Friday, July 8, 2011

angletech


Gõ Tiếng Việt Có Dấu Online
 từ Mọi Nơi và Mọi Máy PC hay Apple/Mac

Bạn không cần phải cài đặt bất cứ một phần mềm nào hay điều chỉnh chi cả. Hãy bắt đầu gõ những gì bạn muốn viết bằng tiếng Việt trong ô trắng ở dưới, theo bất cứ cách gõ nào mà bạn quen nhất. Khi xong rồi thì select hết (Ctrl A) những gì bạn đã viết ở đây, rồi copy (Ctrl C) và paste (Ctrl V) vào bất cứ nơi khác mà bạn muốn như yahoo email, Microsoft Word, diễn đàn (forum)... Nếu muốn đọc được bằng tiếng Việt qua email hay website thì xin xem tiếp ở dưới phần FAQ.


Ngô Nhân Dụng


Ðòi quyền hội họp, quyền thông tin tự do

Hai bản ý kiến mới được công bố trong vòng hai tuần lễ cho thấy giới trí thức Việt Nam đã mạnh bạo nhập cuộc trong việc tranh đấu của người dân Việt trước những hành động gây hấn mới của Trung Quốc tại biển Ðông. Nhưng đằng sau những đòi hỏi vì lòng yêu nước đó, các nhà trí thức cũng nêu lên và đòi thực hiện những quyền tự do căn bản mà người dân Việt chưa được hưởng: Tự do hội họp và tự do thông tin

Những bản ý kiến này thực ra chỉ nhắc lại một cách chính thức các ý kiến đã được nêu lên trong các blog do nhiều nhà trí thức và văn nghệ sĩ đã thực hiện gần đây, như các ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Xuân Diện, Tô Hải, vân vân. Bản ý kiến thứ nhất được làm tại Sài Gòn ngày 25 Tháng Sáu, mang tên là một Tuyên Cáo “Về Việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Ðộng Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Và Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Ðông.”

Sau khi lên án nhà cầm quyền Trung Cộng với những hành động gây hấn nhằm xâm chiếm biển Ðông, sau khi tuyên bố ủng hộ các cuộc biểu tình của đồng bào, tuyên cáo này nhấn mạnh “biện pháp đấu tranh hiệu quả nhất vẫn là phải dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước ở trong nước cũng như ở ngoài nước.” Ðó là xác định không ai được chiếm độc quyền yêu nước. Nhưng ý kiến cụ thể nhất là nói với nhà cầm quyền ở Việt Nam “không vì lý do gì ngăn chặn những hành động yêu nước của nhân dân bao gồm các cuộc biểu tình, mít tinh ôn hòa, trật tự của thanh niên, sinh viên học sinh và đồng bào Việt Nam trên toàn quốc.” Nói cách khác, người Việt Nam phải có quyền tự do hội họp để phát biểu ý kiến khi cần bảo vệ tổ quốc.

Bản ý kiến thứ nhì là một kiến nghị gửi Bộ Ngoại Giao ngày 4 Tháng Bẩy 2011, “Yêu Cầu Bộ Ngoại Giao Cung Cấp Thông Tin Liên Quan Ðến Quan Hệ Với Trung Quốc.”

Giống như bản tuyên cáo trước đó, kiến nghị này dựa trên một sự kiện cụ thể gần đây, là một bản tin bằng tiếng Anh của Tân Hoa Xã ngày 28 Tháng Sáu 2011 loan báo cuộc gặp gỡ giữa ông Hồ Xuân Sơn, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam, với ông Trương Chí Quân, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao về phía nhà nước Trung Quốc, và ông Ðới Bỉnh Quốc, ủy viên Bộ Chính Trị đặc trách về ngoại giao trong đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Bản tin Tân Hoa Xã nói rằng trong các cuộc gặp gỡ trên hai chính quyền đều “...phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam...” Nếu đúng như vậy thì hai đảng Cộng Sản đã tước bỏ quyền của nước Việt Nam nếu muốn liên minh với các nước Ðông Nam Á hay các cường quốc khác khi phải đối đầu với Bắc Kinh! Và Tân Hoa Xã viết tiếp là hai bên “nguyện sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy...” Lời “nguyện” này rõ ràng là lời Bắc Kinh bắt chính quyền Hà Nội phải ngăn chặn các cuộc biểu tình của dân phản đối các hành động gây hấn của Trung Quốc. Nếu thực hiện lời “nguyện” này, đảng Cộng Sản đã mặc nhiên nghe lệnh Bắc Kinh bác bỏ lời yêu cầu tự do hội họp nêu trong bản tuyên cáo thứ nhất, giống như họ vẫn làm trước đây.

Bản tin của nhà nước Trung Quốc còn nhấn mạnh, “Những hồ sơ lịch sử của Trung Quốc đã cho thấy rằng năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã khẳng định các hòn đảo trên Biển Hoa Nam như là bộ phận thuộc lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc, và kế đó Thủ Tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng đã bày tỏ sự tán đồng trong bức thư ngoại giao ngắn của mình gửi tới thủ tướng khi đó là ông Chu Ân Lai.” Bản tin Tân Hoa Xã không cho biết ông Hồ Xuân Sơn đã phản ứng thế nào khi được nhắc nhở điều đó. Những người ký kiến nghị nhận xét: “Những thông tin trên chúng tôi không thấy đăng trên báo chí của Việt Nam.”

Chính vì thấy bản tin của thông tấn xã nhà nước cộng sản ở Việt Nam không hề nói đến các chi tiết trên, cho nên những người ký kiến nghị đã yêu cầu phải công bố tất cả những thỏa thuận giữa ông Hồ Xuân Sơn và chính quyền và đảng Cộng Sản Trung Quốc; đặc biệt là thỏa thuận cấm dân Việt bày tỏ ý kiến và lời cam kết không mời nước nào khác tham dự các cuộc hội đàm về hải đảo.

Những nhà trí thức đưa ra các đòi hỏi trên nhân danh hai điều ghi trong Hiến Pháp năm 1992, Ðiều 53 nói: “Công dân có quyền... tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước,...”, và Ðiều 69 nói: “Công dân... có quyền được thông tin;...”

Hai bản tuyên cáo và kiến nghị trên đây đánh dấu một chuyển biến trong nhiều nhà trí thức trong nước, trong đó một số từng là đảng viên cộng sản hoặc đã ủng hộ chế độ cộng sản. Ðó cũng chỉ là một bước tiến trong quá trình phản kháng của giới trí thức Việt Nam gần đây, khi họ lên tiếng đòi các quyền tự do dân chủ cho đồng bào. Những người làm blog từng nêu lên những ý kiến giống như vậy sớm hơn, và còn đi xa hơn nữa. Những người đã đấu tranh trong vòng pháp luật như Nguyễn Văn Ðài, Nguyễn Vũ Hải, Nam Phương, Tạ Phong Tần, vân vân, còn đưa ra những đòi hỏi cụ thể với tính chất toàn diện và căn bản hơn nữa. Tất cả phong trào tranh đấu trên mặt trận tư tưởng, tác động trên dư luận trong mấy năm nay cũng có thể coi là đã noi theo truyền thống của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội trước đây hơn nửa thế kỷ. Năm 1958 chế độ chuyên chính đã dập tắt phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và đày đọa những Phùng Quán, Trần Dần, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Ðang, Ðặng Ðình Hưng. Năm nay, người Việt Nam sẽ không cho phép tái diễn hành động đó.

Trong những năm 1955, 56, các văn nghệ sĩ và trí thức Nhân Văn Giai Phẩm chưa nêu lên vấn đề quyền làm người, một khái niệm mà ngày nay đương nhiên ai cũng phải quan tâm. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm cũng chỉ giới hạn trong việc tranh đấu để giới trí thức văn nghệ được góp ý kiến với đảng cộng sản trong việc lãnh đạo văn nghệ. Ngày nay, phong trào trí thức tranh đấu mới đòi hỏi thực hiện các quyền làm người, cụ thể nhất là những quyền căn bản như tự do hội họp, tự do thông tin, cho tất cả mọi người dân Việt.

Những đòi hỏi tự do của các nhà trí thức sẽ ảnh hưởng lâu dài trên tương lai đất nước nếu được đấu tranh bền bỉ cho tới khi đảng cộng sản phải nhượng bộ. Chỉ cần một quyền tự do được thể hiện, như quyền tự do hội họp, là có thể sẽ có một bước ngoặt mở đầu một trang mới trong lịch sử đất nước. Trong 5 tuần lễ qua, người dân Hà Nội đã đi biểu tình liên tiếp để bày tỏ lòng yêu nước trước các hành động ngang ngược và thái độ xấc láo của chính quyền Trung Cộng. Ðiều cốt yếu trong yêu cầu tự do hội họp này là đòi quyền tự do yêu nước, không còn để cho một nhóm người chiếm độc quyền nữa. Nhưng đó cũng là tiếng nói đòi cho mọi người dân quyền tập họp và phát biểu những nguyện vọng chính đáng. Ngày Chủ Nhật vừa qua, đoàn người biểu tình đã tiến đến trước Nhà Hát Lớn Hà Nội, một địa điểm đã chứng kiến lịch sử Việt Nam thay đổi. Chúng ta không quên rằng cuộc biểu tình ngày 19 Tháng Tám năm 1945 do giới trí thức tiểu tư sản Hà Nội tổ chức cũng khởi đầu tại Nhà Hát Lớn, trước khi bị các cán bộ cộng sản “cướp diễn đàn.” Tại Sài Gòn, thanh niên cũng đã biểu tình chống Trung Quốc trên các đường mang tên cũ là Duy Tân, Thống Nhất, nơi đã xuất phát các cuộc biểu tình chống Hiến Chương Vũng Tầu năm 1964, biểu tình đòi bầu cử Quốc Hội lập hiến năm 1966, mà từ đó mới thiết lập bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa năm 1967. Những địa điểm trên đã đi vào lịch sử, và sẽ còn làm lịch sử. Ðảng Cộng Sản Việt Nam biết khó kiểm soát người dân Sài Gòn, trong đó có những người đã từng đi theo cộng sản trong thời chiến, cho nên công an Sài Gòn đã đàn áp mạnh mẽ hơn trong hai tuần qua, các người tổ chức biểu tình đã bị chặn lại từ khi chưa bắt đầu. Nhưng dân Hà Nội vẫn được phép tụ họp, chứng tỏ nhà nước cộng sản đã phải nhượng bộ trước tinh thần bất khuất của người dân.

Khi người dân một nước tự đứng ra thực hiện quyền hội họp tự do, một xã hội công dân sẽ thành hình, làm động lực thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa. Chúng ta biết rằng Phong trào Công Ðoàn Solidarnos tự phát ra đời năm 1980 cũng là một biểu hiện cụ thể của xã hội công dân ở Ba Lan. Trước đó, ở Ba Lan chỉ có giáo hội Công Giáo đứng bên ngoài guồng máy kiểm soát của nhà nước, tạo được một không gian tư và “dễ thở.” Lần đầu tiên năm 1980 mới có một tổ chức đứng ngoài guồng máy đảng cộng sản, Solidarnos vừa độc lập vừa tự nguyện, tự giành lấy quyền hoạt động công đoàn và đảng Cộng Sản Ba Lan cũng phải nhượng bộ. Nhờ những hoạt động của xã hội công dân như thế mà quá trình dân chủ hóa ở Ba Lan từ năm 1990 đã tiến nhanh hơn nhiều nước cựu cộng sản khác. Một Xã hội Công dân gồm các tổ chức độc lập và tự nguyện phát xuất từ những khát vọng và nhu cầu cụ thể của người dân, là căn bản để xây dựng nếp sống dân chủ. Nó khác với xã hội dân sự trong đó bao gồm cả guồng máy hành chính dân sự và các tổ chức phụ dân sự do chính quyền dựng lên, tiếng gọi là tư nhân nhưng hoàn toàn lệ thuộc đảng cầm quyền.

Nhưng bản kiến nghị ngày 4 Tháng Bẩy 2011 còn nêu lên một đòi hỏi lớn là yêu cầu chính quyền Cộng Sản Việt Nam xác định lập trường của họ đối với lá thư Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai năm 1958. Như nhiều lần đã trình bày trong mục này, muốn lên tiếng nói được quốc tế kính trọng, nhà cầm quyền ở Việt Nam phải xác định dứt khoát rằng lá thư của Phạm Văn Ðồng gửi Chu Ân Lai năm 1958 là vô giá trị. Lúc đó, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền cai quản của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, ông Phạm Văn Ðồng đứng đầu một chính phủ chỉ cai trị phía Bắc vĩ tuyến 17 cho nên không có thẩm quyền trên các đảo đó. Mặc dù ông Phạm Văn Ðồng có viết thư nói ông đồng ý với ông Chu Ân Lai, nhưng về một vấn đề lãnh thổ quốc gia, văn kiện đó không phải là một hiệp ước, không được một Quốc Hội nào của nước Việt Nam thông qua, thì cũng vô giá trị. Ngược lại, hành động đánh chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc đầu năm 1974, việc đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 rõ rệt là những cuộc tấn công xâm lược của quân đội Trung Hoa đối với các hải đảo thuộc nước Việt Nam. Xác định những điều trên là một dịp để đảng cộng sản tạ tội đối với tổ tiên, với các thế hệ tương lai, về một hành động lầm lẫn trong quá khứ.

Tháng Tám năm 1945, khi các công chức thành phố Hà Nội, thuộc bộ máy hành chánh của chính phủ Trần Trọng Kim, tổ chức mít tinh ở Nhà Hát Lớn, giấc mộng của toàn dân là giành độc lập quốc gia. Cuộc mít tinh đó đã bị chiếm đoạt, đảng cộng sản sau đó đã cướp quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa đến cảnh cốt nhục tương tàn. Bây giờ người dân Việt Nam còn tự hỏi trong 55 năm qua nước mình có thực sự độc lập toàn vẹn hay vẫn luôn luôn bị ngoại bang thao túng; mà chính vì thế đã đưa tới cảnh cốt nhục tương tàn? Người trí thức Việt Nam bây giờ khi tiến đến Nhà Hát Lớn Hà Nội, chắc không phải chỉ nghĩ đến ước vọng quốc gia độc lập thực sự mà còn phải biết đòi hỏi những quyền tự do căn bản cho mọi người dân Việt được sống xứng đáng với phẩm giá làm người. Tự do thông tin, tự do hội họp, là những quyền căn bản để thực hiện các quyền tự do bỏ phiếu chọn những chính phủ của dân, do dân và vì dân đích thực.

Ngô Nhân Dụng

Trung Cọng

Sách về tội ác của Mao đoạt giải BBC


Giải BBC Samuel Johnson danh giá bậc nhất ở Anh Quốc vừa được trao cho cuốn "Nạn đói lớn do Mao gây ra" (Mao's Great Famine) của tác giả người Hà Lan, ông Frank Dikotter.(Hình ông Mao được tôn thờ ở Trung Quốc)

 Cuốn sách tổng kết lại nạn đói do chính sách Đại Nhảy Vọt của ông Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản đưa ra trong thập niên 1960 ở Trung Quốc và cho rằng số nạn nhân bị chết là 45 triệu.

Tác giả Dikotter, một tiến sĩ chuyên về môn Trung Hoa học tại Đại học Phương Đông -SOAS - ở London kêu gọi chính quyền Trung Quốc hiện nay cho người dân của họ đọc cuốn sách.

Giải thưởng danh giá của BBC cho thể loại phi tiểu thuyết được trao chỉ 10 ngày sau chuyến thăm Anh của Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhằm ký các hợp đồng làm ăn Anh - Trung trị giá tới 2 tỷ đô la.

'Chết 45 triệu'

Số người chết đói tới 45 triệu ở Trung Quốc vào thời kỳ cực tả Đại Nhảy Vọt mà ông Dikotter nêu ra nhiều hơn so với con số từ 30 đến 35 triệu như một vài tác giả khác tại Phương Tây ước tính.

Khen tác giả về công trình này, Ben Macintyre, nhà bình luận văn chương ở Anh nói đây là "bản án cho thảm họa khủng khiếp chính vì con người tàn bạo gây ra".

Hiện nay, tại Trung Quốc ông Mao vẫn được đảng Cộng sản tôn thờ.

Trong các bình luận chính thức, ông chỉ bị đánh giá là "công bảy, tội ba", hàm ý vẫn là nhân vật vĩ đại dù có sai lầm.
Ngoài chuyện nông dân, công nhân chết đói vì bị hành hạ trong các đợt Đại Nhảy Vọt, Cách mạng Văn Hóa, báo giới nước ngoài còn nhắc đến cách hành x̉ử của ông Mao với các đồng chí của chính ông ta.(Lâm Bưu và Mao Trạch Đông trong tranh cổ động 'đỏ' lúc còn thân nhau. Sau ông Lâm bị ông Mao ra lệnh giết)

Nhiều nhân vật từng theo ông bị giết thẳng tay trong các cuộc đấu đá chính trị nội bộ.

Nhưng nay, trong dịp kỷ niệm 90 năm 'Sinh Nhật Đảng', chính quyền Trung Quốc vẫn bỏ nhiều tiền vào việc phục hồi các chiến tích của ông Mao thời xưa.

Đảng Cộng sản Trung Hoa, hiện có trên 80 triệu người, cũng liên tục cổ vũ cho làn sóng "nhạc Đỏ", nhắc lại thời kỳ vinh quang của họ trong quá khứ.

Cuối tháng 6 vừa qua, một bộ phim lớn được trình chiếu về 'Ṣự Phục Hưng" của dân tộc Trung Hoa nhờ Đảng.

Điều này tạo ra sự trái ngược lớn trong cách nhìn ông Mao ở Trung Quốc và tại Phương Tây.

Nhìn chung, dư luận Âu Mỹ coi ông Mao là một 'Stalin của Phương Đông' với các tội ác khủng khiếp gây ra với chính nhân dân Trung Quốc.

Cuốn sách "Mao's Great Famine" được trao giải trị giá 20 nghìn bảng Anh hôm thứ Tư 6/7 tại London.

Ông Macintyre, chủ tịch ban giám khảo nói rằng cuốn sách đã ghi lại một dấu tích lớn về nỗi đau của loài người.

Sách đã vượt qua cả năm tác phẩm khác, gồm các cuốn về Bismarck của Jonathan Steinberg và cuốn về Caravaggio của Graham Dixon.

Giải BBC Samuel Johnson tặng cho các sách viết bằng tiếng Anh trong những lĩnh vực từ thời sự, lịch sử, chính trị, thể thao, lữ hành cho đến tự truyện và nghệ thuật.

Theo ông Ben Macintyre, tác phẩm của Dikotter là sách "không thể thiếu cho những ai muốn hiểu lịch sử Thế kỷ 20".

Thursday, July 7, 2011

Viet Nam


Trung Quốc thuê đất Việt... trồng khoai



VIỆT NAM (SGTT) - Thương nhân Trung Quốc đang áp dụng đồng thời cả hai chiêu đối với củ khoai lang Việt Nam: vừa thu gom vét sạch ở các chợ, vừa thuê đất thuê người trồng để xuất cảng sang nước thứ ba.

Theo báo Sài Gòn Tiếp Thị, từ một năm nay, người Trung Quốc đã có mặt tại huyện Bình Minh, Vĩnh Long và nhiều tỉnh miền Tây thuê đất, thuê người trồng khoai. Nông dân Việt Nam đang trồng lúa thấy mức lời không nhiều hơn 5 triệu đồng mỗi công đất, lập tức đồng ý cho thương nhân Trung Quốc thuê đất trồng khoai. Theo bà Phan Thị Bé trưởng phòng Kinh Tế huyện Bình Minh, thương nhân Trung Quốc đang ký kết nhiều hợp đồng xuất cảng khoai lang Việt Nam sang nước thứ ba. (Những cánh đồng khoai bất tận sẽ được đưa sang Trung Quốc. (Hình: Sài Gòn Tiếp Thị)

Trong khi chờ thu hoạch, vài tháng gần đây, thương nhân Trung Quốc có mặt tại các tỉnh miền Tây mua sạch khoai lang đưa qua bên kia biên giới. Phần lớn khoai lang Việt Nam được trồng tại huyện Bình Tân và Bình Minh thuộc tỉnh Vĩnh Long, với sản lượng hàng tháng khoảng 10,000 tấn. Hầu hết là loại khoai lang tím Nhật Bản được ưa chuộng và được đưa sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch.

Một vài chủ công ty Việt Nam tâm sự cho biết đã phải “chào thua” thương nhân Trung Quốc trong việc đóng khoai lang chở sang Trung Quốc. Ông Huỳnh Ngọc Phó, giám đốc một công ty cổ phần nói: “Trước đây chúng tôi đóng hàng chở ra biên giới phía bắc. Vì không rành đường đi nước bước lại không có người đại diện ở đất bên kia cho nên cuối cùng chúng tôi bị họ thu hẹp cửa biên giới, bỏ khoai chất đống đất bên này. Sợ khoai hư, ai nấy đều phải giảm giá để bán cho thật nhanh. Giá khoai từ 17,000 xuống còn 11,000 đồng/kg, coi như chúng tôi ôm đầu máu trở về, không lỗ nặng là may.”

Ông Phó còn kể nhiều mẩu chuyện đau lòng về tình cảnh của thương gia Việt Nam bị đại diện chủ hàng Trung Quốc giật nợ. Ông nói thêm: “Họ đặt cọc trước và ung dung chờ mình chở hàng đến Lạng Sơn. Hàng càng nhiều, xe vận tải của mình càng đông thì họ càng mừng. Xe chen chúc như nêm phải nhích từng bước sang bên kia biên giới. Họ vui mừng khi thấy khoai của mình nằm đống, sợ hư hỏng phải hối hả xuống giá, nhất là củ khoai chở trên xe không có kho lạnh rất mau hư.” Họ chỉ chờ có thế để mở cửa kho lạnh nhập hàng vào dự trữ.

Ðó là chuyện nói riêng về củ khoai lang Việt Nam. Còn nhiều nông sản thực phẩm khác như thanh long, dưa hấu, vải thiều, nhãn... cũng đồng chung số phận long đong trên đường sang Trung Quốc khiến biết bao nhiêu thương gia Việt Nam khóc không thành tiếng.

Đọc thêm : phamdinhtanblog - rfavn  - danviet  -

Hồ Trung Tú


Khẩu Vị Quảng Nam

Có một câu chuyện vui: Một anh chàng Quảng Nam đến chơi nhà bạn lúc gia đình bạn đang ăn cơm, đúng ra là đang ăn mì Quảng. Bạn mời nhưng anh ta ngượng nên từ chối mặc dù đang đói. Người bạn bảo con ra vườn hái mấy trái ớt xanh, anh chàng Quảng Nam buột miệng nói: “Có ớt xanh hả, vậy thì làm một tô đi !”. Chuyện vui mà rất thật, rất nhiều người Quảng Nam vì thấy trái ớt xanh mà hì hục làm cho được một bữa mì Quảng.

Hình như, mọi người thường nói, trong cả ba xứ Bắc-Trung-Nam thì người Quảng Nam nấu nướng kém nhất. Không kể chi xứ Huế cố đô vương giả cũ nấu nướng cầu kỳ, phần lớn người miền Quảng Nam đều có cách nấu nướng khẩu vị riêng của họ. Khoan hãy nói đến ngon dở vì điều này nó cũng tương đối như bất cứ sự tương đối nào khác, chỉ cần hay rằng người Quảng Nam đi ra Bắc hay vào Nam đều cảm thấy không ngon miệng và luôn nhớ về món ăn quê nhà. Đó là khẩu vị gì vậy ? Khẩu vị Bắc - Nam hình như đã được gọi tên, còn khẩu vị Quảng Nam là khẩu vị gì, khẩu vị nhà quê chăng ? Người Bắc ăn mắm nhạt pha chanh dấm, người Nam ăn mắm ngọt như tương còn người Quảng Nam thì ăn mắm mặn nguyên chất, không pha thứ gì, ngoài một trái ớt dằm. Cá người Bắc kho riềng, gừng; người Nam kho tộ màu đậm, còn người Quảng Nam thì kho nước với tiêu hành, nước phải thật trong và cá phải thật trắng. Người Bắc người Nam bảo ghê, khó ăn, nhưng người Quảng Nam thì nhớ đến day dứt cái mùi ao đầm hoặc biển khơi còn lại trong thớ thịt con cá trắng bóc !

Như vậy cái tinh hoa trong khẩu vị Quảng Nam có thể nói chính là có chế biến nấu nướng thế nào đi nữa thì cũng phải giữ cho được cái hương vị nguyên thủy của món ăn. Mùi cá lóc thì phải khác với mùi cá thu (với kho tộ thì cá lóc và cá thu hương vị như nhau), cá ngừ thì phải khác cá chim, cá phèn. Đằng sau cái nét riêng không giống ai ấy là một một bản sắc văn hóa hình thành trên cái nên hàng ngàn năm ... ăn cá tươi ! Người Hà Nội - Sài gòn có thể nói chẳng bao giờ được ăn cá biển tươi, nếu không nói là không biết đến cá biển như Hà Nội. Từ xa xưa, người Hà Nội chỉ ăn cá đồng nên sau này, khi phương tiện chuyên chở phát triển, thì người Hà Nội đối xử với cá biển như là cá đồng. Cứ kho cá là phải có gừng riềng. Người Sài Gòn cũng vậy, đối xử với cá đồng đã quen nên các gì cũng kho màu, kho tộ với nhiều gia vị, vị hương và nhiều đường. Người Quảng Nam thì con cá lên bờ tươi xanh, thả vào nước sôi vớt ra chấm muối cũng ngon ! Nếu có nước mắm thì chấm với nước mắm nhỉ nguyên chất không đường, không chanh, chỉ dằm một trái ớt xanh ! Vì vậy các cô dâu Quảng Nam khi phải làm dâu đất Bắc hoặc Nam đều rất khốn khổ với các bà mẹ chồng vì kiểu nấu như ... người nguyên thủy ấy !

Món mì Quảng "quốc hồn quốc túy" của người Quảng cũng vậy. Không ai chịu nổ cái "khô hạn" của nó, trong khi người Quảng Nam thì ăn hết tô mì thì trong tô phải không còn chút nước nào mới là đúng kiểu, vừa miệng. Người Bắc, người Nam ăn mì Quảng vào thấy nặng bụng nhưng người Quảng khi khó chịu bụng ăn mì Quảng vào lại thấy nhẹ đi . Đã thế lại không có một công thức nào cụ thể để phổ biến. Mì nhân thịt gà, nhân thịt heo, thịt bò, thịt lươn, thịt cá, tôm, cua gì gì cũng được, miễn là phải thế này: Thịt phải um với dầu phụng (lạc) nguyên chất khử với củ hành tươi và nén. Mới đây, trong một lần về quê , người viết bài này đi dạo trong đường làng buổi chiều và bỗng không chịu nổi cái mùi dầu phụng khử hành tươi ! Có đến hơn chục năm rồi không nghe lại cái mùi ấy. Ở phố, vợ cũng khử dầu mỗi ngày nhưng thứ dầu công nghiệp ấy không cho ta cái hương này. Lẽ nào sẽ có ngày thất truyền một mùi hương !

Cái mùi dầu phụng khử hành tươi cúng rất đắc trong món đã gần như thất truyền : bánh bèo kiểu Quảng Nam ! Đó là chén bánh bèo đổ dày, phết dầu phụng khử hành tươi, nhân là tôm thịt bằm nhỏ, um khô, rắc lá hẹ thái thật nhỏ, nhỏ như không thể nhỏ hơn được nữa. Khi ăn chan thêm một chút mắm nguyên chất. Thìa ăn là nỉa bằng tre hình con dao mỏng. Người viết đã có dịp đi gần hết các vùng ở Quảng Nam và thấy món ăn này đã gần như thất truyền, đâu cũng một thứ nhân khuấy bột, thêm màu cho đỏ, nước mắm thì vừa nhạt, vừa ngọt, húp cả chén không sao. Bánh thì mỏng theo kiểu bánh bèo Huế ! Tại sao lại thất truyền một món ăn ngon như vậy ? Mẹ tôi bảo, hình như là do tôm thịt mắc quá nên bán không lãi, người ta thôi , làm theo kiểu Huế dễ ăn mà có lãi hơn !

Như vậy, khẩu vị của người Quảng Nam đâu hẳn đã là chặt to kho mặn theo kiểu "nguyên thủy", nó ẩn chứa bên trong nó một sự sang trọng và khá tốn kém đấy chứ . Trong các sách cổ của Lê Quý Đôn hoặc sư Thích Đại Sán đến Quảng Nam thế kỷ 17,18 đều ghi rằng người Quảng Nam sang trọng, giàu có, áo quần nhiều màu, chén bát vẽ rồng vẽ phượng, sản vật phong phú, tính tình phóng khoáng, cởi mở. Chính cái nền văn hóa xa xưa ấy phải chăng đã tạo nên một khẩu vị tinh tế và đang ngày càng được người miền khác mến mộ. Nhiều người bạn ở Hà Nội, Sài Gòn cứ lâu lâu lại bảo gởi cho ớt xanh, mắm cái, và khi ngồi vào bàn là đòi cho được chén mắm nguyên chất dằm ớt xanh !

Với rau sống cũng vậy, người Quảng Nam có kiểu rau sống cũng không giống ai! Người Bắc ưa rau luộc, người Nam ưa rau nấu canh, còn người Quảng Nam thì ưa rau ăn sống. Người Sài Gòn cũng ăn rau sống nhưng chỉ đơn giản vài loại như xà lách, rau răm, bắp su.. Người Quảng Nam tôn rau sống thành một thứ nghệ thuật không thể thiếu trong bữa ăn với hàng chục loại rau khác nhau, trong đó có những thứ không thể thiếu như bắp chuối, giá, khế, chuối chát trái... Bữa ăn mà thiếu rau sống thì khó có thể là bữa ăn ngon. Đĩa cơm bình dân bé xíu cũng một nhúm rau sống bên góc. Quen nết rồi, luộm thuộm thật nhưng không chừa được. Rau sống tồn tại trong văn hóa ẩm thực của người miền Quảng Nam như một cái đinh đóng lút vào thớ gỗ, chắc nụi đó, liên kết mọi thứ mà chẳng ai nhìn thấy. Bánh xèo rau cải xanh chuối khế, mì Quảng rau sống bắp chuối, cao lầu rau cải con làm chủ lực, cuốn bánh tráng cá nục thì rau muống nguyên cây, thịt heo bánh tráng thì rau gì cũng được nhưng phải đủ năm sáu loại trở lên, ăn cơm hàng ngày thì không có không xong, cảm giác khó tiêu, nặng bụng.

Qua vài ví dụ trên liệu có thể rút ra được điều gì về "bản sắc" khẩu vị Quảng Nam? Liệu đó có phải chăng là nghệ thuật của người nghèo, của người lao động, không có nhiều thì giờ trong chế biến nhưng biết làm cho mỗi món ăn có được hương vị riêng dựa trên hương vị nguyên thủy của sản vật địa phương, quyết không để gia vị lấn át và biến món nào cũng trở thành giống nhau bởi chế biến và xử dụng nhiều gia vị ? Điều đó có thể đúng, có thể sai nhưng trong thế giới giao lưu rộng mở hiện nay, khẩu vị Quảng Nam mặc dầu đã được công nhận và yêu mến nhưng vẫn còn ở dạng cảm tính, chưa thực sự thuyết phục. Để khẩu vị Quảng Nam trở thành một dấu ấn, ít nhiều níu chân du khách quay lại thì trách nhiệm của các nhà đầu bếp xứ Quảng là thật lớn. Và đó cũng là trách nhiệm của ngành du lịch nữa !

Hồ Trung Tú
@xuquang

Wednesday, July 6, 2011

Caubay


Ngày lễ Độc lập của Mỹ, nhớ về Việt Nam.

Thế là thêm một lần nữa tôi chào mừng ngày 4 Tháng Bảy.

Buổi sáng thật yên tĩnh, tôi dậy sớm khi cả nhà vẫn còn ngon giấc. Năm nay ngày lễ rơi vào Thứ Hai, sáng đầu tuần mà được ngủ muộn là điều hiếm hoi ở xứ này. Ngày sinh nhật nước Mỹ thật im ắng, không có tiếng loa, không có meeting và hẳn nhiên không có lời kêu gọi thi đua lập thành tích chào mừng công lao của bất kỳ ai. Tôi pha ly cà phê, ra sau vườn ngồi nhâm nhi nhìn lên bầu trời dịu mát, nghe vài tiếng chim hót chíu chít đâu đây. Một buổi sáng trống vắng, rất thanh bình mà lòng tôi dường như vẫn có điều gì bất ổn. Từ bao nhiêu năm nay, hễ ngồi một mình là tôi lại thơ thẩn nghĩ về giải đất hình chữ S bên kia bờ đại dương. Nơi đó, trong ký ức của tôi, hiện về làng quê với những luỹ tre già gió đưa kẻo kẹt trong buổi trưa hè hay hàng dừa ngã bóng ven sông trong buổi hoàng hôn, đẹp lạ lùng mà cũng buồn não ruột. Nơi đó có thành phố với những con đường rợp bóng cây xanh đầy kỷ niệm. Những người bạn, những người tình, những em thơ... Nghĩ về quê nhà hầu như đã trở thành điều tự nhiên sau những giờ bận rộn của một người tha hương như tôi . Kẻ tha hương vốn dĩ đã buồn, người Việt tha hương còn buồn hơn gấp bội!

Ngày lễ độc lập của nước Mỹ nhắc tôi nghĩ về những ngôn từ đẹp đẽ vẫn thường được loài người trên khắp hành tinh này đề cao. Nơi quê huơng tôi cũng thế, người ta nói rất nhiều về độc lập, tự do, hạnh phúc, thống nhất, văn minh, tiến bộ, bình đẳng...

Đúng vậy! Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Câu nói nổi tiếng này được ghi trong tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và được ông Hồ Chí Minh nhắc lại nhân buổi lễ tuyên bố độc lập năm 1945. Nhưng từ ngày ấy, đã gần 66 năm qua rồi mà mỗi người Việt Nam chúng ta vẫn chưa một ngày được hưởng mùi hương cao quí đó. Nước ta ngày nay, so với thời phong kiến và thực dân, sự bất công vẫn còn tiếp diễn! Thời trước là sự bất bình đẳng giữa vua quan và dân đen, giữa kẻ xâm lăng và người bị trị; ngày nay là giữa Đảng Cộng sản và mọi người không theo cộng sản. Ngày trước, sự bất bình đẳng công khai, ngày nay nó được ngụy trang, che đậy bằng nhiều hình thức. Nói khác đi, kẻ cai trị thời thực dân, phong kiến có phần lương thiện hơn, ngày nay kẻ gây ra bất công xảo quyệt hơn.

Tôi nhớ đến tiêu đề "Độc lập - Tự do- Hạnh phúc" mà nhà nước CSVN vẫn ghi liền theo trong mọi văn bản, khẩu hiệu ở khắp nơi. Trong ba thứ cao quí đó, dân ta ngày nay có được thứ gì?

Đất nước Việt Nam hôm nay hoàn toàn độc lập ư? Tôi liên tưởng về mối quan hệ với giặc Tàu và cách hành xử của nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay. Tôi cho rằng dù ai đó, vì lý do nào đó, có cố gắng để suy nghĩ một cách lạc quan, cũng khó tìm ra một lý lẽ để tự hào là nước ta ngày nay "hoàn toàn độc lập."

Người Việt Nam có tự do ư? Tôi nghĩ về những quyền tự do căn bản của con nguời mà dân ta ngày nay không có được. Đau đớn thay, ngay cả quyền yêu nước, một thứ nhu cầu tự nhiên như ăn, như ngủ, cũng bị ngăn cấm. Hình ảnh những bạn trẻ gặp nhiều khó khăn khi đi biểu tình vừa qua hiện lên trong trí tôi. Có thời nào, ở đâu, thân phận con dân một nước "độc lập" lại bi đát như thế nhỉ?

Hạnh phúc ư? Ai là những kẻ đang có hạnh phúc trên đất nước Việt Nam hôm nay? Làm thế nào một con người có thể có hạnh phúc khi họ không có tự do, nhất là tự do về mặt tinh thần? Họa chăng "hạnh phúc" chỉ có đối với thiểu số cầm quyền và gia đình họ. Nhưng thật ra những kẻ ấy cũng không hề có hạnh phúc đích thực của con người, họ chỉ đạt được sự thỏa mãn của thú tính. Hạnh phúc của con người không đơn thuần là đạt được sự thỏa mãn về các nhu cầu vật chất và tinh thần của chính mình, mà con cả cho tha nhân. Đã là một con người, lẽ nào tạo hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình bằng cách chà đạp lên hạnh phúc của kẻ khác? Tôi cũng mường tượng ra nỗi oan ức nhọc nhằn nông dân mất đất, của công nhân nghèo đói trong nhà máy, nỗi đắng cay của các cô gái quê tìm chồng xứ lạ, những thanh niên làm lao nô nơi quê người, những bé thơ quằn quại bên bãi rác hay trong các nhà chứa . Với họ, hạnh phúc là điều xa vời.

Độc lập không có. Tự do không có. Hạnh phúc không có. Thế thì bao nhiêu xương máu của đồng bào cả nước, bao nhiêu tài nguyên của quốc gia đã mất đi từ ngày đảng Cộng sản nắm quyền để đổi lấy cái gì? Thống nhất đất nước ư? Vâng, đó là điều đảng Cộng sản vẫn thường xuyên rêu rao như là một thành tích vĩ đại. Nhưng đó cũng chỉ là sự lập lờ đánh lận con đen. Những năm sau này, khi từ "giải phóng" trở nên lố bịch, nhóm chữ "ngày thống nhất đất nước" được dùng để chỉ ngày 30 tháng Tư năm 1975. Điều đáng buồn là không riêng gì nhà cầm quyền Cộng sản, mà có nhiều người trí thức trong và ngoài nước cũng dùng rất tự nhiên. Tôi cho rằng đó là một sự lầm lẫn. Thống nhất đất nước chỉ là cách ngụy biện để khỏa lấp tội ác mà đảng Cộng sản gây ra cho cả nước trongcuộc chiến nồi da xáo thịt vừa qua. Nước Việt Nam hôm nay đã thực sự thống nhất chưa? Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biên giới phía Bắc, đó cũng là những phần da thịt của tổ quốc. Ngày nào một tấc đất của cha ông vẫn còn trong tay giặc, ngày đó đất nước ta chưa thống nhất.

Hơn thế nữa, một quốc gia chỉ thực sự thống nhất khi cả lãnh thổ và nhân tâm cùng được thống nhất. Về phương diện nhân tâm, chính Đảng Cộng Sản đã làm điều ngược lại, vì chưa có thời nào sự phân hóa trong lòng người Việt lại trầm trọng như hôm nay.

Vậy thì ở nước ta hôm nay, độc lập, tự do, hạnh phúc, thống nhất, bình đẳng, văn minh, tiến bộ... là những điều không có thực. Điều có thực là mất mát và khổ đau.
Hôm nay là ngày lễ trọng đại của người Mỹ, trong đó có tôi. Thế mà vì sao tôi không hưởng được trọn vẹn niềm vui của hai chữ "độc lập" thiêng liêng ấy? Lý do chỉ vì tôi là một người Mỹ có thêm cái đuôi gốc Việt. Và chỉ vì không quên cái gốc, tôi luôn luôn cảm thấy buồn mỗi khi trông người rồi nghĩ đến ta. Là một người Việt Nam vì nạn nước mà bỏ xứ , tôi may mắn tìm được giấc mơ Mỹ quốc; tuy vậy tôi vẫn còn yêu quê hương Việt Nam tha thiết, vẫn còn nhớ về đồng bào tôi mỗi ngày. Giấc mơ của tôi là một ngày kia quê hương tôi được độc lập, đồng bào tôi được tự do, hạnh phúc như những người xung quanh tôi hôm nay.

Và tôi vẫn mong một ngày về... Ngày đó tôi sẽ nói lời cám ơn và giã từ giấc mơ Mỹ quốc. Tôi sẽ đi tìm lại giấc mơ Việt Nam, một giấc mơ êm đềm chân thật như lời ru của mẹ thuở đầu đời! Xin ghi lại đây mấy dòng trong một bài thơ tôi viết đã lâu:

Tôi ước mơ tự đáy lòng rất thật
Có một ngày khi đất nước tự do
Hoa dân chủ nở đầy trên đất mẹ
Và tôi về dù thân đã thành tro.

Caubay
San Diego, July 4, 2011.
@DCVOnline

Japan


Nhật khám phá lượng
lớn đất hiếm dưới Thái Bình Dương

TOKYO, Nhật - Các khoa học gia Nhật cho biết họ vừa khám phá 100 tỉ tấn đất hiếm dưới lòng biển Thái Bình Dương, nhiều gấp ngàn lần lượng cung cấp trên toàn cầu hiện nay, theo tin TheAtlantic.com.(Các loại đất hiếm, từ trung tâm theo chiều kim đồng hồ: praseodymium, cerium, lanthanum, neodymium, samarium, và gadolinium. (Nguồn: Peggy Greb/US Department of Agriculture)

Các thành phần của kim loại đất hiếm gồm lanthanum và neodymium, được dùng chế tạo nam châm mạnh để chạy các động cơ, từ laptop đến xe chạy điện và máy giặt. Ðòi hỏi đất hiếm tăng vọt từ 30,000 tấn trong thập niên 1980 lên khoảng 120,000 tấn trong năm 2010.

Những khoáng chất mà Trung Quốc đang độc quyền sản xuất, cần thiết để chế tạo các sản phẩm tiêu dùng và quân sự kỹ thuật cao, cũng là chất liệu trụ cột cho nền kinh tế và an ninh của Nhật lẫn Hoa Kỳ.

Trung Quốc từng sử dụng đất hiếm gần như độc quyền của mình làm một công cụ trong chính sách đối ngoại, để chống lại các đối thủ cạnh tranh Nhật và Hoa Kỳ, bằng hành động đe dọa, cả đôi khi ngưng cung cấp, như một hình thức áp lực đòi đối phương phải nhượng bộ.

Sự khám phá khiến nhiều quan sát viên tiên liệu Trung Quốc từ nay hết còn lợi dụng nguồn đất hiếm của mình để mặc cả. Theo họ, cấp lãnh đạo TQ không còn dùng nguồn tài nguyên này như một thứ vũ khí để chống lại Nhật và Mỹ.

Mỏ đất hiếm mới tìm thấy nằm ở độ sâu 10,000 đến 20,000 ft dưới lòng Thái Bình Dương, mà theo ông Franz Meyer, nhà khoáng sản học trường University of Aachen, Ðức Quốc: “Một mỏ như vậy phải chờ từ 5 đến 7 năm mới bắt đầu khai thác được. Hơn nữa, khai thác mỏ dưới nước lại càng mất thêm nhiều thời gian hơn.” (TP)