳng thắn nhất để sống cho nhân loại. ”

Tôi thành thật cầu chúc cho các bạn sẽ là người thày thuốc gương mẫu đó.

BS. Nguyễn Hữu Phiếm
Nguồn: YKhoaNet -  vietthuc