ÔNG GIÁO SƯ DẠY SỬ
Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường
University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi
nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi
nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và
đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian
này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm
được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và
Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community
College (Shoreline C.
C.).
So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (
Một
niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang,
thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh
lớp History 274
“U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến
tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng
biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì
sao chúng ta đã thua trận.
Người
từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục
năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của
ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ,
Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp
“U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da
trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu
bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi
nhiều.
Tôi
cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm
trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực
tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có
toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến
bờ nào mà thầy đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để
chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba
thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông
giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng
suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ
của Đế-Quốc Pháp.
Thầy
khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần
thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng
Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã
từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm
Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn
trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng
tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định
Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như
Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được
thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận
Mậu-Thân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều
có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa
nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô
tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả
năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân
sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu
ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển
Sử dày cộm,
“Book
said!”
Cứ
cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở
cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách,
mách có chứng.
Thầy
hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời
1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh
niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết
quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi
chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị
loại thẳng tay.
Cả
hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt
một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị
đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ
thành mây khói.
Tôi
theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử
Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến
tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng
Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời
gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì
lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt
này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội
mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la
hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái
nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi
thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ
điểm.
Sau
ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao
chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến
vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là
tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì
ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký,
trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam
Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề
cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo
copy những thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy
Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những
điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng
thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà
ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu
thi A, B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại,
thầy sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu
giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử.
Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu
khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
-
Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều
liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền
ông vài phút được không?
Thầy
Dan niềm nở, – Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy
câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng, – Thưa giáo sư, tôi là một người
Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn
nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên
của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng
Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa
sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc
chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng
Ia-Drang đó.
Thầy
chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí,
truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều
lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó.
Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang
lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của
đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa
một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm
kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế
nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt
đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị
Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo
ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá
Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn
vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ
máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những
liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam.
Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ
đức độ anh minh.
Chính
tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng
bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số
hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị
chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã
không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và
sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ
quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình
bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom
Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng
quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu
thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm
1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến
một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên
chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng
lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan
lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con
trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và
cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo
chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã
không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm
1974.
Câu
chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai
tôi, – Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi
ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi
viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với
tôi,
-
Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
-
Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy
ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc
chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự
với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm
đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược
cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu
tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với
những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở
Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi
lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi
cứ tình thực trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần
trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện
chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại
thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã
phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân
thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ
lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM”
nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng
chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác
hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc
biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm
1972-1973.
Ông
cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn
82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận
Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy
trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói
tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè
xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước
ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt
với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng,
chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và
sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của
quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc,
thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời
ơi!”
Thầy
Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một
triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt
ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại
Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua,
trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó
sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc
tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi
đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian
đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam
lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại,
cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại
hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi
con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi
cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954
gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh
Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai
miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên
giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ
theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân
Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt – Nam là
để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng
tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu,
mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ
rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi
đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ
từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn
được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể
cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh
điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các
cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến
dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu
hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái
là con số 2,
-
Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi
quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người
chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm
thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ
rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những
năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm,
nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi
xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước
khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn
đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ
pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C
và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi
xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C.
C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do
tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm.
Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi
đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại,
ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác
105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn
là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn
như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng
tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy,
và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản
chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng
tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ
nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè
đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của
anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện
nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh
ấy,
“Bạn
có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ
Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi
bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với
đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua
trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải
ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng
nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng
may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này.
Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm
rồi.”
Sau
câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói
thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến
tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với
lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai
lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và
nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy
còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc
hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
-
Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
-
Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu
của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam.
Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó;
tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả
của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết
những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông
thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
-
Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay,
hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở
Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi
quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám
ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe
được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ
lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ
pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa
người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm
ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku,
sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng,
nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân
nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày
chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết
cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm
(4.00).
Cuối
mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có
mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi
và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên
bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của
khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long!
I’m proud of you!”
Đến
lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về
sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”
Ông
là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật
chính trong phim “Người Dơi”.
Những
người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai
cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô
phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi
trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A.
từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui
lắm.
Từ
đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò
đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt
người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối
năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông,
mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa
người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”