Sunday, June 30, 2013

Nguyễn-Xuân Nghĩa


Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Bắc Kinh
 
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Saturday, June 29, 2013

Lê Như Đức

Người Lính Năm Xưa

Tôi gặp anh là duyên số. Anh gặp tôi là cố tình. Dù duyên phận hay cố ý, tôi vẫn luôn sung sướng khi biết được anh. Cho dù chỉ ở với anh chưa đến hai ngày tôi vẫn nhớ mãi những kỷ niệm thật đậm đà, nhẹ nhàng đến từ anh, từ gia đình anh và cả từ thành phố anh ở, El Paso.
 
Tháng 7 năm 1998, gia đình tôi qua California làm. Công ty chỉ cho gia đình tôi bốn người mướn một cái xe. Khi tôi lái xe đi làm, vợ con tôi bị treo giò, nằm ở nhà ngóng. Nhiều khi cần đi chợ hay đi học, vợ tôi lại phải chở tôi tới sở sáng sớm. Nhìn hai cô con gái còn ngái ngủ phải thức dậy sớm, tôi chịu hết nổi. Một buổi chiều thứ năm, nhân nghỉ lễ cuối năm, tôi phóng ra phi trường, lấy vé bay về Houston rồi một mình lái xe qua lại California.
 
Đường từ Houston qua tới Huntington Beach dài khoảng 1550 dặm Anh. Tôi tính lái đi tổng cộng hai ngày, rời Houston từ sáng sớm hôm thứ sáu và sẽ tới California vào chiều thứ bẩy. Theo lịch trình thì ngày đầu tiên tôi sẽ lái một nửa, khoảng hơn 750 dặm tới thành phố nằm tận cùng của tiểu bang Texas, El Paso. Tôi sẽ tìm một quán ăn Việt nam, dùng bữa cơm chiều thật xôm tụ để lấy sức rồi kiếm một khách sạn nghỉ qua đêm. Sáng hôm sau thức dậy lúc mặt trời chưa mọc, vừa phóng xe đi vừa ăn sáng thì có lẽ sẽ tới California trước bữa cơm chiều.

Có lẽ đối với dân Mỹ thì bữa cơm chiều là quan trọng nhất. Thường thì người Mỹ ăn trưa trong sở làm. Một miếng bánh mì sandwich kẹp vài ba miếng thịt nguội, một trái táo và lon nước ngọt. Có người bỏ luôn bữa trưa, chỉ ăn bữa sáng thật nhiều rồi nhịn cho tới bữa ăn chiều.

Với dân Việt nam thì ba bữa sáng, trưa, chiều đều quan trọng như nhau. Ngày còn nhỏ, tôi nhớ sáng sáng thường làm một bụng đầy trước khi đi học. Lúc thì cơm tấm, khi lại bánh xèo, nào bánh tầm bì, nào bánh cuốn rồi bánh mì thịt nguội. Trưa đi học về, cả nhà quay quần chung quanh bàn ăn với đầy đủ các món trước khi làm một giấc ngủ trưa dài. Chiều, trời chưa tối gia đình chúng tôi lại quay quần chung quanh bàn ăn một lần nữa. Thỉnh thoảng ngủ trưa dậy tôi lại ra đầu xóm làm một tô bánh canh giò heo nóng hổi. Tối khuya, có lúc bố tôi kêu đói, anh em chúng tôi lại lục đục lên xe đi tới quán mì. Không mì xào cây dừa thì cũng mì xào cây me. Cây nào anh em chúng tôi cũng xơi. Tính tới tính lui, tôi nhớ có ngày ăn đến năm lần. Anh em chúng tôi vẫn không mập.

Qua đến Mỹ, ngày ngày phải đi làm tám tiếng, nên buổi trưa đối với tôi giấc ngủ quan trọng hơn miếng ăn. Do vậy bữa ăn chiều phải thật thịnh soạn, phải đầy đủ chất bổ dưỡng. Với bữa sáng, nhiều khi ly cà phê cần thiết hơn miếng bánh mì. Tuy nhiên phải có một chút xíu vô bụng thì mồm miệng mới thơm tho, ăn nói mới thông. Ngày còn nhỏ, bố tôi thường dậy anh em chúng tôi sáng phải có chút gì vô bụng để bịt cái hơi hôi, thông từ ruột đi lên. Cho dù mình có đánh răng, nạo lưỡi hay xúc nước thơm cách mấy, không có chút gì vô bụng, mở miệng nói vẫn nặng mùi. Mùi hôi xông từ bao tử, từ ruột non, ruột già đi lên không thuốc thơm nào trị được. Chỉ cần một miếng bánh donut nho nhỏ hay nửa củ khoai lang đóng cái cửa thông hơi, hơi miệng bảo đảm sẽ không bay mùi. Cà phê chỉ để tỉnh ngủ chứ không chữa được hết mùi. Do đó tôi thường chỉ ăn một chút xíu vào buổi sáng sớm để ăn nói cho ngọt ngào chứ chẳng phải cho no. Bữa ăn trưa thường lè phè, có ít ăn ít, có nhiều ăn cũng ít để lẹ cho giấc ngủ trưa. Tất cả tôi đều tập trung vào bữa ăn chiều. Tôi phải tới El Paso và California trước bẩy giờ tối để sửa soạn cho bữa cơm chiều.

Tôi tới El Paso sớm hơn dự tính, trước sáu giờ chiều. Kiếm được một khách sạn thuận tiện nằm cạnh quốc lộ số 10. Quốc lộ số 10 có lẽ tất cả dân của mọi tiểu bang phía nam nước Mỹ ít nhiều cũng phải một lần đi qua. Nó chạy từ tiểu bang Florida qua tới California. Nối Thái Bình Dương với Đại Tây Dương. Cái khách sạn be bé xinh xinh, chỉ có khoảng năm chục phòng là cùng. Tôi thích chọn khách sạn nhỏ với một tầng trệt để đậu xe ngay trước cửa phòng, khỏi mất công khiêng đồ lên xuống. Đi với vợ con thì tôi phải chọn khách sạn lớn, đầy đủ tiện nghi vì con tôi thích cầu thang máy và vì vợ tôi sợ không được an toàn.

Vừa lấy được phòng ngủ là tôi vội tìm cuốn sách niêm giám điện thoại. Hầu như ngày nay bất cứ cuốn sách niêm giám điện thoại của mọi thành phố trên đất Mỹ đều có họ Nguyễn và bất cứ người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản cũng đều có họ hàng sống ở Cali. Lựa một tên thật bình thường tôi bấm số hỏi địa chỉ nhà hàng Việt Nam. Đầu dây bên kia, giọng người đàn bà trả lời ngắn một tiếng Hello. Tôi lên tiếng :
- Xin lỗi có phải nhà Việt Nam không ạ "
Người đàn bà ngập ngừng giây lát rồi bập bẹ trả lời tôi:
- Ông ..đợi ..chút ..chút.


Khoảng hai phút sau, giọng người đàn ông vang trong điện thoại:
- A-lô, ai đó "
Tôi lập lại câu hỏi cũ :
- Xin lỗi có phải nhà Việt Nam không ạ "
- Đúng vậy. Anh tìm ai "
Tôi vội giải thích:
- Thưa anh, em lái xe từ Houston qua Cali, giữa đường ngừng nghỉ ở El Paso tối nay. Em muốn tìm một quán ăn Việt Nam. Em coi trong cuốn điện thoại thấy tên anh nên gọi hỏi đường. Anh có thể chỉ giúp em quán ăn Việt ở vùng này "
Người đàn ông cười trả lời:
- Vùng này có vài quán nhưng họ lại nấu lai theo kiểu Mễ để câu khách Mỹ, khách Mễ. Chú ăn không được như ở Houston hay Cali đâu. Có một tiệm tạm tạm được nhưng đường đi lại hơi khó, tiệm lại không có bảng hiệu rõ ràng. Chú hiện giờ đang ở đâu"
Tôi nói tên khách sạn của tôi đang mướn. Người đàn ông tiếp:
- Anh biết chỗ chú ở rồi. Cũng gần nhà anh thôi. Chú đợi khoảng mười lăm phút anh tới dẫn chú đi.
Tôi chưa kịp trả lời chỉ nhờ anh chỉ đường để khỏi làm phiền thì anh đã nhanh cúp điện thoại. Nằm dài trên cái giường to nhìn lên trần nhà, tôi nghĩ vớ vẩn đến người đàn ông kỳ lạ này. Mình chỉ hỏi đường, anh đòi tới dẫn mình đi. Chưa kịp nói số phòng, anh đã cúp phôn. Hình như anh đã biết tôi là ai và sẽ phải làm gì. Tôi bước vào phòng tắm xả nước nằm ngâm mình cho bớt cơn mệt nhọc sau hơn mười tiếng đồng hồ lái xe mà lòng vẫn băn khoăn nghĩ tới người đàn ông lạ kỳ này.

Chưa đầy mười lăm phút, điện thoại phòng tôi reo vang. Tôi nghe giọng anh vang rền trong máy:
- Chú ra văn phòng chính của Hotel. Anh đang đợi chú ở ngoài này đây.
Vẫn vội vã như lúc trước, tôi chưa kịp trả lời, anh đã cúp điện thoại. Tôi khóa trái cửa phòng, lững thững đi ra văn phòng của khách sạn tôi đang mướn. Ngay chỗ quầy làm giấy tờ cho mướn phòng, một người đàn ông Việt Nam tuổi dễ qúa năm mươi, người to lớn, đang đứng phân trần với nhân viên của khách sạn. Tôi bước lại gần thấy họ nói với nhau bằng tiếng ...Mễ. Người đàn ông Việt Nam bỗng nhiên ngưng nói, quay qua nhìn tôi như ra lệnh:
- Chú đưa credit card cho nó đi. Nó bằng lòng hoàn lại tiền phòng cho chú rồi. Nhà anh dư phòng, chú tới ở đêm nay, đỡ được hơn sáu chục bạc.
Tôi ú ớ chưa biết trả lời ra sao, thì anh lại tiếp:
- Chú mới mướn phòng chưa được nửa tiếng đồng hồ nên có quyền lấy lại hết tiền.
Anh nhìn cái đầu ướt của tôi rồi cười hì hì:
- Theo luật thì chú không được tắm đâu. Nhưng anh nói với tên ngố này chú chưa đụng gì đến đồ trong phòng. Ngay cả cái thùng rác. Lẹ lẹ lên không nó đổi ý, lại mất công giải thích. Mình phải đánh thật mau, rút thật lẹ mới được.
Tôi ngập ngừng:
- Anh đừng lo. Tiền khách sạn, công ty của em sẽ hoàn lại. Ngay cả tiền ăn dọc đường nữa. Em chỉ cần tìm tiệm Việt Nam để ăn tối nay.
Anh lắc đầu, quơ tay liên tục:
- Có trả cũng về nhà anh ở. Vừa rộng rãi, thoải mái, vừa an toàn đóng quân hơn nơi đây nhiều. Chú nghe anh nói, đưa credit card cho nó đi.
Thấy anh hối mấy lần, tôi phải đưa thẻ tín dụng của tôi cho người nhân viên khách sạn. Hình như anh ta cũng không muốn cãi lộn bằng tiếng Mễ với người Việt nữa nên nhận lấy thẻ nhanh nhẹ quẹt vào máy, trả tiền lại cho tôi trong tích tắc. Khi người nhân viên khách sạn đưa tờ biên nhận hoàn lại tiền cho tôi, anh cẩn thận nhắc nhở:
- Chú coi cho kỹ đó. Lộn tới Cali gọi kiện nó không chịu trả đâu. Có lấy lại được thì cũng tốn gần hết tiền cho điện thoại long distance. Đừng để địch nắm đằng chuôi.

Anh theo tôi về lại phòng ngủ để dọn đồ đạc ra xe. Vừa đi anh vừa tự giới thiệu mình:
- Anh ở đây dễ cũng tới hai chục năm hơn. Ngày xưa lúc mới qua cũng trấn ở Cali một thời gian. Rồi không thích ồn ào bay về đây ở ẩn. Án binh bất động.
Tôi cười tiếp lời anh:
- Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người xuống phố Bô-sa.
Anh cười lớn lặp lại câu thơ ... thẩn của tôi rồi bỗng thấp giọng:
- Đây đàn bà Mễ nhiều lắm, lại chịu đàn ông Việt mình nên không phải là nơi vắng vẻ đâu. Chú nhớ đấy, đàn bà Mễ hành quân còn mạnh hơn cả cánh ta ở Cali nhiều.

Tôi khuân đồ ra xe rồi lái theo anh về nhà. Nhà anh cách cái khách sạn tôi mướn chỉ khoảng năm dặm Anh thôi, nhưng trời đã xẩm tối nên anh lái thật chậm sợ tôi theo không kịp. Khi tôi tới được nhà anh thì đường phố đã lên đèn, nhà nhà đều đèn đuốc sáng trưng. Trước cửa nhà, một người đàn bà và hai đứa con trai vội mở cửa ra đứng đón khi nghe tiếng còi xe anh bấm lúc chúng tôi đậu xe vào bãi đậu xe của nhà.
Căn nhà anh vừa vặn, xinh xắn sơn mầu xanh nhạt. Vườn trước rộng mênh mông với bãi cỏ lớn, hợp đúng tiêu chuẩn của tiểu bang Texas. Một cây cổ thụ lâu đời mọc giữa bãi cỏ như che phủ lấy căn nhà. Thân cây cắm hai lá cờ: cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Trước cửa vào nhà là một dãy hàng hiên dài với cái ghế xích đu treo lủng lẳng và vài ba cái ghế nhựa mầu xanh lá cây đậm để ngổn ngang gần cửa ra vào.
Anh mở cửa xe bước xuống, hai đứa bé chạc mười tuổi chạy vội ra ôm anh. Chúng nhìn tôi lễ phép khoanh tay chào. Giọng Việt nghe rõ ràng. Người đàn bà đứng yên nơi cửa chào đón. Từ xa tôi cũng đã nhận đoán chị không phải người Việt Nam qua vóc dáng cao lớn của chị. Nếu mang giầy hơi cao gót, tôi chắc chắn chị sẽ cao hơn anh. Mái tóc hơi ngả mầu vàng, chị trông lối bốn mươi hơn.

Thường thường, người đàn bà Mễ không giữ được thân hình thon gọn sau khi lấy chồng sinh con. Có lẽ vì dân Mễ thích ăn đậu, ưa ngồi nhiều nên dễ phì. Người đàn bà Mễ đang đứng trước mặt tôi là một ngoại lệ. Dáng chị cao lớn nhưng không xồ xề, thân người to nhưng không thô, tay chân dài nhưng không thừa thãi. Chị nhìn tôi mỉm cười nhẹ, nói bập bẹ vài ba câu xã giao tiếng Việt:
- Mời anh vô nhà. Mời anh nghỉ. Anh đi xe có mệt không"
Tôi có bạn gốc Mễ, được dạy nói vài câu xã giao vớ vẩn, nên trả lời câu hỏi của chị bằng tiếng Mễ. Anh và chị đều cười to khi thấy tôi pha trò. Hai đứa bé không hiểu mấy nên ngẩn mặt tò te. Có lẽ anh ít bạn tới nhà chơi nên chúng có vẻ không được tự nhiên với tôi nhiều. Riêng anh và chị thì thoải mái hơn. Anh vừa kéo lê cái va-li hành lý của tôi vào nhà vừa chỉ chị và hai đứa con giới thiệu tên:
- Đây là Silvia. Tụi nhỏ tên An và Lộc. Chú đóng quân ở đây rộng rãi không sướng sao. Tội chi ẩn vào cái Hotel đó. Anh nói chú nghe. Nhân tiện chú đi ngang qua đây, ở chơi với anh mấy ngày rồi hãy về Cali.
Tôi cười thoái thác ngay:
- Anh cho em ở một đêm thôi. Mai phải lên đường. Em có nhiều chuyện lắm. Sáng thứ hai đi làm sớm, không ở lâu được đâu. Khi lái xe về lại Houston, có nhiều giờ hơn em sẽ ở lâu hơn.
Anh lắc đầu liên tục:
- Mấy khi có dịp. Chú đừng dùng kế hoãn binh. Mai thứ bẩy chú ở lại đây một ngày. Sáng sớm chủ nhật lái xe đi sớm, tới Cali vào lúc xế chiều. Sáng thứ hai dậy đi làm lại. Anh tính chú thấy sao"
Tôi vẫn lắc đầu từ chối :
- Mệt lắm anh ạ. Em muốn tới sớm, có một ngày nghỉ cho khoẻ.
- Thanh niên như chú thì đánh đấm Việt cộng sao nổi. Tới Cali chỉ cần ngủ một đêm thôi là mai có thể đi làm được rồi. Ngày xưa đi đánh giặc, chúng tôi chỉ ước được vài tiếng nghỉ mà chả có. Nhiều khi thức trắng đêm đến sáng thức tiếp. Ngủ nhiều là có thể ...ngủ luôn.
Thấy anh có lòng, tôi im lặng chấp nhận. Tính tôi dễ dãi. Ngày xưa, lúc mợ tôi còn sống thường nói tôi là con cừu, muốn sao cũng được, không thích làm trái ý ai.

Trong nhà anh đồ đạc bầy đơn sơ, không kiểu cách mấy. Phòng khách nhỏ với bộ nghế xa lông có lẽ trên chục năm hơn đã ngã mầu xanh lá cây đậm thành lạt. Cái vô tuyến truyền hình đặt góc phòng cũng kiểu xa xưa với hai cây ăn-ten cao lêu nghêu để trên nóc. Dàn máy nhạc cũ kỹ để cạnh với cái gía nhỏ đựng dĩa và băng nhạc. Phía trong là nhà bếp bốc khói nghi ngút. Tôi ngửi được mùi bún riêu thoang thoảng cộng lẫn mùi nồng nồng của mắm tôm. Phía trái của phòng khách là phòng ăn với cái bàn gỗ mầu vàng nhạt và sáu cái ghế đặt chung quanh. Hai đứa bé lo phụ mẹ bầy chén đũa lên bàn. Người đàn bà Mễ đương hý hoáy nấu đồ ăn Việt Nam trong bếp. Anh nhìn tôi quảng cáo:

- Hôm nay anh cho chú thưởng thức món bún riêu nổi tiếng của vùng này. Đặc sản thuần túy của dân Việt Nam do đầu bếp... ngoại quốc nấu. Chả có tiệm nào ở đây nấu đồ ăn Việt Nam bằng Silvia đâu. Khỏi phải đi đâu kiếm tiệm chi cho mất công. Nhà này là tiệm ăn số một của vùng El Paso.

Trong cuộc đời, tôi may mắn sống nhiều nơi, đi nhiều chỗ và cũng được ăn nhiều món lạ. Có thể nói tôi rất hài lòng khi có được một cuộc sống đa dạng và trôi nổi. Tôi đã từng sống trong tù vượt biên, lúc lang thang ngủ trên nóc xe lửa cả tháng trời, khi lại nằm trong khách sạn thật sang trọng, mắc tiền tuần lễ hơn. Từng phá rừng Long Khánh, đốn cây trên đảo tỵ nạn Mã Lai, rồi một ngày lại được ngồi họp trong những phòng ốc tối tân nhất của thế giới. Có lúc khổ cực phải bươi khoai mì ăn sống, nhiều khi tôm hùm, đồ biển lại ngập bàn. Đi nhiều, thấy nhiều, nhưng có lẽ hình ảnh người đàn bà Mễ có chồng Việt Nam đứng trong bếp nêm nước mắm vô nồi bún riêu là một thích thú đặc biệt nhất trong cuộc sống lưu vong của tôi. Nó vừa là hình ảnh của một sự buồn bã chia cắt sống lưu lạc nơi xứ người phải lấy vợ ngoại quốc, vừa lại là một sự kết hợp hạnh phúc giữa các sắc dân nơi vùng đất tạm dung. Nó là sự chấp nhận thay đổi với cuộc sống mới nhưng lại không quên được quê hương qua những mùi vị của chai nước mắm, của lọ mắm tôm. Silvia sẽ mãi mãi không nấu bún riêu ngon bằng chị tôi hay vợ tôi nấu. Nhưng chiều hôm đó tôi đã có được một bữa ăn đầy hương vị của đất nước tôi. Tô bún của tôi có cả rau muống chẻ, có tía tô, kinh giới, có hành phi cháy dòn, và có đậu hũ chiên chấm nước mắm nguyên chất hiệu một con cua. Tôi còn nhớ mãi lời anh dặn:
- Nước mắm phải là đúng hiệu một con cua, tuy hơi đắt nhưng ăn mới đúng điệu. Ba con cua rẻ hơn nhưng không đậm đà bằng. Nước mắm mực chỉ dùng để nêm vô nồi nước lèo chứ không thể chấm ăn được. Chú nhớ đấy.

Buổi tối mùa đông trời El paso chuyển lạnh xuống thật mau. Anh và tôi bước ra ngoài hàng hiên trước nhà ngồi ghế xích đu, uống cà phê phin, ngắm trời xứ người. Hai lá cờ, Mỹ và Việt, gió lộng thổi tung bay phần phật trước mặt chúng tôi. Hình như tối nào sau bữa cơm chiều anh cũng đều ra đây ngồi ngắm chúng. Đã hơn hai mươi năm sau ngày nước mất, hình ảnh cuộc chiến vẫn chưa phai nhòa trong anh.
Ngồi càng lâu sương khuya xuống càng đậm, anh càng ít nói. Giọng anh lạc hẳn khi hỏi tôi hay tự hỏi chính mình:
- Tại sao một quân đội hùng mạnh, thiện chiến vào bậc nhất của thế giới lại vất súng đầu hàng một lũ người ngu dốt, "người không ra người, ngợm chả ra ngợm" Không bắn được một viên đạn mà phải bỏ chạy. Cho đến giờ nghĩ lại anh cũng không thể tưởng tượng nổi ngày đó lại đến qúa mau như vậy.
Tôi chưa nghĩ được câu trả lời thì anh lại lẩm bẩm tiếp:
- Nếu nói Mỹ cố tình sắp đặt thì tại sao những tướng lãnh, chỉ huy của mình lại nghe họ bỏ súng đầu hàng. Mình vẫn còn dự trữ đạn dược dùng cả năm trời cũng chưa hết mà.
Đêm càng khuya càng lạnh. Anh vẫn ngồi yên lặng trên cái ghế xích đu, trầm tư nhìn hai lá cờ nghĩ về cuộc chiến năm xưa. Anh đã ngồi như vậy mỗi buổi tối suốt hơn hai mươi năm qua.

Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng nó vẫn hằng in đậm trong tâm hồn của kẻ tới chiếm lẫn người ra đi. Ai ai cũng thấy cái thất bại của phe mình, cái gía phải trả cho cuộc tương tàn. Đoàn quân chiến thắng kéo từ rừng rú về thấy được sự phồn thịnh, tự do của những người bỏ cuộc. Kẻ mệnh danh đi giải phóng người trông thật ngu ngơ, tồi tàn hơn người được giải phóng. Người vất súng bỏ chạy uất ức thua vì sự ngu dốt của quân đội Bắc phương, sự lừa bịp của đám lãnh tụ về một chủ nghĩa không tưởng. Cả hai bên, thắng và thua, cũng đều thua đậm trong cuộc chiến.


Người lính bên tôi ngày ngày ngồi ôm đầu trách mình
sao bỏ súng qúa nhanh. Người lính bên kia, xưa lấy thân lấp lỗ châu mai, chống Mỹ cứu quốc nay đứng ngẩn ngơ nhìn các lãnh tụ mà một thời mình sùng bái hèn hạ dâng không đất cho đàn anh kết nghĩa ruột thịt. Thật thương cho sự hy sinh của người thua và tội nghiệp cho sự ngu dốt của kẻ chiến thắng.

Tôi chậm rãi bâng khuâng trả lời câu hỏi của anh:
- Có thể chúng ta thua vì bọn chúng quá... ngu chăng 
 
Sau ngày nước mất, tôi có được nghe một câu chuyện thật khôi hài, đầy mỉa mai về một cán bộ cấp tá vào miền Nam thăm người em trai của mình. Ông mang chức vụ trung tá chỉ huy cả một sư đoàn sao đỏ tới thăm em chỉ là một công chức quèn của chế độ cũ với chiếc túi xách nặng chĩu trên vai. Vì lịch sự, gia đình người em không hỏi gì về cái túi cả. Một tuần sau, chả thấy người anh nhắc gì đến nó, vợ người em thắc mắc nhờ chồng hỏi vì sợ bác có đồ dơ áy náy không dám nhờ giặt dùm. Người anh đỏ mặt ấp úng chối quanh. Người em vội mở túi xách ra thấy toàn giấy báo cũ xếp thật gọn gàng. Người anh đành thú thật:
- Nghe chúng tuyên truyền trong nam Mỹ, Thiệu rất ác, người dân khổ sở thiếu thốn mọi thứ. Ngay cả giấy đi cầu cũng không cho, bắt phải chùi bằng lá chuối nên đít ai cũng lở không ngồi được. Mỗi ngày tôi lấy báo cũ trong sư đoàn tích lại, tính vào đây cho gia đình chú. Vào đến đây thấy nhà cửa của chú tôi mới biết mình cũng bị tên chính ủy sư đoàn lừa luôn.
Một vị sĩ quan mang cấp bậc trung tá mà còn ngây thơ và đần độn đến nỗi bị lừa phỉnh một cách ấu trĩ như vậy thì thử hỏi tại sao không có cả một quân đội chục triệu quân ngu dốt cứ đâm đầu sinh Bắc tử Nam cho vài tên ác độc, bịp bợm ngồi hưởng lộc tại Bắc bộ phủ.

Nghe xong câu chuyện của tôi, anh gật đầu đồng ý:
- Cùng có thể lắm. Chúng ta thua vì chúng qúa ngu. Ngu không tưởng được nên mới nghe lời dụ dỗ thật nhảm nhí như vậy. Càng ngày càng đói nhe răng mà lúc nào cũng mơ sống trong thiên đường cộng sản, đồ ăn vất đầy đường không ai thèm lượm. Thật là ...ngu. Nhưng mà nếu nói mình thua vì chúng qúa ngu thì ai mà tin được.

Buổi sáng tôi thức giấc trễ hơn mọi ngày vì El paso trễ hơn California một múi giờ đồng hồ. Cả gia đình anh thức giấc từ lâu. Họ đã dùng xong bữa ăn sáng và đang ở vườn sau tưới cây, nhặt cỏ. Hơn một phần ba vườn, anh làm nhà kính bao chung quanh để trồng rau miền nhiệt đới. Tôi trông thấy được cả những cọng rau muống thật to và dài. Anh chỉ tôi, hãnh diện khoe:
- Chú thấy đấy. Mùa nào gia đình anh cũng có đầy đủ các loại rau. Chỉ cần chịu khó một tí là tha hồ có rau tươi ăn quanh năm. Còn các bà thì càng dễ hơn. Cứ huấn luyện vài lần thì Mỹ, Mễ gì cũng nấu được bún ốc, quấn được chả giò ngay. Nếu biết cách chỉ huy là xong thôi.
Trưa hôm đó tôi được ăn bánh xèo, quấn rau cải đắng chấm nước mắm pha nhạt. Anh còn bẻ cho tôi vài ba quả ớt tươi trồng trong nhà kính của anh. Buổi chiều xuống chúng tôi lại ra ngồi trước cửa ngắm trời và nghe anh kể chuyện chinh chiến năm xưa. Chúng tôi lại kết thúc câu chuyện bằng câu hỏi của ngày hôm qua:
- "Tại sao một quân đội hùng mạnh, thiện chiến vào bậc nhất của thế giới lại vất súng đầu hàng quá nhanh"

Trước khi đi ngủ anh còn cẩn thận lôi ra cho tôi coi bộ đồ trận anh mặc trong ngày bỏ nước ra đi từ đáy chiếc rương cũ. Nó được xếp thật ngay ngắn với cái mũ bê rê đỏ đặt lên trên. Anh đã sửa soạn để mặc lại nó trong ngày ra đi lần thứ hai: trở về nước hay từ bỏ kiếp làm người. Không một bộ đồ nào khác anh muốn mặc. Một ngày khoác bộ quân phục làm người lính Việt Nam Cộng Hòa, một đời chỉ muốn chết cho tổ quốc, cho quê hương. Tôi sờ nhẹ lên mép của cái áo như thấy được cả một cuộc chiến trôi nhanh qua. Mùi thuốc súng và mùi mồ hôi thoang thoảng đâu đây. Tôi nhìn anh, thương thật nhiều cho người lính của nước tôi năm xưa.

Sáng hôm sau, ngày chủ nhật, tôi dậy sớm để sửa soạn cho nửa cuộc hành trình còn lại. Gia đình anh cũng vẫn dậy sớm hơn tôi. Anh giúp tôi mang hành lý ra xe. Hai đứa bé ôm chân mẹ đứng trước cửa nhà nhìn ra im lặng. Anh đứng cạnh cửa xe tôi bùi ngùi chúc:
- Chú đi đường bình an.
Tôi gật đầu đáp lại lời anh:
- Anh, chị và hai cháu khoẻ luôn.
Anh nhìn tôi một lúc bỗng dưng mỉm cười hỏi tôi câu cuối:
- Chú còn thắc mắc gì về anh cứ việc hỏi, không đi đường suy nghĩ vớ vẩn dễ đụng xe. Con người của chú mang nhiều tình cảm, hay suy nghĩ.
Tôi ngần ngừ giây lát, không nhìn anh, ấp úng hỏi:
- Một điều em không hiểu. Người như anh, tại sao có người lại ...chê, bỏ ...anh đi.

Anh im lặng nhìn về hướng trước như ôn lại quá khứ rồi chậm rãi trả lời:
- Những ngày mới qua còn thiếu thốn khổ cực. Lại thêm cái buồn mất nước, cái nhục thua trận. Nhiều khi anh nóng nẩy, có lời lẽ không được nhẹ nhàng. Lỗi do anh cả.
Lời anh ngắn, nhưng tôi thấy được cả nôĩ khổ dài bao năm của người lính nước tôi đã trải qua: nước mất đến nhà tan. Tinh thần lẫn thể xác đều tổn thương. Anh trầm tư thêm giây lát rồi bỗng vỗ mạnh vào thành xe tôi nói to:
- Chú đi không trễ. Khi nào muốn trốn đời, về lại El Paso tìm anh.

Tôi từ từ lái xe ra khỏi sân. Ngoái lại nhìn mọi người lần cuối như muốn thu tất cả hình ảnh vào trong lòng. Xe tôi đi xa vẫn thấy anh đứng yên đấy. Nhìn qua cái kính chiếu hậu hông xe, tôi thấy được cả cái ghế xích đu mà chiều chiều anh ngồi vò đầu nhìn hai lá cờ để tìm câu giải đáp về một cuộc chiến đã tham gia. Hai lá cờ vẫn lộng gió tung bay như thách thức câu trả lời. Hai đứa bé vẫn ôm chân mẹ đứng nhìn hiện lờ mờ trên kính sau anh. Tên của chúng gợi tôi nhớ đến hai câu thơ nói về một địa danh đẫm máu và một binh chủng bách thắng mà năm xưa, một lần đã được ghi vào quân sử:

An Lộc địa sử lưu chiến tích,
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.
 
LÊ NHƯ ĐỨC
Houston, July 4 năm 2002

Thursday, June 27, 2013

US vs CHINA

Mỹ bất ngờ lộ
kế hoạch gây chiến với Trung Quốc
 
Theo Lầu Năm Góc, trận chiến Không – Hải là chiến lược phát động một cuộc chiến tranh chủ yếu sử dụng các loại tàu chiến, máy bay chiến đấu và tên lửa nhằm phá hủy toàn bộ hạ tầng quân sự và bao vây phong tỏa làm tê liệt kinh tế Trung Quốc mà không cần xâm lược.

Sau nhiều thập kỷ âm thầm phát triển kinh tế và quân sự, Bắc Kinh đã khá ngạo mạn. Nếu đợi đến khi kinh tế hồi phục, rất có thể Mỹ sẽ chẳng còn lại gì và đành ngậm ngùi nhìn Trung Quốc “điều khiển” mình.
Tờ Báo cáo tình báo hàng ngày (Mỹ) số ra ngày 16/4 vừa qua trích một phần trong tài liệu của Viện chính sách chiến lược Australia (ASPI) cho biết, Mỹ và các nước đồng minh châu Á, đặc biệt là Australia và Nhật Bản đang gấp rút hoàn thiện một bản kế hoạch chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh chống Trung Quốc.
 
Mỹ đã di chuyển hơn 60% lực lượng hải quân của mình về châu Á nhằm chuẩn bị cho trận chiến Không - Hải. (Ảnh minh họa)

Tài liệu của ASPI mang tên Kế hoạch chiến tranh không thể tưởng tượng: Trận chiến Không – Hải và tác động đối với Australia đã được Lầu Năm Góc phát triển từ 3 năm qua và là một thành phần không thể thiếu cho chiến lược “Trở lại châu Á – Thái Bình Dương” của chính quyền Obama nhằm ngăn chặn Trung Quốc trên tất cả các mặt trận ngoại giao, kinh tế, thương mại và quân sự.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến Mỹ phải tính đến giải pháp sử dụng biện pháp quân sự với Trung Quốc là do nền kinh tế của nước này cùng như kinh tế thế giới ngày càng xấu đi. Việc sử dụng sức mạnh quân sự sẽ thay thế vai trò của kinh tế và ngăn chặn việc Trung Quốc trở thành kẻ chiếm đoạt sức mạnh của Mỹ ở châu Á và trên toàn thế giới. Nhà phân tích Ben Schreer của ASPI cho biết, Lầu Năm Góc đang toan tính một chiến lược quân sự nhằm phát động và đánh thắng trong cuộc chiến tranh lớn chống Trung Quốc.

Theo Lầu Năm Góc, trận chiến Không – Hải là chiến lược phát động một cuộc chiến tranh chủ yếu sử dụng các loại tàu chiến, máy bay chiến đấu và tên lửa nhằm phá hủy toàn bộ hạ tầng quân sự và bao vây phong tỏa làm tê liệt kinh tế Trung Quốc mà không cần xâm lược.

Tài liệu của ASPI mô tả, trận chiến Không – Hải sẽ được bắt đầu bằng việc Mỹ sẽ tìm cách buộc Trung Quốc phải nổ súng tấn công trước và sau đó Mỹ sẽ tiến hành một chiến dịch đáp trả và thực hiện một chiến dịch kế tiếp đó nhằm làm tê liệt các hệ thống chỉ huy và kiểm soát của quân đội Trung Quốc (PLA), sử dụng các loại tên lửa phá hủy các hệ thống vũ khí trên bộ và phong tỏa từ xa các tàu thuyền thương mại của Trung Quốc ở eo biển Malacca cũng như các nơi khác.

Tuy nhiên, nhà phân tích Schreer của ASPI cho rằng chiến dịch làm tê liệt các hệ thống chỉ huy và kiểm soát của PLA có thể dẫn đến nguy cơ Trung Quốc phản ứng quyết liệt, kể cả khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Nói cách khác, nếu Mỹ phá hủy khả năng theo dõi các tên lửa đang trên đường bay tới mục tiêu, Trung Quốc sẽ cho rằng đây là một cuộc tấn công hạt nhân và có thể trả đũa bằng biện pháp tương tự.
 
Đến nay, các kế hoạch chuẩn bị cho Trận chiến Không – Hải của Lầu Năm Góc không chỉ dừng lại ở trên giấy tờ. Trên khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ đã âm thầm tổ chức hàng loạt căn cứ quân sự tiền phương để đối phó với các cuộc tấn công tên lửa, bố trí lực lượng dày đặc, di chuyển tới 60% lực lượng Hải quân Mỹ về châu Á và phát triển một thế hệ vũ khí mới nhằm phát động một cuộc chiến tranh trên biển và trên không ở bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc.

Trong kế hoạch này, Triều Tiên đang là cái cớ rất hữu ích để Mỹ triển khai thêm lực lượng quân sự. Mỹ cùng với Nhật đang ráo riết xây dựng các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo để sẵn sàng vô hiệu hóa những đòn đánh trả của Trung Quốc trong trường hợp chiến tranh nổ ra. Lầu Năm Góc xác định Nhật Bản và Australia sẽ là trung tâm trong các kế hoạch chiến tranh. Nhật Bản và các căn cứ Mỹ đặt tại Nhật sẽ là “tiền đồn” để bao vây phong tỏa các tàu chiến, tàu ngầm Trung Quốc, đồng thời quân đội Nhật sẽ là lực lượng bổ sung cho quân đội Mỹ. Trong trận chiến Không – Hải, Australia sẽ là một “chốt chặn” vô cùng quan trọng giúp Mỹ bao vây phong tỏa kinh tế Trung Quốc bằng cách cắt đứt sự lưu thông của tàu thuyền Trung Quốc đi qua khu vực Đông Nam Á. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ này, hồi cuối năm 2011, Mỹ đã được Australia cho phép triển khai Lực lượng Đặc nhiệm Lính thủy đánh bộ ở căn cứ Darwin và mở cửa các căn cứ khác cho tàu chiến và máy bay Mỹ đồn trú. Mỹ cũng hối thúc Australia phải phát triển các loại tàu ngầm có khả năng hoạt động tầm xa để chống lại Hải quân Trung Quốc. Mặc dù tài liệu của ASPI cũng như Lầu Năm Góc cho rằng chiến lược Không - Hải chỉ nhằm mục đích phòng thủ, nhưng rõ ràng để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương, chính quyền Obama đang tìm cách thổi bùng những điểm nóng nguy hiểm trong khu vực, kể cả bán đảo Triều Tiên và các điểm nóng khác. Sách Trắng Quốc phòng năm 2009 của Australia đã xác định "có khả năng sẽ cùng Mỹ phát động một cuộc chiến Không - Hải chống Trung Quốc".
 
Nguồn: Infonet  -  calitoday

Wednesday, June 26, 2013

Bùi Viện/Lê Kim

Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ

 
Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này
 
Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này. Nhưng trong cuốn sách "con đường thiên lý" (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
 
 Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ
 
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
 
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hòa Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
 
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh - Phát - Lan - Xích - Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
 
Trong cuốn sách La Rueé Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
 
Thời đó, "Wild West" (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
 
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp.
 
Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là "Oh! Suzannah" (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
 
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.
 
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
 
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
 
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
 
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ông.
 
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
 
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
 
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: "gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về", Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.
 
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.
 
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandìere chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: "Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần". Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:
 
 "Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế".
 
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19
 
(Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê)

Tuesday, June 25, 2013

CT. Trần Quang Khôi

TRẬN ĐÁNH ĐỨC HUỆ
 
Tình hình chung ở Vùng 3 Chiến Thuật.

Sau khi ký kết Hiệp Định Paris đầu năm 1973, Quân đội Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (MNVN) bắt đầu rút quân về nước(Right,CT. Trần Quang Khôi). Các đơn vị chủ lực của CSVN ở Vùng 3 Chiến Thuật gồm có 3 Sư Đoàn Bộ binh: 5, 7, 9 và các đơn vị đặc công ém quân bên kia biên giới Việt Miên thường xuyên xâm nhập vào lãnh thổ nước ta quấy nhiễu hoặc bao vây tấn công các đồn biên phòng của chúng ta dọc theo biên giới ở các tỉnh Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bình Long và Phước Long.

 Chủ lực của Quân Đoàn III gồm có 3 Sư Đoàn Bộ Binh 5, 18, 25 và Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh được sự yểm trợ trực tiếp của Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh 155 ly, Tiểu Đoàn 61 PB 105 ly và Liên Đoàn 30 Công Binh dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, một mặt phải lo dàn mỏng quân ra thay thế Lực lượng II Dã chiến Hoa Kỳ để bảo vệ lãnh thổ chống lại chủ trương “dành dân lấn đất” của Cộng Sản sau khi Hiệp Định Paris ra đời.

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Quân Đoàn III phạm sai lầm rất lớn về tổ chức và sử dụng lực lượng là giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III và phân tán nát Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ra từng mảnh nhỏ sau khi tôi rời Lữ Đoàn đi du học ở Hoa Kỳ năm 1972.

Hai sự kiện đó làm cho Quân Đoàn III bị suy yếu trầm trọng và hoàn toàn bị mất đi tính di động. Vì thế mà Lộc Ninh bị địch chiếm và các đồn biên phòng ở Tây Ninh lần lượt bị lọt vào tay địch.

Tháng 7 năm 1973 tôi từ Mỹ trở về nước. Trung Tướng Phạm Quốc Thuần cũng vừa thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Minh đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân Đoàn III. Ông nghe tiếng tôi đã từng chỉ huy Chiến Đoàn 318 và Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đánh thắng nhiều trận lớn trên chiến trường Campuchia từ thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí trong 2 năm 1970-1971, nên vận động xin tôi về trở lại Quân Đoàn III với ông. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, tôi nhận quyền chỉ huy Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh ở Biên Hòa.

Việc đầu tiên là tôi gom các đơn vị Thiết Giáp bị phân tán về lại Lữ Đoàn và trình Trung Tướng Thuần gấp rút tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III (LLXKQĐIII) theo mô hình tổ chức của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền hành động.

Tình hình quân sự ngày càng nặng sau khi quân Mỹ rút đi. Trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, nhiều chiến xa T-54 địch xuất hiện lần đầu tiên ở miền Nam trên chiến trường ở An Lộc, nên tôi tiên đoán chiến trường tương lai chiến xa địch có thể xuất hiện ở Biên Hòa; tôi xin Quân Đoàn trang bị cho tất cả các đơn vị Địa Phương Quân ở Biên Hòa súng phóng hỏa tiễn M72 chống chiến xa, được phép huấn luyện họ sử dụng loại vũ khí này và huấn luyện họ phối hợp tác chiến với Thiết Giáp, đồng thời tích cực tổ chức địa thế chống chiến xa địch chung quanh thành phố Biên Hòa.

Các đường xâm nhập vào thành phố đều được thiết kế đặt mìn chống chiến xa và hầm hào chống chiến xa địch. Chính nhờ nỗ lực này của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh mà sau này trong “Chiến Dịch Hồ Chí Minh” năm 1975 của Cộng Sản Bắc Việt, Quân Đoàn 4 CS đã thất bại trong kế hoạch đánh chiếm tỉnh Biên Hòa và Sư Đoàn 341 CS bị quân ta đánh bại ở Biên Hòa trong ngày 30-4-1975.

Tôi ra sức cải tổ lại Lữ Đoàn 3 KB cho phù hợp với địa thế Việt Nam. Mỗi chi đội chiến xa có 3 chiến xa M48 thay vì 5 chiếc. Tôi cơ động hóa Pháo Binh bằng cách dùng xe xích M548 biến cải chở pháo 105 ly.

Tôi tái tổ chức Lực Lượng Xung Kích QĐIII thành một đại đơn vị liên binh Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Pháo Binh, Công Binh hoàn toàn cơ động gồm 3 Chiến Đoàn : 315, 318 và 322. Và sau 4 tháng sửa chữa, thay đổi và huấn luyện LLXKQĐIII đã trở thành một đại đơn vị cơ động tinh nhuệ .

2. Tình hình khẩn cấp khi Căn Cứ Đức Huệ bị vây hãm:

Căn Cứ Đức Huệ nằm khoảng 56 km hướng Tây Bắc Sài Gòn gần biên giới Việt Miên thuộc quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa do Tiểu Đoàn 83 BĐQ Biên phòng trấn giữ với quân số trên dưới 420 người cùng với gia đình vợ con binh sĩ vào khoảng 80 người sống trong căn cứ nguyên là một trại Lực lượng Đặc biệt của Mỹ để lại.

Tiểu Đoàn trưởng là Thiếu Tá Hoa Văn Hạnh. Khi xảy ra trận chiến thì Thiếu Tá Hạnh đi nghỉ phép vắng mặt. Thiếu Tá Nguyễn Văn Bảo, Tiểu Đoàn phó thay thế chỉ huy.Tiểu Đoàn 83 BĐQ có 4 Đại Đội tác chiến và 1 Đại Đội Công vụ.

Được tin tình báo VC sẽ đến đánh căn cứ, Thiếu Tá Nguyễn Văn Bảo cho 3 Đại Đội tác chiến ra ngoài căn cứ để bố trí các tiền đồn an ninh xa và hành quân tìm và diệt địch ngoài. Còn lại một Đại Đội trừ bị bố phòng trong căn cứ.

Đêm 27- 3 -1974, một đại đội Đặc Công CS xâm nhập được vào bên trong Căn Cứ Đức Huệ, chúng chiếm được một góc trong căn cứ. Ngay từ những phát súng nổ đầu tiên, Thiếu Tá Bảo bị thương ở chân nên gọi 3 Đại Đội tác chiến bên ngoài gấp rút trở về. Tiểu Đoàn tập trung lại phản công quyết liệt.

Bên ngoài căn cứ, Sư Đoàn 5 CS (Công Trường 5) bao vây chặt; pháo binh địch tập trung hỏa lực pháo kích vào căn cứ rất dữ dội. Bên trong căn cứ Biệt Động Quân và Đặc Công CS cận chiến giành nhau từng vị trí một, đánh nhau bằng lưỡi lê và lựu đạn. Đến sáng thì đại đội Đặc công CS bị quân ta tiêu diệt hết.

Tiểu Đoàn 83 BĐQ tổ chức lại phòng thủ, sử dụng Pháo Binh của Tiểu Khu Hậu Nghĩa bắn yểm trợ hỏa lực chung quanh căn cứ. Trong khi đó các Đại Đội tác chiến BĐQ bố phòng chặn đứng các đợt xung phong bên ngoài của các đơn vị bộ binh Sư Đoàn 5 CS. Hai bên giao chiến ác liệt ngày đêm không ngừng nghỉ.

Tiểu Đoàn 36 BĐQ do Thiếu Tá Lê Quang Giai chỉ huy được tăng phái tiến về Căn Cứ Đức Huệ bị phục binh của Sư Đoàn 5 CS buộc Tiểu Đoàn phải thối lui lại gần bờ sông Vàm Cỏ.

BTL/ Quân Đoàn III liền điều động Liên Đoàn 33 BĐQ do Trung Tá Lê Tất Biên phụ trách và tăng phái thêm cả Tiểu Đoàn 64 BĐQ.  

Liên đoàn cho trực thăng vận 50 lính Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ xuống Căn Cứ Đức Huệ tăng cường cho Tiểu Đoàn 83 BĐQ. Đồng thời Tiểu Đoàn 64 BĐQ nhập với Tiểu Đoàn 36 BĐQ làm 2 cánh quân tiến song song về hướng Căn Cứ Đức Huệ ở cách đó chừng 10 cây số về hướng Tây.

Tiến được chừng 2 cây số Liê n Đoàn 33 gặp 1 trung đoàn Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 5 CS từ những hầm hào đào sẵn xông lên tấn công mạnh và pháo binh địch tập trung hỏa lực bắn xối xả vào gây tổn thất nặng.
Cuối cùng 2 Tiểu Đoàn 64 và 36 BĐQ buộc phải gom quân rút lui về lại bên này bờ sông Vàm Cỏ.

3.- Sư Đoàn 25 BB hành quân giải tỏa:

Bộ Tư lệnh QĐIII giao nhiệm vụ cho Sư Đoàn 25 BB do Đại Tá Nguyễn Hữu Toán chỉ huy, tổ chức hành quân giải tỏa Căn Cứ Đức Huệ. Đại Tá Toán liền điều động các đơn vị thuộc Sư Đoàn đang hành quân trong vùng lân cận biên giới từ phía Bắc đến giải tỏa (xem hình 1). Một căn cứ hỏa lực được thành lập tại làng Phước Chỉ thuộc tỉnh Tây Ninh. Căn cứ này nằm cách biên giới khoảng 2 Km về phía Nam đồn biên giới An Hòa và cách Căn Cứ Đức Huệ khoảng 13 Km về phía Bắc.

Ngoài Tiểu Đoàn Pháo Binh 105 ly cơ hữu Sư Đoàn phối trí trong căn cứ Phước Chỉ, còn có Trung đoàn 46/SĐ25 BB được tăng cường Chi đoàn 3/10 Thiết kỵ. Chi đoàn trưởng Chi đoàn này là Đại Úy Trần Văn Hiền. Tất cả lực lượng liên binh này được đặt dưới quyền điều động của Trung Tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng Trung đoàn 46 BB và được giám sát chỉ huy bởi Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 25 BB ở Củ Chi.

Để đối phó với đoàn quân giải tỏa của Sư Đoàn 25 BB, quân địch đã chủ động tổ chức địa thế, bố trí quân chờ đánh quân tiếp viện, chúng đặt các chốt chặn trên trục tiến quân của ta, đồng thời Pháo Binh tầm xa của chúng nằm sâu bên kia biên giới mở những trận địa pháo chính xác, liên tục và ác liệt gây nhiều thương vong cho Trung đoàn 46 BB, làm tê liệt các cánh quân, nên kế hoạch giải tỏa của Sư Đoàn 25 BB thất bại.

Một phi cơ quan sát L19 bị phòng không địch bắn rơi gần đó, Trung đoàn cũng không tiếp cứu nổi phi hành đoàn. Sau đó quân địch pháo kích tập trung hỏa lực thẳng vào căn cứ Phước Chỉ bằng hỏa tiễn 107 ly và 122 ly khiến Trung Tá Cao Xuân Nhuận, trung đoàn trưởng Trung đoàn 46/SĐ25 BB bị tử thương.

Trong suốt thời gian gần một tháng trời, quân bạn không đem lại một kết quả khả quan nào, hàng ngày vẫn bị pháo kích dồn dập, trực thăng tản thương và tiếp tế bị bắn rớt ngay trong căn cứ, một khu trục Skyraider yểm trợ hành quân và một DC3 thả dù tiếp tế bị hỏa tiễn SA 7 bắn rớt.

Những cánh dù mang lương thực và đạn dược cho Căn Cứ Đức Huệ thường bay ra ngoài vòng rào và lọt vào tay quân địch. Như vậy là cả hai nỗ lực từ phía sông Vàm Cỏ Đông của BĐQ qua và từ phía Bắc của Sư Đoàn 25 BB xuống đều bị thất bại trong việc tiếp cứu Tiểu Đoàn 83 BĐQ:
 
4.- Những Anh hùng Alamo Việt Nam:

Bên trong căn cứ các chiến sĩ Tiểu Đoàn 83 BĐQ và Đại Đội 3 của Tiểu Đoàn 64 BĐQ dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Văn Bảo chiến đấu vô cùng dũng mãnh, càng đánh càng hăng từ lúc đầu cận chiến với đặc công địch bằng lưỡi lê và lựu đạn bên trong căn cứ cho đến về sau này phải chiến đấu đẩy lui các đợt xung phong của địch ngày đêm không ngừng nghỉ.

Cuối cùng lương thực và đạn dược bắt đầu cạn, căn cứ bị cô lập không được tiếp tế, không tản thương được, nhưng không vì thế mà tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ BĐQ bị suy giảm. Họ thề quyết tử chiến với quân thù.

Gia đình vợ con của các chiến sĩ BĐQ trong căn cứ cũng tích cực tham gia chiến đấu bên cạnh chồng cha họ. Họ cổ võ, họ giúp tản thương, cứu thương, tiếp tế đạn dược và lo cơm nước. Có người còn cầm súng chiến đấu vô cùng dũng cảm. Mặc dù tỷ lệ quân số giữa ta và địch quá chênh lệch, quân địch không sao dứt điểm được. Xác địch chồng chất ngổn ngang bên trong và bên ngoài Căn Cứ Đức Huệ.

So sánh sự tử thủ nổi tiếng của quân đội Mỹ ở đồn binh “Alamo” năm 1836 do Trung Tá William Barret Travis chỉ huy với quân số 189 người chống lại sự bao vây và tấn công của hơn 2,000 quân Mễ với tỷ lệ quân số hai bên là 1/11. Sau 13 ngày đêm tử chiến, đồn binh bị quân địch tràn ngập. Tất cả 189 chiến sĩ trong đồn binh đều tử trận, chỉ còn sống sót 14 người là đàn bà và trẻ con. Khoảng 1,600 quân Mễ bị giết.

Hoặc so sánh sự tử thủ nổi tiếng của quân Lê-Dương Pháp ở làng “Camerone” ngày 30-4-1863 với 65 chiến sĩ do Đại Úy Danjou chỉ huy chống lại sự bao vây và tấn công của 2,000 quân Mễ với tỷ lệ quân số hai bên là 1/34. Sau 11 giờ tử chiến, quân Lê-Dương Pháp giết hơn 300 quân Mễ, vị trí phòng thủ bị tràn ngập, 62 quân Lê-Dương Pháp bị giết, chỉ còn sống sót 3 người bị trọng thương.

Tiểu Đoàn 83 BĐQ phòng thủ trong Căn Cứ Đức Huệ với quân số khoảng 420 người được tăng cường 50 người của Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ. Tổng cộng quân số là 470 người chống lại sự bao vây và tấn công của hơn 6,500 quân của Sư Đoàn 5 CS với tỷ lệ quân số đôi bên là 1/13.

Sau hơn 1 tháng chiến đấu quyết liệt từ ngày 27-3-1974 đến ngày 28-4-1974, Cá c BDQ đã giữ vững vị trí phòng thủ, giết hơn 200 quân địch và gây thương tích cho khoảng 500 tên khác. Tổn thất bên BĐQ là 24 chết và hơn 100 người bị thương.

Mặc dù thời đại có khác nhau, mẫu số chung của những anh hùng ở Alamo, Camerone và Đức Huệ là sự quyết tâm tử thủ bằng mọi giá. Với tỷ lệ quân số đôi bên chênh lệch như thế, họ vẫn hiên ngang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, đến hơi thở cuối cùng.

Có thể nói không quá đáng là những chiến sĩ Biệt Động Quân chiến đấu ở Căn Cứ Đức Huệ đích thật là những “Anh hùng Alamo Việt Nam”.

Sự chiến đấu kiên cường và dũng cảm của BĐQ ở Căn Cứ Đức Huệ còn chứng minh hùng hồn cho thế giới thấy rằng tinh thần và khả năng chiến đấu của quân lực chúng ta không thua bất cứ quân đội tân tiến nào trên thế giới.

Một số người thiển cận và một số dư luận báo chí kỳ thị của Mỹ cho rằng khi Quân đội Mỹ rút đi khỏi Miền Nam Việt Nam thì Quân Lực VNCH thiếu tinh thần chiến đấu đưa đến việc mất Miền Nam Việt Nam.

Nhận định này là vô lý và hoàn toàn sai sự thật. Mất Miền Nam Việt Nam rõ ràng là vì quân ta thiếu phương tiện chiến đấu chứ không phải thiếu tinh thần chiến đấu.

5. Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh hay Lực Lượng Xung Kích QĐ3 Xuất Trận:

Vấn đề vô cùng khẩn trương lúc đó là việc tản thương, cứu thương và tiếp tế lương thực, nước uống, đạn dược cho Căn Cứ Đức Huệ trong lúc mọi đường giao thông liên lạc vào căn cứ đều bị Sư Đoàn 5 CS hoàn toàn cắt đứt nhiều ngày. Căn cứ bị cô lập và bị bao vây chặt. Tình hình bên trong căn cứ rất căng thẳng.

51.- Ngày 17-4-1974. Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân Đoàn III, cho gọi tôi. Lúc bấy giờ tôi đang chỉ huy Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh hành quân thám sát “Khu Tam Giác Sắt” và “Vùng Hố Bò”, sau khi Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Dư Ngọc Thanh đập tan Tiểu Đoàn Tây Sơn thuộc Trung đoàn 101 Địa phương Việt Cộng giải tỏa áp lực địch chung quanh đồn Bò Cạp và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng của tỉnh Tây Ninh.

Tôi lên trực thăng chỉ huy bay về Biên Hòa trình diện Trung Tướng Tư lệnh Quân Đoàn. Ông tiếp tôi và cho tôi biết qua tình hình địch và bạn và tình trạng hiện nay bên trong Căn Cứ Đức Huệ. Sau đó Trung Tướng ra lệnh cho tôi lấy trực thăng bay qua Đức Hòa xem xét tình hình chiến sự bên đó rồi về trình cho ông biết ý kiến.

Tôi liền lên trực thăng bay qua Đức Hòa. Trên đường bay, tôi mải mê lo nghĩ phải làm gì để đối phó với Sư Đoàn 5 CS đây? Linh tính cho tôi biết có thể tôi sẽ được Bộ Tư lệnh Quân Đoàn chỉ định giải quyết tình trạng nguy kịch ở Căn Cứ Đức Huệ. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn. Cách đánh của quân địch từ trước tới nay vẫn là “Công Đồn Đả Viện”.

Địch chủ động tổ chức chiến trường nhiều ngày chờ ta đến. Pháo binh tầm xa của chúng bố trí an toàn bên kia biên giới và sẵn sàng mở những trận địa pháo chính xác và ác liệt khó lọt qua được. Địch lại nắm ưu thế về quân số và địa thế.

Ta có lực lượng Thiết Giáp hùng hậu, ta làm chủ không phận và có không lực yểm trợ mạnh mẽ. Nhưng gần đây, quân địch được trang bị nhiều vũ khí tối tân của Liên Sô như hỏa tiễn phòng  không tầm nhiệt SA7 đã gây cho Không Lực ta nhiều tổn thất đáng kể, và hỏa tiễn chống chiến xa AT3, một loại hỏa tiễn lợi hại có bộ phận điều khiển giống hỏa tiễn TOW chống xe tăng của Mỹ. Tôi đã từng gặp hỏa tiễn AT3 này một lần trên chiến trường Campuchia.

Mải mê suy nghĩ, trực thăng đáp xuống sân bay Đức Hòa lúc nào không biết khi một loạt đạn pháo kích của địch nổ chát chúa chung quanh trực thăng làm tôi giật mình bừng tỉnh. Tôi cầm bản đồ phóng nhanh xuống đất và ra dấu cho trực thăng bay đi.

Tôi vội lên xe Jeep đang chờ và cho tài xế chạy nhanh đến nhà máy đường Hiệp Hòa là nơi Bộ Chỉ huy Liên Đoàn 33 BĐQ đang tạm đóng. Tôi leo lên tầng cao nhất của nhà máy. Ở đây nhìn ra ngoài, ta thấy con sông Vàm Cỏ Đông uốn khúc bên dưới. Bên kia sông là một dãy đất trải dài xa tắp đến tận biên giới Việt Miên.

Trung Tá Lê Tất Biên, Liên Đoàn trưởng Liên Đoàn 33 BĐQ, tiếp tôi và thuyết trình cho tôi rõ tình hình của cánh quân BĐQ ở phía Đông Căn Cứ Đức Huệ. Sau khi vượt sông Vàm Cỏ Đông thất bại, Tiểu Đoàn 36 BĐQ và Tiểu Đoàn 64 BĐQ đang tổ chức lại hàng ngũ, bổ sung quân số và chờ lệnh mới của Bộ Tư lệnh Quân Đoàn.

52.- Kế hoạch hành quân của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh.

Rời Bộ Chỉ huy của Liên Đoàn 33 BĐQ, tôi lên trực thăng bay về hướng biên giới. Tôi cho trực thăng bay thật cao để có cái nhìn tổng quát bên dưới và cũng để đề phòng phòng không của địch bố trí dày đặc ở bên dưới. Bay qua khỏi sông Vàm Cỏ Đông là đến vùng biên giới Việt Miên.

Bên này biên giới là một dãy đất bằng phẳng sình lầy, chi chít những kinh lạch gần giống như vùng Đồng Tháp Mười ở Miền Tây. Xa xa trên đất Miên là những làng mạc rải rác vắng vẻ. Nằm xa tít về hướng Nam là Căn Cứ Đức Huệ lẻ loi, cô độc. Tôi cho trực thăng bay sâu vào đất Miên. Thị trấn ChiPu của Campuchia xuất hiện ở phía trước. Về phía Nam một chút, có một khu rừng chừng 10 mẫu Tây gây sự chú ý của tôi.

Tôi chợt nhớ lại cách đó 4 năm, trong cuộc hành quân “Toàn Thắng 42″ cuối tháng 4-1970, tôi có đi qua khu rừng này và tôi biết rất rõ địa thế phía Nam của Thị trấn ChiPu. Và trong chớp mắt, tôi thấy ngay là phải hành động như thế nào để đánh bại Sư Đoàn 5 CS, cứu Tiểu Đoàn 83 BĐQ ở Căn Cứ Đức Huệ.
 
Quả thật giản dị đúng như Napoléon nói: “La guerre est un art simple et tout d’exécution” (Chiến tranh là một nghệ thuật giản dị và tất cả là cách thực hiện trên chiến trường). Trong đầu tôi hiện ra cách thực hiện một kế hoạch hành quân giản dị trong đó hành động táo bạo, nhanh chóng và hoàn toàn bất ngờ là chìa khóa của thắng lợi. Lòng tôi cảm thấy nhẹ nhỏm.

Trở về hậu cứ của Lữ Đoàn ở Biên Hòa, tôi liền tự tay phác họa ra kế hoạch phản công trong vòng 20 phút. Đặc điểm của kế hoạch này là sự giản dị tối đa và bất ngờ: Toàn bộ Lực Lượng Xung Kích QĐ3 sẽ cùng tôi bí mật tiến sâu vô lãnh thổ Campuchia về hướng ChiPu. 

Nỗ lực chính là đột kích đêm vào hậu tuyến của Sư Đoàn 5 CS từ hướng Nam ChiPu. Phải hết sức giữ bí mật và hành động thật nhanh, tập trung toàn bộ sức mạnh của Thiết Giáp, khai thác tối đa tốc độ và “Shock Action” trên trận địa, không cho địch trở tay kịp.

Tôi cầm kế hoạch trong tay đi lên Bộ Tư lệnh Quân Đoàn gặp Trung Tướng Phạm Quốc Thuần. Ông tiếp tôi và tôi xin được trình bày. Tôi trải tấm bản đồ 1/50,000 ra bàn. Ông chăm chú lắng nghe tôi nói: “Sáng nay, theo lệnh Trung Tướng, tôi đã bay đi thám sát mặt trận ở Đức Hòa   Đức Huệ. Tình hình rất xấu, chúng ta phải hành động ngay, sợ không kịp vì Căn Cứ Đức Huệ bị vây hãm từ 27-3 đến nay hơn 20 ngày. Tiếp tế và tản thương cho Căn Cứ Đức Huệ bị địch cắt đứt hoàn toàn.

Tôi xin đề nghị lên Trung Tướng là sử dụng LLXKQĐ3 phản công ở Căn Cứ Đức Huệ. Kế hoạch phản công của tôi có 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1, Hành quân lừa địch: Từ ngày N-6 đến ngày N: Rút LLXKQĐIII đang hành quân thám sát trong tỉnh Tây Ninh về khu Comi ở Lái Thiêu (Thủ Đầu Một). Tôi sẽ tung tin là LLXKQĐIII sẽ di chuyển lên Xuân Lộc (Long Khánh). Mục đích của cuộc điều quân này là làm cho quân địch tưởng là lực lượng Thiết Giáp sẽ rút đi đến một nơi khác.

Giai đoạn 2, Hành quân phản công: Từ ngày N: Xuất quân đêm, trở lên Gò Dầu Hạ, vượt biên giới tiến sâu vào lãnh thổ Campuchia về hướng ChiPu. Sau đó chuyển sang hướng Nam ChiPu, dựa vào đêm tối tấn công toàn lực vào hậu tuyến của Sư Đoàn 5 CS bố trí ở phía Tây Căn Cứ Đức Huệ.

Sau khi tôi trình bày xong, Trung Tướng có vẻ băn khoăn lo lắng. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói: Tôi lo kế hoạch này của anh sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về chính trị. Vì như thế là chúng ta xâm phạm vào lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền. Chính phủ Campuchia sẽ có phản ứng và Liên Hiệp Quốc chắc chắn sẽ lên tiếng phản đối. Tôi sẽ gặp khó khăn.

- Nhưng thưa Trung Tướng, CSBV đâu có tôn trọng chủ quyền của Campuchia. Chúng đang sử dụng lãnh thổ của Campuchia để tấn công chúng ta. Tôi đáp lại.

- Đúng vậy, nhưng đây là một vấn đề rất tế nhị. Anh có thể làm một kế hoạch khác được không? Ông hỏi tôi.

Tôi liền đáp:

- Thưa Trung Tướng, tôi đã xem xét kỹ tình hình và địa thế, tôi nghĩ chỉ có kế hoạch này chúng ta mới đánh bại Sư Đoàn 5 CS, cứu Tiểu Đoàn 83 BĐQ ở Căn Cứ Đức Huệ.

Ông trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói: - Thôi được, tôi sẽ trình kế hoạch này của anh lên Tổng Thống để ông quyết định .Nếu được chấp thuận, anh sẽ chỉ huy cuộc hành quân này. Hãy về chuẩn bị lực lượng.

Trên đường về Lữ Đoàn, tôi nghĩ chắc rồi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ chấp thuận vì chúng ta không thể vì lo ngại Liên Hiệp Quốc mà hy sinh sinh mạng của hơn 500 chiến sĩ BĐQ và gia đình họ ở Căn Cứ Đức Huệ.

Trong lòng tôi rất vui mừng và biết ơn được vị tư lệnh Quân Đoàn tín nhiệm. Đây là lần đầu tiên tôi có trong tay sự tập trung một lực lượng Thiết Giáp lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam và cũng là lần đầu tiên tôi được cho toàn quyền hành động để đương đầu trực diện với một Sư Đoàn CS kể từ khi Hiệp Định Paris ra đời.

Tôi vừa được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp tướng một sao cùng với các anh Nguyễn Văn Điềm Sư Đoàn 1 BB, Phạm Ngọc Sang Không quân, Hoàng Cơ Minh Hải quân. . . Đây là dịp tôi muốn chứng tỏ khả năng chỉ huy của mình và muốn chứng tỏ một đại đơn vị Thiết Giáp biết sử dụng tập trung là một vũ khí lợi hại có thể đánh bại các đại đơn vị CS trong thế công cũng như trong thế thủ.

Ngày 20-4-1974, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận Kế hoạch Hành quân của tôi, đồng thời ra lệnh cho Không lực VNCH trực tiếp yểm trợ tác chiến cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh 120 phi xuất (Tactical Air Support) từ ngày N đến ngày N+3 theo yêu cầu của tôi. Tôi chọn ngày N là ngày 28-4-1974.

53.- Công tác chuẩn bị:

Ngày 21-4-1974, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn III triệu tập buổi họp hành quân ở Biên Hòa do Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân Đoàn III chủ tọa. Có mặt Bộ Tham Mưu Quân Đoàn, Bộ Chỉ huy 3 Tiếp Vận và 3 tư lệnh Sư Đoàn 5, 18, 25: Đại Tá Lê Nguyên Vỹ,  Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Đại Tá Nguyễn Hữu Toán.

Sau khi Bộ Tham Mưu trình bày tình hình chung ở Vùng 3 Chiến thuật và tình hình đặc biệt ở Căn Cứ Đức Huệ, Trung Tướng tư lệnh Quân Đoàn tuyên bố chỉ định tôi thay thế tư lệnh Sư Đoàn 25 Bộ binh chỉ huy mặt trận Đức Hòa – Đức Huệ và sử dụng LLXKQĐ3 phản công, giải vây Căn Cứ Đức Huệ. Tôi đứng lên trình bày ngắn gọn trước hội nghị Kế hoạch Hành quân vượt biên đêm của LLXKQĐIII ở Gò Dầu Hạ và Hành quân Phản công của LLXKQĐIII trên lãnh thổ Campuchia .

Theo nhu cầu hành quân của tôi, các đơn vị sau đây được Trung Tướng tư lệnh Quân Đoàn III chỉ định tăng phái cho Lữ Đoàn 3 KB đễ nằm trong tổ chức của LLXKQĐ3:

-Tiểu Đoàn 64 BĐQ đi với Thiết Đoàn 15 KB, thành phần nòng cốt của Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Dư Ngọc Thanh chỉ huy.

- Tiểu Đoàn 36 BĐQ đi với Thiết Đoàn 18 KB, thành phần nòng cốt của Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Phan Văn Sĩ chỉ huy.

-1 Đại Đội Bộ binh thuộc Tiểu Đoàn 1/43 (Sư Đoàn 18 BB) đi với Thiết Đoàn 22 Chiến xa, thành phần nòng cốt của Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy.

- Thiết Đoàn 10 KB (Sư Đoàn 25 BB) + Tiểu Đoàn 1/43 BB (-) (Sư Đoàn 18 BB) + 1 Chi đội Chiến xa M48 thuộc Thiết Đoàn 22 Chiến xa do Trung Tá Trần Văn Nhuận chỉ huy.

- Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh 105 ly + 1 Pháo đội 155 ly thuộc Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh do Thiếu Tá Hoa Vạn Thọ chỉ huy.

- Tiểu Đoàn 302 thuộc Liên Đoàn 30 Công binh do Thiếu Tá L?m Hồng Sơn chỉ huy; một Trung đội Điện tử (Quân Đoàn) do Thiếu Tá Hiển, Trưởng phòng 2 Lữ Đoàn kiểm soát.

- 1 Trung đội Truyền Tin Siêu tần số (Quân Đoàn) do Trung Úy Bùi Đình Lộ Trưởng phòng Truyền tin Lữ Đoàn giám sát.

- 1 Đại Đội yểm trợ Tiếp Vận thuộc Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận do thượng sĩ Nhất Phan Thanh Nhàn (Quân cụ) chỉ huy.

Ngoài ra Trung Tướng còn ra lệnh cho 3 tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh cho tôi mượn 6 giàn hỏa tiễn chống xe tăng TOW để phân phối cho mỗi Chiến Đoàn Thiết Giáp vượt biên và 2 giàn hỏa tiễn TOW gắn trên xe Thiết vận xa M113 đề phòng trường hợp có chiến xa T 54 của địch xuất hiện trên chiến trường Campuchia.

Trước khi kết thúc buổi họp, Trung Tướng tư lệnh Quân Đoàn chúc tôi thành công trong nhiệm vụ giao phó. Tôi đứng lên đáp lời cám ơn Trung Tướng. Lúc đó trong lòng tôi có một sự tin tưởng mãnh liệt vào chiến thắng của cuộc hành quân này, nên tự nhiên tôi buột miệng thốt ra:

-Thưa Trung Tướng, chúng tôi sẽ đánh bại Sư Đoàn 5 Cộng Sản!

Trên đường về Lữ Đoàn, tôi giật mình khi nghĩ lại những lời mình vừa nói. Tại sao tôi dám liều lĩnh khẳng định trước hội nghị là sẽ đánh bại Sư Đoàn 5 Cộng Sản? Mặc dù tôi có trong tay LLXKQĐ3 là một lực lượng chiến đấu tinh nhuệ chưa từng bị thất trận và mặc dù tôi đã nắm chặt trong tay những yếu tố có tính cách quyết định thắng lợi, nhưng vẫn còn 2 yếu tố khác ngoài tầm tay có thể làm tôi bị thất bại trong cuộc hành quân này. Đó là thời tiết và kế hoạch hành quân bị bại lộ.

Thật vậy, nếu đến ngày N là ngày xuất quân trời đổ mưa trong vùng hành quân, địa thế trở nên lầy lội, tôi sẽ không thể điều động lực lượng Thiết Giáp như ý muốn được, hoặc kế hoạch hành quân của tôi được trình lên phủ Tổng Thống để xin quyết định, nếu bị tiết lộ ra ngoài, chắc chắn sẽ đưa tôi đến thảm bại. Cứ nghĩ đến 2 yếu tố này là tôi không ăn ngủ được.

Tôi thấy hối tiếc đã thốt ra những lời khẳng định trước là sẽ đánh thắng quân địch. Lời khẳng định này cứ ám ảnh tôi ngày đêm. Cuối cùng tôi tự nhủ: phải giữ đúng lời hứa; bằng mọi cách, mọi giá, phải đánh thắng Sư Đoàn 5 Cộng Sản.

Ngày 22-4-1974, tôi ra lệnh cho toàn bộ LLXKQĐ3 đang hành quân thám sát trong Chi Khu Khiêm Hanh thuộc tỉnh Tây Ninh rút quân về đóng ở Khu Còmi thuộc quận Lái Thiêu tỉnh Bình Dương (Thủ Đầu Một).

Tôi cho phao tin là LLXKQĐ3 sẽ di chuyển qua Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh. Mục đích của cuộc rút quân này là để đánh lừa địch, làm cho chúng tưởng là quân Thiết Giáp sẽ rút đi luôn không trở lại.

Tôi cho trung đội điện tử thường xuyên nghe lén và theo dõi địch trao đổi tin tức với nhau. Khi LLXKQĐ3 vừa rút đi khỏi Gò Dầu Hạ về Lái Thiêu thì đài tình báo của địch ở An Hòa, Gò Dầu lên tiếng báo cáo:

Quân Thiết Giáp đã rút đi. Tôi biết chắc là chúng đã bị mắc lừa.

Từ ngày 22-4-74 đến ngày 28-4-74, trong 6 ngày này đóng quân ở Khu Còmi quận Lái Thiêu, các Chiến Đoàn 315, 318 và 322 theo lệnh tôi ra sức ôn tập hợp đồng tác chiến giữa Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Pháo Binh từ cấp Trung đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, Chiến Đoàn thật nhuần nhuyễn.

Riêng tôi trong 6 ngày đó, tôi tích cực không ngừng làm công tác tư tưởng. Karl Max nói: “Nếu tư tưởng được đả thông, mọi người đều giác ngộ thì sức mạnh vật chất sẽ tăng lên gấp đôi.” Kinh nghiệm chiến trường cho tôi thấy tinh thần hăng say làm tăng sức mạnh của đơn vị lên gấp bội. Động viên được sự chiến đấu của toàn quân là yếu tố số một của thắng lợi.

Tôi lần lượt đi xuống họp với các cấp chỉ huy Trung đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn của các binh chủng và với các Chiến Đoàn trưởng, nói rõ tình hình của ta và địch, nói rõ nhiệm vụ và cách đánh của LLXKQĐ3 để mọi người đều thông suốt và tin tưởng sự tất thắng của chúng ta.

Tôi thuyết phục họ tin ở sự chỉ huy của tôi và nói rõ sự quyết tâm của tôi là phải chiến thắng bằng mọi giá. Tôi động viên họ, tôi nói đến tình đồng đội:  Chúng ta không thể bỏ rơi đồng đội của mình đang bị địch bao vây và mong chờ chúng ta đến cứu họ.

Tôi nhắc đến những chiến thắng vẻ vang năm xưa thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí:

- Chúng ta đã từng gặp nhiều trận khó khăn gây cấn hơn trận này, chúng ta đều chiến thắng, đều vượt qua.

Mỗi lần nói chuyện với các sĩ quan thuộc cấp tôi đều kết luận:

- Kỳ này nhất định phải chiến thắng, tôi sẽ cùng đi với các anh, kỳ này nếu thất bại thì tất cả chúng ta kể cả tôi, sẽ không một ai trở về Việt Nam. Ý của tôi, quyết tâm của tôi đã rõ ràng: một là chiến thắng trở về, hai là chết trên đất Miên. Không có con đường nào khác.

54. Veni, Vidi, Vici:

1. Ngày N đã đến. Đó là ngày 28-4-1974.

Chiều ngày 28-4-1974, Công Binh đã sẵn sàng; Thiếu Tá Lâm Hồng Sơn, Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 302 CB, theo lệnh tôi đã kín đáo cho bố trí từ chiều tối ngày hôm trước ở hai bên bờ sông Gò Dầu Hạ, gần cầu, các phà cao su để đưa chiến xa M48 qua sông. Lúc 20:00 giờ, tôi cải trang đích thân đến tận 2 bờ sông Gò Dầu Hạ kiểm tra Công Bbinh làm công tác chuẩn bị cho chiến xa vượt sông.

Đúng 22:00 giờ đêm, toàn bộ LLXKQĐIII gồm 3 Chiến Đoàn 315, 318 và 322 cùng Bộ Chỉ huy nhẹ Lữ Đoàn và Pháo Binh Lữ Đoàn bắt đầu rời vùng tập trung ở Lái Thiêu (Thủ Đầu Một) di chuyển bằng đèn mắt mèo và im lặng truyền tin trực chỉ Gò Dầu Hạ.

2. Ngày 29-4-1974, lúc 00:00 giờ.

Các chiến xa M48 bắt đầu xuống phà qua sông Gò Dầu Hạ. Các loại xe xích khác và xe chạy bánh qua cầu Gò Dầu Hạ theo Quốc lộ 1 trực chỉ ra hướng biên giới Việt Miên.
Từ 01:00 giờ sáng đếnn 03:00 giờ sáng, các Chiến Đoàn, Bộ Chỉ huy nhẹ Lữ Đoàn và Pháo Binh Lữ Đoàn lần lượt vượt biên sang lãnh thổ Campuchia và vào vùng tập trung nằm sâu trong đất Miên về hướng Đông Nam thị trấn Chipu.

Đến 03:15 giờ, tất cả các đơn vị đã bố trí xong, trong vùng tập trung, sẵn sàng chờ lệnh xuất phát. Trung đội điện tử theo dõi nghe địch, không thấy chỉ dấu gì chúng nghi ngờ.

Đúng 03:30 giờ, tôi ra lệnh cho hai Chiến Đoàn 315 và 318 vượt tuyến xuất phát, tấn công song song tiến xuống phía Nam, Chiến Đoàn 315 bên phải, Chiến Đoàn 318 bên trái, Bộ Chỉ huy của tôi theo sau Chiến Đoàn 315; Chiến Đoàn 322 trừ bị, bố trí phía Nam Quốc lộ 1 chờ lệnh.

Đúng 04:30 giờ, Pháo Binh Lữ Đoàn bắt đầu khai hỏa, tác xạ đồng loạt tập trung vào các mục tiêu của địch nằm phía Tây Căn Cứ Đức Huệ, đồng thời Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 1/43 BB vượt tuyến xuất phát mở đường từ căn cứ Phước Chỉ xuống Căn Cứ Đức Huệ.

Đến 05:00 giờ sáng ngày 29-4-74, các cánh quân của Chiến Đoàn 315 và 318 báo cáo chạm địch. Quân ta liền điều động bao vây, chia cắt, tấn công liên tục. Quân địch bị đánh bất ngờtháo chạy, quân ta truy đuổi chặn bắt.

Các Bộ Chỉ huy Trung đoàn, Sư Đoàn, Bộ Chỉ huy Hậu cần và các căn cứ Pháo Binh của quân địch bị quân ta tràn ngập và lần lượt bị quyét sạch. Nhiều dàn pháo các loại 4 ống, 8 ống và 12 ống, và hàng ngàn hỏa tiễn 107 ly và 122 ly bị quân ta tịch thu và tiêu hủy tại chỗ . Đặc biệt hơn cả có hơn 30 hỏa tiễn chống xe tăng AT 3 của Liên Xô nằm trên giàn phóng, chưa kịp khai hỏa bị quân ta chiếm đoạt.

Đến 08:00 giờ sáng, Không Quân Chiến Thuật lên vùng; Đại Tá Trần Văn Thoàn, tư lệnh phó Lữ Đoàn bay trực thăng chỉ huy, điều khiển Không Lực liên tục oanh kích và oanh tạc địch từ sáng đến chiều tối.

Đến 19:00 giờ ngày 29 4 74, đại quân của Sư Đoàn 5 CS bị đánh tan rã rút chạy về hướng Mộc Hóa thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi liền tung cả ba Chiến Đoàn đồng loạt truy đuổi địch và cho Không Quân Chiến Thuật tập trung truy kích chúng sâu trong lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật. Hàng ngàn quân địch bị giết và bị thương và hàng trăm tên bị quân ta bắt sống.

3. Sáng ngày 30-4-74:  Các đơn vị địch còn kẹt lại chung quanh Căn Cứ Đức Huệ chống trả yếu ớt, lần lượt bị quân ta tiêu diệt gần hết. Đến trưa, một cánh quân của Thiết Đoàn 10 đã bắt tay được với Biệt Động Quân trong Căn Cứ Đức Huệ và đến chiều toàn bộ Sư Đoàn 5 CS hoàn toàn bị quân ta quét sạch.

Bộ Chỉ huy của tôi nằm sâu trong lãnh thổ Campuchia về phía Đông Nam Chipu trong một làng nhỏ hoang vắng. Tin chiến thắng làm nức lòng mọi người.

Màn đêm xuống, tiếng súng im bặt. Đêm hôm đó thật êm ả, trời trong vắt, đầy sao, lòng tôi tràn ngập một niềm sung sướng khó tả. Có lẽ đây là một đêm đẹp nhất trong đời tôi. Tôi đã khẳng định trước với Quân Đoàn là chúng tôi sẽ đánh bại Sư Đoàn 5 CS và bây giờ chúng tôi đã đánh bại chúng.

Tôi đã nói trước khi xuất quân với thuộc cấp là nếu thất bại thì sẽ không một ai được trở về Việt  Nam và bây giờchúng tôi đã chiến thắng có thể trở về.

Đối với tôi cũng giống như một canh bạc mà tôi đã lấy mạng sống của tôi ra đánh và bây giờ tôi đã thắng. Cho tới ngày hôm đó trong đời tôi, thật không có một niềm hạnh phúc nào lớn hơn được.

Chưa bao giờ trong lịch sử của hai cuộc chiến tranh Việt Nam có một trận vận động chiến nào mà quân ta hoặc quân Đồng Minh đã chiến thắng một đại đơn vị CS nhanh chóng như thế, triệt để như thế.

Tôi chợt nhớ đến cung cách và những lời của Julius Ceasar trong chiến dịch thần tốc ở Zela vùng Tiểu Á báo cáo chiến thắng về La Mã “Veni, Vidi, Vici : “Tôi đến, Tôi thấy, Tôi chiến thắng”

Tôi liền lấy một mẫu giấy nhỏ, tự tay thảo ngay bức công điện ngắn báo cáo chiến thắng về Bộ Tư lệnh Quân Đoàn 3:
Trân trọng báo cáo:
- Ngày 28-4-74: Xuất quân
- Ngày 29-4-74: Phản công
- Ngày 30-4-74: Tiêu diệt địch
- Ngày 1-5-74: Hoàn thành nhiệm vụ.

4. Ngày 2-5-1974: Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Lữ Đoàn ở Gò Dầu Hạ, phóng viên đài VOA phỏng vấn hỏi tôi:- Có phải Thiếu Tướng đã đưa quân sang lãnh thổ Campuchia không? Tôi liền đáp ngay:

- Không, tôi hành quân dọc theo biên giới trong lãnh thổ của Việt Nam. Chính Cộng Sản Việt Nam mới có quân trên lãnh thổ Campuchia.

Tối đến, đài VOA và đài BBC loan tin chiến thắng của quân ta ở Căn Cứ Đức Huệ. Riêng đài BBC nói thêm:

- Tướng Trần Quang Khôi nói không có đưa quân sang lãnh thổ Campuchia, nhưng theo tin tức của chúng tôi nhận được thì Quân lực VNCH có truy đuổi quân Cộng Sản Bắc Việt trên lãnh thổ Campuchia.

5.- Ngày 3-5-1974: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi trực thăng đến Gò Dầu Hạ tham quan chiến trường. Trung Tướng Phạm Quốc Thuần và tôi tiếp đón Tổng Thống.

Ông vui vẻ bắt tay chúng tôi rồi đi đến xem chiến lợi phẩm tịch thu của quân địch: Rất nhiều vũ khí cộng đồng các loại. Nổi bật là các giàn phóng hỏa tiễn 4 ống, 8 ống và 12 ống cùng hàng trăm hỏa tiễn 107 và 122 ly. Đặc biệt hơn cả là hơn 30 hỏa tiễn AT-3, loại mới nhất của Liên Sô có hệ thống điều khiển chống tăng, lần đầu tiên bị quân ta tịch thu trên chiến trường miền Nam.

Các tùy viên quân sự Tây phương mỗi người xin một quả nói để đem về nước nghiên cứu. Nhìn số vũ khí khổng lồ của địch bị quân ta tịch thu mới hiểu được sự tàn phá khủng khiếp trong Căn Cứ Đức Huệ và sự chiến đấu anh hùng của Tiểu Đoàn 83 BĐQ.

Tiếp đến, Tổng Thống đi thăm Bộ Tham Mưu Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và các đơn vị trưởng của các binh chủng trong tổ chức LLXKQĐIII, ông bắt tay khen ngợi từng người và gắn cấp bậc Đại Tá cho Trung Tá Thiết Giáp Dư Ngọc Thanh, Chiến Đoàn trưởng Chiến Đoàn 315.

Sau đó Tổng Thống lên trực thăng chỉ huy của tôi cùng tôi bay đến Đức Huệ. Các trực thăng của Trung Tướng Phạm Quốc Thuần và phái đoàn Phủ Tổng Thống bay theo sau. Trên đường bay, Tổng Thống bắt chuyện với tôi:

- Tôi rất thích tính táo bạo liều lĩnh trong kế hoạch hành quân của anh.

- Thưa Tổng Thống, đây là sự liều lĩnh có tính toán. Tôi đáp lại.

- Thấy Tổng Thống vui vẻ, sự hân hoan hiện trên nét mặt, tôi nói đùa một câu tiếng Pháp với Tổng Thống:   La chance sourit toujours aux audacieux. (Sự may mắn luôn luôn “cười” với những kẻ liều lĩnh). Và ông gật gù cười có vẻ đắc ý lắm.

Trực thăng đáp xuống Căn Cứ Đức Huệ. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 83 BĐQ và Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 64 BĐQ hân hoan tiếp đón Tổng Thống. Ông đi bộ một vòng viếng thăm, ủy lạo và ban thưởng. Doanh trại trong căn cứ bị Pháo Binh địch tàn phá đổ sập gần hết, nhưng sự hãnh diện giữ vững được đồn hiện ra trong đôi mắt của mỗi chiến sĩ BĐQ.

Một chuẩn úy BĐQ còn rất trẻ đi đến tôi, đứng nghiêm chào, rồi thình lình anh bước tới gần tôi, hai tay nắm chặt lấy tay tôi bật khóc và nói:

-Cám ơn Thiếu tướng đã cứu mạng chúng em.

Tôi cảm động ôn tồn đáp lại:

-Chính anh phải cám ơn các em mới đúng. Sự chiến đấu vô cùng dũng cảm của các em là một tấm gương sáng chói, là niềm hãnh diện chung của Quân lực chúng ta. Chúng em mới thật sự là những anh hùng của Quân đội mà mọi người Việt Nam Tự do phải mang ơn các em.

Một tuần sau tôi nhận được một thư của DAO (Defense Attaché Office) trong đó tướng Homer Smith chuyển lời khen ngợi của đại sứ Graham Martin đến tôi: Đây là lần đầu tiên kể từ khi ký kết Hòa Đàm Paris, một kế hoạch hành quân được thiết kế tuyệt hảo và được thực hiện tuyệt hảo(1).

Hai tuần sau, tôi nhận được một thư của Đại Tá Raymond Battreall nguyên Cố Vấn Trưởng của Bộ Chỉ huy Thiết Giáp Binh QLVNCH.

Battreall cho rằng đây là một chiến thắng ngoạn mục và xuất sắc nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Cuối thư ông viết bằng chữ Việt Nam: Kỵ Binh Việt Nam Muôn Năm.

6. Kết luận :

Sau chiến thắng lừng danh giải cứu Đức Huệ và đúng một năm sau, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Đoàn 4 CSBV do Thượng tướng Hoàng Cầm chỉ huy đã thất bại trong kế hoạch đánh chiếm tỉnh Biên Hòa, và Sư Đoàn 341 CSBV bị LLXKQĐ3 đánh bại ở Biên Hòa buộc phải rút đi sau khi chịu nhiều tổn thất to lớn (2).
 
Ngay sau đó, Lực Lượng Xung Kích QĐ3 kéo quân về tiếp cứu Thủ Đô Sài Gòn thì được lệnh buông vũ khí đầu hàng lúc 10:25 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ai là người chịu trách nhiệm làm mất MNVN? Ai là thủ phạm đưa QLVNCH đến chỗ thua trận?

Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh kể từ ngày thành lập 7-11-1970 đến ngày 30-4-1975 do tôi chỉ huy, luôn luôn chiến thắng hết trận này đến trận khác cho đến phút chót. Không một ai trong chúng tôi lùi bước trước quân thù. Không một ai trong chúng tôi bỏ trốn ra nước ngoài. Tất cả ở tại hàng và chấp nhận định mệnh không than van kêu khóc.

Trong tác phẩm Servitude et Grandeur Militaires, thi sĩ Pháp Alfred De Vigny (1810 1857) nói “Danh Dự và Trách Nhiệm đôi khi kết thúc một cách bi thảm. Cho nên, đứng trước một định mệnh tàn khốc, con người phải biết thân phận của mình mà chấp nhận nó một cách can đảm”.

Tháng Giêng 2009
Trần Quang Khôi