TỪ TRÁI NHO ĐẾN ÁO CHOÀNG
Trung Đông
Trung Đông (Middle East) là một vùng cực kỳ đa dạng về ngôn ngữ, sắc tộc, niềm tin, văn hóa, mỹ thuật... Tiếng Ả Rập (Arabic), “Islam” chỉ tôn giáo, “Muslim” chỉ tín đồ Islam. Không phải người ở vùng Trung Đông đều theo Islam, hoặc người Pakistan đều là Muslim, hoặc tất cả người Muslim đều là... khủng bố. Không phải tất cả người Iran là người Ba Tư (Persian). Iran là tên của quốc gia, còn Ba Tư là tên sắc tộc chiếm 60% cư dân xứ Iran.
Tiếng Việt dùng chung chữ “Hồi” cho nhiều ý niệm: Hồi giáo/Islam, người Hồi/Muslim hay Hồi Quốc lại là xứ Pakistan.
Tiếng Việt dùng chung chữ “Hồi” cho nhiều ý niệm: Hồi giáo/Islam, người Hồi/Muslim hay Hồi Quốc lại là xứ Pakistan.
Khắp thế giới, khăn voan trắng hay voan đen đều bắt nguồn từ ý niệm Islam. Ở Tây Ban Nha, cô dâu choàng mantilla ren trắng từ đầu đến chân không khác burqa. Phụ nữ đi nhà thờ phải choàng mantilla đen. Tờ “Life” lưu giữ ảnh bà Ngô Đình Nhu trong nhà thờ quý phái dưới tấm mantilla đen dài đến lưng.
Áo dài Sài Gòn trước 1975 may bằng hàng mousseline mỏng như giọt mưa một thời hững hờ bay lượn phố phường Sài Gòn cũng từ chữ Muslin, loại khăn lụa mỏng dệt chỉ vàng như khăn cô em này.
Mosul, thành phố lớn thứ nhì sau Baghdad, nơi duy nhất dệt khăn lụa mỏng che mặt phu nhân quý tộc. Mỗi đêm, người đẹp Scheherazade giở khăn lụa Mosul viền vàng, hai mắt to đen hình trái ô-liu (olive), môi ngọt như trái chà là kể cho vua nghe chuyện “Ngàn Lẻ Một Đêm” từ những chàng thủy thủ.
Từ 1600, Âu Châu du nhập khăn Musol. Tiếng Pháp: mousseline, tiếng Ý: mussolino, tiếng Tây Ban Nha: muselina, đều có gốc từ chữ Mosul. Sau năm 2003 Mosul chỉ còn là đống gạch vụn khi Tổng thống Bush mang quân chiếm Iraq tìm không ra “vũ khí tàn sát tập thể”.
Ngày nay, nghĩ tới “Muslim” là dễ liên tưởng tới một thùng thuốc nổ mà quên rằng chính người Anh/Pháp phải chịu trách nhiệm trực tiếp băm vằm chia chác miền Trung Đông sau Thế Chiến I. Sự sát nhập/thành lập một số miền - Iraq, Kuwait, Palestine, Israel - bất kể sự khác biệt sâu xa cả ngàn năm về tôn giáo, sắc tộc, văn hóa và lịch sử, gây bao đau thuơng và là mầm mống cho sự giận dữ gây nên bất ổn cho toàn vùng mãi đến bây giờ.
Báo chí Tây Phương thường chế giễu khủng bố lên thiên đàng có bảy mươi hai (72) trinh nữ đang chờ đợi. Theo kinh “Qur’an”, người tử vì đạo lên thiên đàng sẽ được hưởng ''hur'' , tiếng Aram (Aramaic), có nghĩa là “trắng” cũng đồng nghĩa với trái nho ngày xưa được ví với hạt trai hạt thủy tinh cực quý ở nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamie).
Trước khi có Islam, giá trị phụ nữ Trung Đông còn kém gia súc. Vào thế kỷ thứ Bảy, kể từ khi Thiên sứ Muhammed rao giảng Islam, thân phận phụ nữ thay đổi sâu xa. Islam đình chỉ việc coi họ là món hàng của dục tình, cho phụ nữ đuợc quyền thừa kế, cấm không đuợc chôn sống bé gái và coi nền giáo dục cho các em gái là một điều thiêng liêng.
Theo (Thánh Kinh) “Cựu ước” của Do Thái, Jacob gặp Rachael đang chăn cừu liền xin cưới nàng. Ông bố Labab ra điều kiện Jacob phải làm việc cho ông bảy năm. Ngày cưới, ông Labab đánh tráo cô chị Leah, lớn tuổi hơn Rachael. Leah chùm khăn kín mít nên Jacob không hay. Sau đó, ông nhạc Labah rủ rê nếu Jacob chịu làm không công thêm bảy năm nữa ông sẽ gả nốt Rachael.
Jacob đồng ý nhưng lần này cẩn thận giở khăn che mặt kẻo không có thể uổng đời trai chăn cừu muôn năm. Ai bảo chăn cừu là khổ? Từ đó mới có tục chú rể mở khăn che mặt cô dâu, như chứng nhận sự trinh tuyền và hứa hẹn trước gia đình sẽ yêu thuơng và bảo bọc cô đến trọn đời. Chú nào không hứa đi chỗ khác chơi.
Tấm khăn choàng là truyền thống, không phải định chế tôn giáo. Với người Muslim, đàn ông phải có râu đàn bà phải có khăn. Khăn choàng đã có từ thời Assryria với nền văn minh Lưỡng Hà. Tương truyền, vì hoàng hậu quá đẹp nên trước khi ra trận, vua buộc bà và dàn cung nữ phải đội khăn che kín mặt. Từ đó, chỉ hoàng gia mới đuợc che mặt. Về sau, dân dã mới bắt chước.
Ngoài những lý do khác, phụ nữ Muslim lưu giữ tấm khăn choàng có thể vì hãnh diện với huyền thoại này. Theo một huyền thoại thời tiền-Islam, phụ nữ khuyến khích chiến binh ra trận bằng để ngực trần. Sau Islam, phụ nữ choàng khăn kín đáo. Duy có nơi vẫn để ngực trần như một số bộ tộc ở Châu Phi.
Kinh “Qur’an” không hề qui định phải choàng khăn. Duy có lần Thánh Gabriel mặc khải với Thiên sứ Mahammed: “Vợ ngươi cần phải y phục đoan trang”. Có lẽ ngực trần phơi phới Thánh ngứa mắt.
Hoàng hậu Soraya (1932-2001) - triều đại Pahlavi cuối cùng của xứ Iran bị Anh và Mỹ làm tan nát - không choàng khăn.
Phụ nữ Iran thường khoác khăn chador khi đi ra ngoài. Khăn niqab che toàn thân chỉ để hở mắt, thường thấy ở vùng Bắc Afghanistan.
Khăn shayla quấn quanh đầu và chung quanh vai. Phụ nữ vùng Vịnh thích loại này như công chúa Ameera al-Taweel xứ Saudi Arabia.
Tuần lễ sau vụ khủng bố tòa Tháp đôi ngày 9-11-2001 ở New York, khắp nơi tổ chức tưởng niệm. Trong ánh nến lung linh thoáng bóng hai thiếu nữ đội khăn kiểu shayla, hai cô chầm chậm chưa dám nhập vào đám đông cư dân thị xã Westminster mà 70% là người Mỹ trắng. Khuôn mặt ảm đạm đau đớn nỗi tử sinh pha lẫn dè dặt.
Tôi dắt con tách khỏi đám đông tới trước mặt họ. Hai em gái người Mỹ chăm chú nhìn rồi cũng đến bên. Một ông bố trẻ dắt tay con gái bập bẹ cùng ngồi xuống. Không nói câu nào, chỉ bờ cỏ lắng nghe nước mắt chảy dài trên má.