Thursday, December 6, 2012

NKYN

LỜI KÊU GỌI BIỂU TÌNH CHỐNG
TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC NGÀY 9/12/2012
 
Audio-Video  rfa nkyn1
 
Địa điểm tập kết: trước cửa Nhà Hát Lớn - Hà Nội. Bắt đầu lúc 9h.
Tuần hành đến Đại Sứ quán Trung Quốc - số 46 đường Hoàng Diệu.

♥ Đề nghị đồng bào chia sẻ lời kêu gọi này vì Tổ quốc ♥

Kính thưa toàn thể đồng bào!

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu nhưng bất khuất. Nhà nước ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới. Họ đã quyết dã tâm cướp biển đảo của chúng ta.

Trung Quốc chiếm trọn vẹn quần đảo Hoàng Sa cùng nhiều đảo ở quần đảo Trường Sa và ngày càng tỏ ra ngang ngược. Họ trắn trợn thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” mà phạm vi của nó bao trùm toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và 80% diện tích biển Đông. Họ mặc sức bắt bớ, đánh đập, giết hại ngư dân Việt Nam, đâm chìm tàu cá, phá hoại ngư cụ, giam tàu đòi tiền chuộc. Họ huy động hàng chục nghìn tàu tận thu hải sản, đặt giàn khoan thăm dò khai thác tài nguyên biển Đông, gọi thầu dầu khí trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, rồi tập trận diễu võ dương oai đe dọa chiếm nốt phần còn lại của quần đảo Trường Sa.

Đặc biệt, ngày 30/11 vừa qua, Trung Quốc lần thứ 3 ngang nhiên cắt cáp tàu khảo sát địa chấn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ngay trên vùng biển chủ quyền Việt Nam. Mới đây, họ còn ngạo mạn đưa ra quyết định triển khai lục soát tàu thuyền trên biển Đông, và trắng trợn tuyên bố với thế giới rằng quyết định này là để nhằm vào ngư dân Việt Nam. Trung Quốc lại vừa tung chiêu thâm độc in hình bản đồ chữ U chín đoạn lên hộ chiếu điện tử kiểu mới để cấp cho công dân của họ. Chúng ta đang buộc phải đối mặt với tình thế là cả tỉ công dân Trung Quốc lê cái lưỡi bò đi khắp thế giới, và tất nhiên, ở ngay tại Việt Nam khi mà chính phủ chưa có giải pháp mạnh tay.

Chúng ta sẵn sàng đàm phán nhưng chúng ta có quyền đương nhiên bằng mọi cách khẳng định mạnh mẽ chủ quyền lãnh thổ và biển đảo của mình. Và một điều tối quan trọng: đất nước này là của nhân dân Việt Nam, chúng ta không có quyền phó thác hết chuyện bảo vệ chủ quyền quốc gia cho đảng và nhà nước.

Tổ quốc đang lâm nguy, ngư dân đang chịu bao đau thương, danh dự dân tộc Việt Nam đang bị sỉ nhục, chúng ta không thể vô cảm. Đồng bào hãy cùng nhau đứng lên xuống đường đả đảo Trung Quốc xâm lược, phản đối đường lưỡi bò, bảo vệ máu thịt Việt Nam, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và biển đảo quê hương, và chứng tỏ danh dự của dân tộc thông qua từng người biểu tình. Đây chính là cơ hội rất tốt để huy động công luận thế giới, gắn kết đồng bào Việt Nam bất kể chính kiến, đảng phái, tôn giáo, trong hay ngoài nước… hễ ai mang dòng máu Việt Nam đều gánh trên vai trách nhiệm với Tổ quốc.

Khi mà quân bành trướng Bắc Kinh xâm phạm bờ cõi Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ, liên tục kể từ năm 1956 (năm 1956 Trung Quốc đã chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa), và ngày càng leo thang nghiêm trọng, thì chúng ta không thể ngồi im. Tình đoàn kết trong nghĩa đồng bào là thứ vũ khí mạnh mẽ nhất, thông minh nhất để chiến thắng bất cứ kẻ thù nào.

Dân tộc Việt Nam không đời nào chịu khuất phục!

Đứng lên trong nghĩa đồng bào
Miệng thét đả đảo, tay cao ngọn cờ
Những loài cướp nước đừng mơ
Những quân bán nước vong nô đừng hòng
Các con của Mẹ một lòng
Việt Nam quyết thắng, quang vinh muôn đời!
Mẹ Việt Nam ơi, chúng con đứng bên Người!

Nhật ký yêu nước  -  Basam   -   xuanvietnam

Huy Đức

Vì sao tôi viết?


Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm. (Hình phải:Tác giả sách BÊN THẮNG CUỘC,Huy Đức).

Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
 
Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
 
 Nhưng, hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
 
 Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.

Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.

Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kinh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam... Chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.

Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy…

Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.

Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.

Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.

Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980s, nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5] cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.

Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975. Ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi, đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970s, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.

Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học hàng đầu của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, như để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.

 Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng, bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.

Sài Gòn - Boston (2009-2012)

Sách BÊN THẮNG CUỘC   - 
Bên thắng cuộc-(Cuốn 1:Giải phóng)

Huy Đức

[1] Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
 [2] Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
 [3] Đạo diễn điện ảnh.
 [4] Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
 [5] Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).

@facebook/huyduc

Wednesday, December 5, 2012

KT

10 dự báo kinh tế thế giới 2013 của Goldman Sachs

Tin tốt là, bức tranh tăng trưởng có thể sẽ sáng sủa hơn trước đây một chút…
 
Các chuyên gia kinh tế của ngân hàng Goldman Sachs gần đây đã liên tiếp đưa ra các báo cáo đánh giá, nhận định về kinh tế thế giới trong năm 2013, trong đó đặc biệt nhấn mạnh rằng khó khăn sẽ sớm qua đi.
 
Kinh tế toàn cầu sáng sủa hơn
 
Theo báo cáo về 10 xu hướng kinh tế toàn cầu của hai chuyên gia Dominic Wilson và Kamakshya Trivedi, 2013 có khả năng là một năm nữa kinh tế Mỹ và toàn cầu tăng trưởng chậm. Tuy nhiên, tin tốt là, bức tranh tăng trưởng có thể sẽ sáng sủa hơn trước đây một chút và các nhà đầu tư có thể thoải mái hơn về một số nguy cơ lớn mà họ đã phải lo lắng suy nghĩ trong vài năm qua.
Dưới đây là 10 dự báo lớn cho năm 2013, được tạp chí Tài chính Kinh tế Trung Quốc đăng tải hôm 4/12
 
1. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu: Sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn, con đường phía trước sẽ thoáng đãng hơn
 
Xét từ góc độ thị trường mà nói, thách thức lớn nhất chính là, rủi ro tăng trưởng kinh tế sẽ tập trung vào đầu năm 2013. Quý 1 có khả năng sẽ xuất hiện hiện tượng tăng trưởng kinh tế toàn cầu trì trệ hơn, khoảng cách về nhịp độ tăng trưởng giữa các khu vực trên thế giới bị mở rộng, đặc biệt là ở các nước phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế toàn cầu vẫn còn dư địa tăng trưởng nhờ tình trạng chênh lệch sản lượng và nguồn cung năng lượng dồi dào hơn.
 
2. Các ngân hàng trung ương hàng đầu thế giới sẽ tung ra nhiều hơn các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ
 
Môi trường chính sách lãi suất siêu thấp sẽ tiếp tục được duy trì ở các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Theo dự báo này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chuyển hướng quyết định chính sách sang hướng lấy vĩ mô làm nền tảng, chứ không phải theo diễn biến hàng ngày như trước. Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bí mật tiến hành các chương trình thu mua tài sản tư nhân.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thể sẽ tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, nhưng khả năng sẽ có nhiều xáo trộn lớn trong ngắn hạn. Đây cũng là vấn đề đang gây tranh luận nhiều nhất
 
3. Cơ sở “tìm kiếm lợi suất” sẽ ngày càng trở nên khó nắm bắt
 
Năm 2013, lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ sẽ tăng lên, nhưng không có ảnh hưởng lớn tới mức gây ra một làn sóng nhà đầu tư đổ tiền vào lĩnh vực này để tìm kiếm lợi ích.
Đến năm 2014, do tăng trưởng cao hơn và tác dụng của các chương trình nới lỏng định lượng không ngừng giảm đi, thị trường trái phiếu sẽ gặp rủi ro. Vay tín dụng được nới lỏng sẽ khiến các công ty sử dụng đòn bẩy trở lại, vì thế rủi ro này sẽ phình to hơn. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng doanh nghiệp sẽ vẫn còn khả quan tại hầu hết các thị trường.
 
4. Thị trường bất động sản của Mỹ sẽ dần ổn định trở lại, khu vực tư nhân sẽ từng bước hồi phục
 
Sự cải thiện trên thị trường nhà đất Mỹ sẽ tiến thêm được một bước trong năm 2013. Các hoạt động trên thị trường này sẽ tiếp tục được mở rộng, trong bối cảnh lãi suất thế chấp vẫn duy trì ở mức thấp kỷ lục và các điều kiện cho vay tương đối dễ dàng.
Trên cơ sở đó, có hai loại tài sản mà nhà đầu tư cần lưu tâm. Thứ nhất là các chứng khoán được chọn từ chỉ số tài chính đo lường giá trị chung của các khoản thế chấp dưới chuẩn (ABX Index). Thứ hai là các ngân hàng của Mỹ – đối tượng được hưởng lợi khi các hoạt động cung cấp tín dụng nhà ở bình thường trở lại nếu giá nhà tiếp tục tăng cao.
 
5. Khu vực đồng Euro sẽ không còn gây nhiều rủi ro cho kinh tế toàn cầu, nhưng đây vẫn là một bước cản
 
Tăng trưởng kinh tế Khu vực châu Âu vẫn còn yếu kém trong năm 2013, trong đó trọng tâm cần giải quyết vẫn là khủng hoảng nợ công. Rủi ro kinh tế Tây Ban Nha sẽ gia tăng trong đầu năm 2013. Sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương châu Âu có thể sẽ làm giảm áp lực cho kinh tế Tây Ban Nha.
Sức ép đối với kinh tế Italy có thể giảm bớt nhưng cuộc tuyển cử sẽ khiến tình hình chính trị tại đây trở nên thiếu ổn định. Kinh tế của Pháp về cơ bản sẽ suy yếu, nhưng môi trường tiền tệ nới lỏng có thể sẽ mang lại tác dụng bù đắp phần nào.
Dù rủi ro tại Khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn cao hơn so với bất kỳ khu vực nào khác, nhưng các tài sản của khu vực này vẫn có thể chứng kiến đà tăng mạnh nhờ những tiến triển trong chính sách và sự vắng bóng của các mối căng thẳng mới.
 
6. Các nền kinh tế trung tâm và ngoại vi Khu vực đồng tiền chung sẽ tiếp tục bị phân hóa
Đức sẽ xuất hiện hiện tượng tăng trưởng “quá nóng”. Sự chênh lệch về tăng trưởng kinh tế giữa Đức và các nước khác như Tây Ban Nha sẽ trở nên rõ ràng hơn. Lĩnh vực giao dịch các các quốc gia ngoại vi Khu vực đồng tiền chung và lĩnh vực phi giao dịch của các quốc gia trung tâm của khối này sẽ trở nên rõ nét hơn.
 
7. Tăng trưởng kinh tế của các thị trường mới nổi sẽ khiến căng thẳng công suất bị lặp lại
 
Năm 2013, tăng trưởng kinh tế của các thị trường mới nổi sẽ tăng tốc nhưng dư địa tăng trưởng không lớn bằng các thị trường phát triển. Lạm phát sẽ gia tăng rủi ro thắt chặt chính sách tiền tệ vào cuối năm 2013 và trong 2014. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ bị kìm lại, dần theo hướng ổn định.
 
8. Tình trạng phân hóa giữa các thị trường mới nổi sẽ tiếp tục diễn ra
 
Các nền kinh tế khác nhau sẽ có những biện pháp ứng phó không giống nhau đối với sức ép lạm phát. Một số nền kinh tế sẽ xuất hiện tình trạng mất cân bằng tài khoản vãng lai. Dù vậy, ít nhất các thị trường vẫn có một số điểm tương đồng. Chẳng hạn như các thị trường không cho rằng các quốc gia Đông Nam Á sẽ nâng lãi suất.
 
9. Những căng thẳng trên thị trường hàng hóa sẽ được xoa dịu trong trung hạn
 
Thị trường hàng hóa toàn cầu sẽ xuất hiện sự thu hẹp mang tính chu kỳ, nhưng về cơ bản là ổn định hơn. Dự báo tính kết cấu của thị trường dầu mỏ sẽ theo hướng ổn định, giá cả bình ổn hơn, nhưng xu hướng tăng giá sẽ còn tiếp tục. Lượng cung ứng dầu thô của Mỹ sẽ làm giảm bớt sức ép cho toàn cầu.
Điều quan trọng là thị trường dầu sẽ ổn định hơn với khả năng đạt được nguồn cung dồi dào hơn tại mức giá từ 80 – 90 USD/thùng ngày càng tăng cao. Khi tình trạng căng thẳng nguồn cung năng lượng toàn cầu được xoa dịu cũng là lúc một trong những trở ngại lớn đến đà phục hồi kinh tế được đẩy lùi.
 
10. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ theo hướng ổn định (trên 8%), nhưng không mạnh như trước
 
Thị trường địa ốc của Trung Quốc sẽ liên tiếp xuất hiện đỉnh có tính chu kỳ, nhu cầu xây dựng giảm xuống sẽ gây sức ép cho thị trường quặng sắt và than đá. Trong khi đó, việc hoàn thành các tòa nhà mới trong vòng 6-9 tháng tới có thể thúc đẩy giá đồng nhưng kim loại này có thể đạt đỉnh sau đó.
 
Kinh tế Mỹ hết thời èo uột
 
Trong một báo cáo khác cũng của Goldman Sachs, chuyên gia kinh tế Jan Hatzius đã cho rằng, 2013 sẽ là năm cuối cùng nền kinh tế Mỹ ở trong tình trạng èo uột như hiện nay. Báo cáo mang tên “Kinh tế Mỹ giai đoạn 2013 – 2016: Vượt qua cam go” đã đưa ra cái nhìn lạc quan về nền kinh tế đầu tàu thế giới.
 
Jan Hatzius dự báo sau năm 2013, kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng với tốc độ trên 3%. Đây là con số không có gì đáng ngạc nhiên nhưng là tỷ lệ tốt hơn nhiều so với tốc độ hồi phục của kinh tế Mỹ thời kỳ 2009. Báo cáo của Hatzius được đưa ra dựa trên mô hình cân bằng tài chính. Mô hình này cho rằng thặng dư của khu vực tư nhân tăng lên sẽ bù đắp được thâm hụt của khu vực công.
 
Theo phân tích của chuyên gia này, sau năm 2013, kinh tế Mỹ sẽ được hưởng lợi từ sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là kể từ 6 tháng cuối năm 2013 khi thị trường nhà đất phục hồi mạnh mẽ hơn, các công ty bắt đầu giải ngân lượng vốn lớn hiện đang bế tắc vì nhiều lo ngại và tỷ lệ tiết kiệm cá nhân sẽ giảm xuống.
 
Alan Phan

Tuesday, December 4, 2012

Russia

Nga và tham vọng
mở đường hàng hải xuyên Bắc Cực
 
Trích dẫn
 

Nhưng trước hết xin được điểm bài báo dài trên phụ trang Địa lý-Chính trị của tờ Le Monde nói về chiến lược của Nga để làm chủ con đường giao thông trên biển –tuyến đường Đông Bắc, chung quanh Bắc Cực. Chủ nhân con tàu phá băng Rosatomflot của Nga đang ấp ủ một công trình đầy tham vọng : mở rộng con đường hàng hải nối liền châu Á với Châu Âu đi ngang qua Bắc cực, vùng thuộc chủ quyền của Nga.
 
Về lâu về dài Matxcơva muốn biến con đường ấy thành một mối cạnh tranh lợi hại với Kênh đào Suez.Để so sánh, chặng đường nối liền cảng Busan của Hàn Quốc với Mourmansk của Nga dài hơn 19 700 km và phải mất 37 ngày tàu mới cặp bến. Với tuyến đường Đông Bắc, hành trình được rút ngắn xuống còn 18 ngày.
 
Tuy nhiên tuyến đường tắt đi ngang qua miền bắc nước Nga đòi hỏi một số điều kiện nhất định. Thứ nhất vỏ tàu bắt buộc phải có độ dày nào đó để bảo đảm an toàn khi đụng phải những tảng băng, thứ hai là tàu chở hàng chỉ được phép đi sau một con tàu phá băng của Nga. Bất tiện thứ ba là con đường Đông Bắc chỉ có thể hoạt động vài tuần hàng năm vào những tháng hè ấm áp nhất.
 
Hiện tại mỗi năm có 18 000 tàu bè đi qua Kênh đào Suez nối liền Hồng Hải với Địa Trung Hải, 1000 triệu tấn hàng được chung quyền qua ngả này. Trong khi đó con đường hàng hải đi qua Bắc Cực, mang tên «tuyến đường Đông Bắc » do Nga khai thác mới chỉ mở ra cho tàu bè quốc tế qua lại từ năm 2010 và chỉ hoạt động được vài tháng trong năm.

Chỉ có 1,2 triệu tấn hàng- chủ yếu là dầu hỏa và khí đốt- được chung chuyển qua ngả này. Thế nhưng theo đặc phái viên báo Le Monde chỉ trong một vài năm nữa tuyến đường Đông Bắc sẽ có tầm ảnh hưởng rất lớn, nhờ dự án đầu tư khổng lồ Yamal của tập đoàn Nga Gazprom. Rosatomflot cho biết trong một thập niên tới, hàng năm sẽ có 20 triệu tấn hàng được chung chuyển qua ngả này, thay vì một triệu tấn như hiện nay.
 
Bản thân chính phủ Nga đã trang bị thêm tổng cộng là 6 tàu phá băng chạy bằng năng lượng nguyên tử để bảo đảm an toàn cho khách hàng. Sự phát triển của con đường hàng hải này có được nhờ khí hậu trái đất được hâm nóng. Cách nay 2 năm, tàu bè chỉ có thể qua lại khu vực này trong vỏn vẹn vài tuần lễ từ tháng 6 đến tháng 9, thế nhưng năm nay, con đường Đông Bắc đã hoạt động mãi cho đến giữa tháng 11. Năm 2010, chỉ có 4 tàu nước ngoài đi ngang qua đây, đến nay thì đã có 46 chiếc sử dụng con đường hàng hải mới vừa mở ra nói trên.
 
Le Monde nhắc lại Nga từ xưa tới nay luôn đặc biệt quan tâm đến việc khai thác con đường hàng hải Đông Bắc. Thành phố cảng Mourmansk được dựng lên vào đầu thế kỷ XX nhằm bảo đảm cho nước Nga một cánh cổng ra biển Barents. Kể từ năm 1970 con đường Đông Bắc đã đóng một vai trò chiến lược trong giai đoạn Liên Xô bắt đầu khai thác dầu khí ở Bắc cực. Ngay từ năm 1987 chủ tịch Liên Xô thời đó là ông Machail Gorbatchev đã chủ trương mở rộng con đường hàng hải này để cho tàu thuyền quốc tế qua lại. Thế rồi Liên Xô cũ sụp đổ vào tháng7/1991 và kế hoạch đó đã bị chìm vào quên lãng cho đến đầu những năm 2000 đề án nâng cấp con đường Đông Bắc mới được khởi động trở lại.
 
Thanh Hà
@rfi   -   Northern sea route  - 

Monday, December 3, 2012

HS-TS


'Ngư dân Việt Nam là mục tiêu chính
 trong kế hoạch chặn bắt tàu thuyền của Trung Quốc'

Ngư dân Việt Nam là đối tượng bị nhắm tới đầu tiên trong chính sách chặn bắt tàu thuyền của Trung Quốc ở Biển Đông, một quan chức Trung Quốc công khai thừa nhận với báo Mỹ ngày 1/12.
 
Trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên báo New York Times của Mỹ số ra ngày 1/12, một quan chức tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) công khai thừa nhận ý đồ chặn bắt tàu thuyền nước ngoài của Trung Quốc tại Biển Đông là nhằm tăng cường năng lực khống chế các quần đảo nằm bên trong “đường lưỡi bò”, với ngư dân Việt Nam là đối tượng bị nhắm tới trước tiên.
Trung Quốc sẽ áp dụng chính sách chặn xét tàu thuyền của các nước hoạt động trong phạm vi “đường chín đoạn” mà nước này ngang nhiên tự vẽ ra ở Biển Đông.

“Phạm vi áp dụng bao trùm toàn bộ các hòn đảo hay bãi đá nằm bên trong đường 9 đoạn và các vùng biển lân cận”, Giám đốc Sở Ngoại vụ Hải Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, ông Ngô Sĩ Tồn, xác nhận với phóng viên tờ New York Times trong cuộc phỏng vấn được thực hiện tại Hải Khẩu, thủ phủ tỉnh Hải Nam, Trung Quốc.
 
Quan chức này khẳng định các quy định mới sẽ được áp dụng kể từ đầu tháng 1/2013 trên toàn bộ các hòn đảo nằm rải rác trên Biển Đông và các vùng biển xung quanh. Với quyết định mới này, lực lượng công an biên phòng Trung Quốc sẽ được phép chặn giữ, lục soát và trục xuất các tàu thuyền nước ngoài hoạt động bên trong khu vực lãnh hải 12 hải lý quanh các đảo mà Trung Quốc đòi chủ quyền.
 
Ông này cũng công khai khẳng định với báo Mỹ rằng mục tiêu trước mắt của quyết định mới này là nhằm đối phó với các tàu đánh cá Việt Nam trong vùng biển xung quanh đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi được Trung Quốc gần đây chọn để đặt trụ sở của cái gọi là "thành phố Tam Sa",
 
Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm giữ trái phép và đặt tên là đảo Vĩnh Hưng. Gần đây, Trung Quốc đã chọn đảo Phú Lâm để đặt trụ sở chính của cái gọi là “thành phố Tam Sa”, đơn vị hành chính được thành lập trái phép hồi tháng 7 vừa qua để quản lý toàn bộ Biển Đông. Ngoài ra, Phú Lâm cũng là nơi được Trung Quốc đặt đại bản doanh của đơn vị quân đội đồn trú trên Biển Đông.

@Dân trí   -   petrotimes

Sunday, December 2, 2012

Trần Đông Phong

 
Về một bài thơ của cụ Phan Bội Châu
tặng ông Ngô Đình Diệm
 
Gần đây, một vài vị khán giả của đài truyền hình STBN có liên lạc với người viết để hỏi thăm thêm về một bài thơ của cụ Phan Bội Châu tặng cho ông Ngô Đình Diệm vào năm 1933 mà họ đã nghe được trong một buổi nói chuyện giữa người viết và ký giả Tường Thắng, người phụ trách Chương Trình Lịch Sử Cận Đại trên đài truyền hình STBN, hồi mấy tháng về trước.
Người viết xin mượn bài viết này để trả lời cho câu hỏi đó.
 
Trong số những nhà cách mạng chống lại thực dân Pháp trong lịch sử Việt Nam thời đầu thế kỷ thứ 20, có hai người cùng họ Phan được toàn dân xem như là hai nhà cách mạng vĩ đại nhất, đó là cụ Phan Sào Nam tức là Phan Bội Châu(Hình phải)và cụ Phan Tây Hồ tức là Phan Chu Trinh. Cụ Phan Chu Trinh từ trần tại Sài Gòn vào năm 1926 và Cụ Phan Bội Châu từ trần vào năm 1940, sau hơn 15 năm bị quản thúc tại Bến Ngự, Huế.
 
Cụ Phan Bội Châu sinh năm 1867, lớn hơn ông Ngô Đình Diệm 33 tuổi. Không rõ cụ có liên hệ gì với ông Ngô Đình Khả, thân phụ của ông Diệm hay không, tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm thì còn quá trẻ cho nên cụ Phan Bội Châu không quen biết gì với ông vì cụ đã rời Huế lên đường đi làm cách mạng từ năm 1905, lúc đó ông Ngô Đình Diệm chỉ mới lên 4 tuổi.(Xem hình dưới đây). Sau khi bị bắt tại Thượng Hải vào năm 1925, người Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về Hà Nội để đưa ra tòa. Cụ bị tòa án Pháp lên án tử hình vì tội chống lại chính quyền thuộc địa của người Pháp, tuy nhiên vì dư luận quần chúng trên toàn quốc cực lực phản đối bản án này cho nên Toàn Quyền Varenne đã phải giảm án tử hình xuống chung thân khôå sai và sau cùng thì lại giảm thành “quản thúc tại gia” và cụ bị đưa về an trí tại Huế vào năm 1926.
 
Hoàng Đế Bảo Đại và Thượng Thư Ngô Đình Diệm
 
Trong khoảng thời gian từ khi cụ Phan Bội Châu về sống tại Huế, ông Ngô Đình Diệm đang lần lượt giữ các chức vụ như Tri phủ Hải Lăng tại tỉnh Quảng Trị, Tri Phủ Hòa Đa tỉnh Phan Thiết, Huấn Đạo Đà Lạt, Tuần Vũ Phan Thiết v.v., do đó cho đến năm 1933, sau khi Hoàng Đế Bảo Đại từ Pháp trở về cầm quyền, nhà vua mới mời ông Diệm về giữ chức Thượng Thư Bộ Lại tại triều đình và đến lúc đó ông mới về sống ngay tại kinh đô Huế.
Trong cuốn hồi ký “Con Rồng Việt Nam,” Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng ông từ Pháp trở về nước để cầm quyền thì được Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài tiết lộ cho biết rằng Hoàng Đế Việt Nam không có quyền hành gì cả:
 
Bảo Đại: Nhưng còn quyền hạn của Trẫm, công việc của Trẫm? Các quan Thượng làm việc ra sao?

Nguyễn Hữu Bài: Kính tâu Hoàng Thượng, trước kia thì mỗi bộ tâu trình lên Hoàng Đế và đệ lên dự án để xin quyết định. Nhưng sau đức Tiên Đế Khải Định băng hà năm 1926 thì đã có một thỏa ước với nước Pháp, theo đó Nội Các sẽ họp dưới sự chủ tọa của viên Khâm Sứ, mình phải báo cáo và xin quyết định. Tòa Khâm Sứ ra chỉ thị, nhất là về ngân sách. Chính phủ Pháp thu thuế và trao lại cho Nam Triều đủ để trả lương cho nhân viên để có thể tồn tại. .. Thực tế, thỏa ước này đã trao hết quyền hạn cho viên khâm sứ, từ chính trị đến tư pháp. Ở Bắc Kỳ, hiện nay viên Thống Sứ ở Hà Nội đang nắm quyền Phó Vương rồi.

Bảo Đại: Vậy thì Trẫm còn quyền gì?

Nguyễn Hữu Bài: Hoàng Thượng còn giữ được quyền về . .. nghi lễ, quyền ân xá tội nhân, quyền phong sắc cho các thần linh, quyền cấp phát tưởng lục, phẩm hàm cho người sống hay người chết v.v.”
 
Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng sau đó ông đã vận động và tranh đấu để nắm lại quyền hành và ngày 10 tháng 12 năm 1932, ông đã công bố một đạo dụ loan báo ý định cầm quyền dưới hình thức quân chủ lập hiến. Ông cho biết rằng đạo dụ này được dân chúng, nhất là giới trẻ nhiệt liệt hoan nghênh và sang đến ngày 2 tháng 5 năm 1933 thì ông lại ban hành một đạo dụ mới đặt cơ cấu cho sự cải cách và ông trực tiếp nắm quyền lãnh đạo. Bảo Đại cho biết rằng ông đã mời một người trẻ tuổi là ông Ngô Đình Diệm về giữ chức Thượng Thư Bộ Lại:
“Tôi cho vời một viên quan tỉnh trẻ tuổi nhứt là ông Ngô Đình Diệm, lúc ấy làm Tuần Vũ Phan Thiết, để đảm trách Bộ Lại. Vốn dòng quan lại, anh ruột ông ta làm tổng đốc tỉnh Faifo. Diệm năm ấy mới 31 tuổi, nổi tiếng là thông minh, liêm khiết. Đây là một người quốc gia bảo thủ. Ngoài chức vụ thượng thư, Ngô đình Diệm còn là Tổng Thư ký cho Hội Đồng Hỗn Hợp về Canh Tân đã được ban bố năm trước, bao gồm các thượng thư Việt Nam và hàng công chức cao cấp Pháp. Ngô Đình Diệm được Nguyễn Hữu Bài trước khi về hưu tiến cử.”
Tuy nhiên chỉ mấy tháng sau ngày nhậm chức Thượng Thư Bộ Lại, ông Ngô Đình Diệm đã xin từ chức vì ông thấy rõ dã tâm của người Pháp là họ không bao giờ muốn trao trả quyền hành lại cho triều đình Việt Nam. Cựu Hoàng Bảo Đại cho biết rằng sau 4 tháng, vào đầu tháng 9 năm 1933, Ngô Đình Diệm liền xin gặp ông và nói:
 
“Tâu Hoàng Thượng, hạ thần đến để xin Hoàng Thượng cho từ chức và cũng xin Hoàng Thượng cho giải nhiệm luôn tất cả những chức vụ mà Hoàng Thượng đã trao phó từ trước.

Bảo Đại: Quan Thượng, viên thư ký Nguyễn Đệ đã tâu trình Trẫm tất cả nỗi khó khăn của ông, nhưng Trẫm nghĩ rằng ông nên tiếp tục ở lại.
 
Ngô Đình Diệm: Tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng tha tội cho kẻ hạ thần nhưng quả hạ thần không thể nào ở lại được. Ở lại chức vụ này, quả nhiên là một trò hề đau khổ cho kẻ hạ thần mà hạ thần không thể nào kham nổi. Người Pháp đã nắm lấy hết quyền hành, họ đã cai trị trực tiếp, luôn luôn nhân danh hòa ước bảo hộ nhưng họ không lúc nào không vi phạm từng ngày, từng giờ.
 
Bảo Đại: Quan Thượng, Trẫm hiểu tinh thầm trách nhiệm của Quan Thượng. Sự liêm khiết ấy đã tôn vinh ông lên rất nhiều, nhưng cần phải chờ thời. Đất nước ta chưa sẵn sàng. Sau nữa, những năm sắp tới đây còn dành cho chúng ta nhiều biến chuyển. .. Chiến tranh khó có thể tránh được ở Âu Châu, và như thế, sẽ có nhiều hậu quả đối với Á Châu mà Nhật Bản có thể là vai trò chủ chốt. Vì những lý do đó, Trẫm nhắc lời cho Quan Thượng sự yêu cầu của Trẫm lần nữa.
 
Ngô Đình Diệm: Kính tâu Hoàng Thượng, thật quả là điều mà hạ thần không thể kham nổi. Kẻ hạ thần không được quyền ở lại. Kính xin Hoàng Thượng cho phép kẻ hạ thần được rút lui”.
 
Ông ta khăng khăng một mực xin từ chức.

Bảo Đại: Được, Trẫm chấp thuận cho Quan Thượng từ chức. Quan Thượng đã muốn vậy thì Trẫm cũng chẳng thể nào làm gì được hơn. Mong rằng sự ra đi của Quan Thượng sẽ mở mắt cho người Pháp để cho họ có một tầm nhãn quan rộng lớn hơn. Dù sao nữa, mong Quan Thượng hãy sẵn sàng, có thể ngày nào đó Trẫm lại cần đến quan Thượng và Trẫm sẽ cho vời.
 
Ngô Đình Diệm: Kính tâu Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng hãy tin tưởng lòng trung thành tuyệt đối của kẻ hạ thần.”
 
Cụ Phan Bội Châu và Ông Ngô Đình Diệm
 
Việc ông Ngô Đình Diệm treo ấn từ quan vào tháng 9 năm 1933 đã gây tiếng vang trên khắp nước, không những tại Trung Kỳ mà ngay cả tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ dân chúng ai ai cũng đều có lòng cảm phục. Và một trong những người đó là nhà cách mạng Phan Bội Châu đang bị người Pháp quản thúc tại Huế, lúc bấy giờ được dân chúng ở Huế gọi một cách đầy cảm tình là “Ông Già Bến Ngự.”
Khoảng ba tháng sau ngày ông Ngô Đình Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại, vào ngày 27 tháng 12 năm 1933, nhật báo Tiếng Dân ở Huế do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm có đăng tãi “Mười Bài Vô Đề” do cụ Phan Bội Châu cảm tác, trong đó có bài thứ 5 đặc biệt để tặng cho ông Ngô Đình Diệm:

Mười Bài Vô Đề
Cụ Sào Nam năm nay thường đau luôn, không được mạnh như mọi năm. Nhưng xu xác kém nhiều mà tinh thần vẫn khảng khái. Cụ mới làm 10 bài Vô Đề, bản báo lục đăng như dưới đây. T. D.V
 
Ai biết trời Nam hãy có người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
…(kiểm duyệt bỏ).. .
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
Sào Nam Phan Bội Châu
(Tiếng Dân 27-12-1933)
 
Khi cho đăng bài thơ này vào năm 1933, kiểm duyệt của người Pháp đã cắt bỏ câu thơ thứ tư cho nên trong bài chỉ còn có 7 câu mà thôi.

Bài thơ này tuy được lồng vào trong 10 bài vô đề nhưng hồi đó thì ở Huế ai cũng biết rằng cụ Phan Bội Chân đã làm bài thơ này để tặng cho ông Ngô Đình Diệm. Khoảng hai năm sau, chính cụ Phan Bội Châu đã xác nhận trong một bài phỏng vấn trên báo Ánh Sáng là Cụ đã sáng tác bài thơ này. Hơn nửa thế kỷ sau, trong bộ “Phan Bội Châu Toàn Tập” gồm 10 cuốn do ông Chương Thâu, giáo sư Sử Học của Hà Nội sưu tầm và biên soạn và nhà Xuất Bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản vào năm 1990, trong phần chú thích, G.S. Chương Thâu có ghi rằng: “Bài này tác giả tặng NĐD.” Như vậy thì chính nhà sử học Chương Thâu của Cộng sản cũng phải thừa nhận là bài này “tác giả tặng NĐD,” tuy nhiên vì phải theo đúng quy luật và chỉ thị của chính quyền Cộng sản hiện nay, ông Chương Thâu và nhà xuất bản Thuâïn Hóa, cả ông giáo sư sử học cũng như là những người chủ trương nhà xuất bản này đều là đảng viên Cộng sản, do đó họ không được phép để nguyên tên tuổi của ông Ngô Đình Diệm mà chỉ để tên tắt là N.Đ.D. mà thôi.
 
Cụ Phan Bội Châu Không Hề Quen Biết Ông Diệm
 
Có nhiều người không có cảm tình với ông Ngô Đình Diệm thường đưa ra lập luận nói rằng sở dĩ Cụ Phan Bội Châu đã làm bài thơ nói trên để tặng cho ông Diệm là vì ông Diệm có một mối giao tình với Cụ. Lập luận này đã dựa vào những lời đồn đại nói rằng sau khi từ chức ông Ngô Đình Diệm vẫn thường lui tới thăm viếng Cụ Phan Bội Châu vì thế mà ông cựu thượng thư này đã chiếm được cảm tình của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Mới đây, trong một bài viết về Cụ Phan Bội Châu, nhà văn Huỳnh Hữu Ủy cũng cho biết như vậy: “Trong những người lui tới nhà cụ Phan, có một nhân vật đặc biệt là ông Ngô Đình Diệm, vừa từ chức Thượng Thư Bộ Lại, một nhân vật có tiếng thông minh và liêm khiết trong chính trường thời bấy giờ. Chính Cụ Phan Bội Châu cũng rất kính nể ông Diệm, cảm phục khí tiết của ông quan trẻ tuổi, nên có làm một bài thơ để tặng cho ông khi vị thượng thư đầu triều này từ bỏ quyền cao chức trọng để phản đối chính quyền Pháp và Nam triều tay sai.”

Sự đồn đại như vậy nghe ra thì cũng rất là hữu lý vì nhà của ông Ngô Đình Diệm rất gần nhà của Cụ Phan Bội Châu, khoảng cách chưa đầy một cây số (nửa mile) mà thôi. Nếu ai ở Huế thì cũng đều biết rằng căn nhà gia đình của ông Ngô Đình Diệm do Thượng Thư Ngô Đình Khả tạo dựng từ thế kỷ thứ 19 tọa lạc tại Phú Cam và Cụ Phan Bội Châu thì đã sống cuộc đời an trí cho đến khi tạ thế tại Bến Ngự. Mảnh vườn và gian nhà của cụ là do sự đóng góp của đồng bào toàn quốc qua lời kêu gọi của cụ Huỳnh Thúc Kháng, chủ nhiệm báo Tiếng Dân tại Huế và Luật sư Phan Văn Trường: “Tháng Giêng năm Đinh Mão (1927,) tôi nhờ có cụ Phan văn Trường quyên giúp được 2,500 đồng (một số tiền rất lớn hồi đó) mới mua được miếng đất làm cái lều ở Bến Ngự.” Khoảng cách về đường bộ từ Phú Cam về Bến Ngự, nếu đi dọc theo bờ sông Bến Ngự thì chỉ mất khoảng chừng mươi mười lăm phút, còn nếu đi dọc theo đường rầy xe lửa thì chỉ chừng chưa đến mười phút mà thôi.

Ông Ngô Đình Diệm có đến thăm Cụ Phan Bội Châu trong thời gian Cụ còn sinh tiền hay không, điều đó ít ai được biết vì ông Diệm không hề nói đến hoặc những người thân cận của ông cũng không có đề cập đến chuyện này dù rằng sự quen biết cũng như là việc tới lui thăm viếng hay đàm đạo với nhà đại ái quốc Phan Bội Châu có thể được xem như là một vinh dự lớn lao đối với tất cả mọi người Việt Nam hồi thế kỷ thứ 20.
 
Về phần Cụ Phan Bội Châu, Cụ có quen biết với cựu Thượng Thư Ngô Đình Diệm hay không thì chuyện đó dĩ nhiên là Cụ phải biết rất rõ.

Gần 2 năm sau ngày ông Ngô Đình Diệm từ chức, tại Huế có tin đồn nói rằng ông Diệm có thể sẽ trở lại phục vụ trong triều đình của Vua Bảo Đại và trong dịp này, Cụ Phan Bội Châu đã dành cho ông Lê Thanh Cảnh, phóng viên báo Ánh Sáng ở Huế một cuộc phỏng vấn dài hơn một tiếng đồng hồ. Bài phỏng vấn đó có đoạn như sau:
 
Ý Kiến Cụ Phan Bội Châu với Ông Ngô Đình Diệm
 
“Bây giờ tôi xin hỏi Cụ về tình hình trong nước ta hiện nay và ý kiến của Cụ về sự phục chức của ông Ngô Đình Diệm.
“Tôi mà thầy còn hỏi đến tình trạng trong nước? Cụ mỉm cười và nói với tôi như thế sau khi kéo một hơi thuốc lào dài. Cụ lại tiếp:
“Tôi có đi được nhiều đâu mà biết rõ, vả ông Ngô Đình Diệm(Hình phải dưới) xưa nay tôi cũng không được biết mặt hay hôi đàm một lần nào cả, nhưng lúc trước khi tôi nghe ông ấy thôi chức thượng thư, bỏ bốn năm trăm bạc lương một tháng, không tiếc gì đến lợi danh nữa thì tôi cũng có lòng khen. Hồi ấy tôi có làm một bài thơ nói về sự từ chức của ông Thượng họ Ngô:
 
“Ai ngỡ trần gian hãy có người,
Thoạt nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng giá rẻ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ với trời son một tấm,
Lom loem thây chúng bạc đôi ngươi.
.. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. “
Còn hai câu sau thì thôi, cũng đừng biên làm chi nữa. Đọc bài thơ ấy thì rõ ý tôi đối với sự từø chức của ông Ngô Đình Diệm thế nào, mà tôi tưởng lúc tù chức ông không thất ý, thì đối với sự phục chức ngày nay ông cũng không lấy làm đắc ý.”

“Vâng, Cụ dạy thế rất phải, nhưng ngộ như ông Ngô Đình Diệm tự nhiên trở lại ghế thượng thư thì Cụ bảo thế nào?
“Chẳng có lẽ, nhưng nếu thật như thế thì cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vất đi.”Thiết Mai Tôn Thất Cảnh(Báo Ánh Sáng số 11 ngày 11 tháng 4 năm 1935)
 
Qua bài phỏng vấn trên, Cụ Phan Bội Châu xác nhận là chính cụ đã làm bài thơ này để tặng cho ông Ngô Đình Diệm và Cụ chưa từng gặp mặt cũng như hội đàm lần nào với ông Ngô Đình Diệm. Như vậy thì bài thơ này cụ sáng tác vì lòng ngưỡng mộ đối với việc ông Ngô Đình Diệm từ chức Thượng Thư Bộ Lại để chống lại chính sách của người Pháp chứ không phải vì tình quen biết nào cả.
Về hai câu cuối cùng trong bài thơ này, theo nhà văn Huỳnh Hữu Ủy thì cũng có người đã chất vấn Cụ về việc đã hạ mình đối với ông Ngô Đình Diệm:
 
“Gần đây, ông Vương Đình Quang, nguyên là thư ký của Cụ Phan Bội Châu, trong một bài viết trên tạp chí Tiếng Sông Hương khoảng năm 1988 ở Huế, cũng có nhắc lại. Vương Đình Quang lúc bấy giờ đã thưa với Cụ Phan là tại sao Cụ lại hạ mình như vậy đối với Ngô Đình Diệm là một người lớp sau, trong khi Cụ là bậc trên, ở hàng cha, hàng anh. Nhưng Cụ Phan nói thẳng rằng Cụ là người hoạt động cách mạng, chứ nếu Cụ ở trong giới quan trường thì Cụ cũng không chắc được như ông Diệm.”

Trong bài phỏng vấn trên báo Ánh sáng năm 1935, có lẽ vì có tin đồn rằng ông Ngô Đình Diệm sẽ trở lại làm quan cho triều đình Huế cho nên Cụ Phan đã thất vọng đã trót làm hai câu đó, do đó mà Cụ nói với ông Tôn Thất Cảnh “thôi, đừng biên làm chi nữa” và nếu mà ông Diệm trở lại làm quan thì “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi.”
 
Như vậy thì bài thơ này được đăng lần thứ nhất trên báo Tiếng Dân chỉ có 7 câu và lần thứ nhì trên báo Ánh Sáng thì lại chỉ còn có 6 câu. Phải đợi cho đến năm 1957, tạp chí Văn Đàn của ông Phạm Đình Tân tại Sài Gòn mới đăng lại bài thơ này với đầy đủ nguyên văn 8 câu thơ như sau:
 
Ai biết trời Nam hãy có người,
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.
 
Ngô Đình Diệm Thay Thế Cụ Phan Bội Châu Làm Lãnh Tụ Phong Trào Cường Để
 
Như vậy thì cho đến năm 1935, năm năm trước ngày tạ thế, Cụ Phan Bội Châu chưa hề gặp gỡ và cũng chưa hề chuyện trò lần nào với ông Ngô Đình Diệm, cái cảm tình của Cụ dành cho ông Diệm trong bài thơ này cũng không bị “vứt đi” vì ông Diệm không hề trở lại làm quan cho triều đình Bảo Đại. Không những cảm tình với ông Ngô Đình Diệm không hề bị mất đi mà có lẽ càng tăng thêm là đằng khác vì sau khi Cụ từ trần thì ông Ngô Đình Diệm lại trở thành người lãnh đạo Phong trào Cường Để do chính Cụ Phan Bội Châu đưa sang Trung Hoa và Nhật Bản vào năm 1906. Trong phiên tòa của Hội Đồng Đề Hình Pháp xử tội Cụ tại Hà Nội ngày 23 tháng 11 năm 1925, Cụ Phan đã khẳng định Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là lãnh tụ của Cụ:

“Ông Cường Để là người chủ mà tôi chỉ là người giúp việc. .. Họ đổ cho tôi là người chủ sự, chẳng qua là họ nghe tôi ra ngoài viết báo làm sách, ai ai cũng biết, vã nếu những người ấy có quả thật là người trong đảng của tôi đi nữa thì đầu đảng của tôi là ông Cường Để, chủ sự tất tự ông Cường Để chớ sao lại tự tôi?”
Cụ Phan Bội Châu tạ thế vào cuối năm 1940 và chỉ mấy năm sau đó thì ông Ngô Đình Diệm được tôn lên làm lãnh tụ Phong trào Cường Để. Chính nhân vật đứng hàng thứ nhì trong phong trào này là Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cho biết như sau:
“Khoảng cuối năm 1944, tôi được người Nhật đưa vào Sài Gòn. ..Ở đây, tôi gặp ông Ngô Đình Diệm.

Lập trường của họ Ngô cũng là phò tá Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trên đường phục hưng đất nước.. . Ngày hôm sau có cuộc gặp gỡ của chúng tôi với Ngô Đình Diệm đang trú ẩn tại một bệnh viện cũng bị trưng dụng nhường cho quân đội Nhật mà ngày nay là Bệnh viện Hồng Bàng. Sau cuộc gặp gỡ, họ Ngô được tôn làm vị lãnh tụ chung, một y sĩ (tôi) là phó lãnh tụ. (Ba người còn lại là Bác sĩ Lê Toàn, Vũ Đình Dy và Kỹ sư Vũ Văn An.) Về công việc thì Tổng Tư Lệnh Nhật ngỏ ý muốn giữ hai lãnh tụ ở Sài Gòn để tiện đàm luận và hoạt động về chính trị, còn người thứ ba (ông Vũ Văn An) vốn là đồng chí trong đoàn thể của họ Ngô sẽ sang Tokyo đại diện Ngô Lãnh tụ bên cạnh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, còn hai anh em (Bác sĩ Lê Toàn và Vũ Đình Di) đại diện cho Việt Nam Ái Quốc Đoàn.”
*
* *
Tóm lại, Cụ Phan Bội Châu không hề quen biêt gì với ông Ngô Đình Diệm khi cụ sáng tác bài thơ Vô Đề thứ 5 đăng trên báo Tiếng Dân vào năm 1933 đê tặng cho ông Diệm. Cụ xác nhận là Cụ làm bài thơ này vì “tôi cũng có lòng khen” tức là khen ngợi ông Ngô Đình Diệm đã “không tiếc gì đến danh lợi nữa”. Vì vậy cho nên Cụ đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ ông quan trẻ chỉ đáng hàng con cháu mình mà tình nguyện xin làm người đánh xe ngựa cho ông ta. Đến hai năm sau, khi nghe tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ trở lại làm quan tức là phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp, Cụ đã giận dữ và không muốn nhắc lại hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ đó và lại còn nói thêm rằng nếu quả thật ông Ngô Đình Diệm muốn trơ ûlại làm quan thì “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi.”

Có lẽ Cụ Phan Bội Châu đã không “vứt đi” cái mỹ cảm mà Cụ đã dành cho ông Ngô Đình Diệm qua bài thơ của Cụ viết vào năm 1933 vì ông Diệm không hề trở lại làm quan như người ta đồn đại, có lẽ “cái lòng khen” của Cụ cũng có thể tăng thêm nếu Cụ biết rằng sau khi Cụ tạ thế thì chính ông Ngô Đình Diệm là người tiếp tục vai trò của Cụ trong việc ủng hộ Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, người mà Cụ đã tôn thờ là Đảng Trưởng của Cụ từ năm 1906.
 
Cho đến khi chính phủ Laniel của Pháp ký kết với chính phủ Bửu Lộc trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam vào tháng 4 năm 1954, dù rằng đã có được mời nhiều lần nhưng ông Ngô Đình Diệm không hề nhận lời hợp tác với người Pháp. Phải đợi cho đến tháng 6 năm 1954, vì có lời mời khẩn khoản của Quốc Trưởng Bảo Đại yêu cầu về nước để cứu vãn tình hình vô vọng ở miền Nam Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm đã nhận lời thành lập chính phủ vào tháng 7 năm 1954 và sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Ngô Đình Diệm đã thành lập chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955.
 
Trong 9 năm cầm quyền, tuy Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng có phạm một số sai lầm về đường lối và chính sách, nhưng nói chung thì người Miền Nam đa số đều kính trọng sự liêm khiết, đức độ và lòng yêu nước của ông, ngay cả đến ông Hồ Chí Minh cũng phải thừa nhận rằng “ông Ngô Đình Diệm cũng là người yêu nước, theo cách của ông ấy.”(Hình phải:Tác giả Trần Đông Phong)
Cho đến ngày bị bắn và đâm chết trên chiếc thiết vận xa M-113 trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, có lẽ ông Ngô Đình Diệm cũng đã chưa làm điều gì sai trái cho đến độ Cụ Phan Bội Châu phải “vứt đi” cái lòng khen của Cụ trong bài thơ đăng trên báo Tiếng Dân tại Huế vào cuối năm 1933.
 
Ghi Chú
 
-Bảo Đại: “Con Rồng Việt Nam,” Nguyễn Phước Tộc xuất bản, California 1990 , trang 53-54.Bảo Đại: sđd, trang 91-94.
-“Phan Bội Châu Toàn Tập” Tập 5, Chương Thâu sưu tầm và biên soạn, nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 1990, trang 254-255.
-Huỳnh Hữu Ủy: “Chung Quanh Khu Di Tích Vườn Mộ Sào Nam Phan Bội Châu ở Huế,” nguyệt san Thế Kỷ 21, California, số tháng 8 năm 2006.
-Phan Bội Châu: “Những Năm Mão Trong Đời Tôi,” báo Tiếng Dân ngày 16 tháng 2 năm 1939.
-Thiết Mai Tôn Thất Cảnh: “Hơn Một Tiếng Đồng Hờ cùng Cụ Phan Bội Châu,” báo Ánh Sáng, số 11 ngày 11-4-1933, Huế. Trích lại trong Phan Bội Châu Toàn Tập, Tập 4, trang 311-319.
Người viết đăng lại nguyên văn bài thơ này để độc giả thấy rằng có vài chữ khác nhau giữa bài đăng trên Báo Tiếng Dân năm 1933 và bài đăng trên báo Ánh sáng do chính Cụ Phan đọc lại.
Huỳnh Hữu Ủy: bài đã dẫn.
-“Phan Bội Châu Toàn Tập,” Tập 4, trang 14-15. Đoạn này trích lại trong Vụ Án Phan Bội Châu của Bùi Đình do nhà xuất bản Tiếng Việt in tại Hà Nội năm 1950.
-Nguyễn Xuân Chữ: “ Hồi Ký,” nhà xuất bản Văn Hóa, Houston, Texas, 1996, trang 243-244.
California Mùa Xuân 2007
 
Trần Đông Phong
@huyenthoai - VOA - vnexodus

Saturday, December 1, 2012

Truyện ngắn Tâm Thanh


Em Gái Tôi Và Con Dê Đen
 
Thầy bu tôi theo ông bà ông vải trong trận lụt mùa thu năm mậu thân, chẳng để lại gì, ngoài một đứa em èo uột và một con dê đen. Cả hai đứa ngồi trong cái thúng chai mà tôi bám theo. Tôi ghét em tôi. Không phải tôi ích kỷ hay vô tình, mà vì chúng tôi kỵ mạng khắc khẩu, sống chung lâu đâm mỏi mệt(Right:Nhà văn Tâm Thanh).

Nuôi không thành vấn đề, tôi hơn nó những sáu tuổi, tôi nhặt rau rác ngoài chợ, muốn cải thiện chỉ việc la cà gần mấy bà bán hàng lơ đễnh, vô tư một phát là xong. Chính nó và con dê cũng biết ăn cắp. Nhiều trường hợp con bé tác nghiệp còn tốt hơn tôi nữa, nhờ không ai nghi ngờ. Không ai nghi ngờ một đứa bé chăn dê mắt đổ nhử, tóc lông nhím. Nhưng điều làm tôi không chịu nổi là tôi không thể cải tạo nó được – những ‘đức tính’ như ăn vạ, vu oan, giả vờ, thì chủ nghĩa xã hội đã dạy nó từ khi chào đời; những thói đời tiểu tư sản như rửa tay sau khi bốc cứt dê, không liếm nước mũi, không dùng dao thái hành xẻ đu đủ, không vừa chửi địt mẹ vừa gọi tên lãnh tụ... thầy bu dạy tôi, tôi dạy lại nó như nước đổ đầu vịt. Càng ngày nó càng nhếch nhác thân hình và lệch lạc đầu óc. Mười bốn tuổi mà ngứa chỗ nào, nó banh háng ra dòm chỗ đó, rồi lại khoe toáng lên có lông.

Gia đình tôi không có công với Cách mạng, nên sau khi giải phóng Miền Nam, anh em tôi không được chia chác một tí chiến lợi phẩm nào. Biết vậy tôi đã chẳng thèm đi ăn cắp vặt, mà đi làm cách mạng. Trễ còn hơn không, tôi quyết tâm bỏ làng, bỏ em, một mình vào Nam, tự vớt vát. Tôi chuồn lên cái toa chở súc vật, lượt xuôi nam bỏ không, nực mùi phân. Vừa đánh một giấc thức dậy, tôi thấy con Thín – vâng em gái tôi tên Thín – nằm ôm con dê bên cạnh. Cả hai đứa thi nhau ngáy. Tôi dạy con Thín không được, mà nó dạy con dê ăn cắp và ngáy thành tài!

Vào Sài Gòn như bay lên thiên đàng. Người Nam Bộ khờ khạo, chúng tôi giải phóng bóp tiền, giầy dép, thức ăn của họ dễ như móc đồ trong túi mình. Nhưng nguy hiểm – cán bộ, công an chìm, công an nổi, trộm cắp băng đảng, cũng đi làm ăn như mình, đụng nhau mình chết. Tôi lên Quảng Ngãi tìm vàng. Tôi lọt vào một đạo quân ô hợp tìm vàng. Vàng chẳng thấy, những tay biết thời vụ – lại là dân Bắc như tôi, do bài học lịch sử cận đại – quay ra bóc lột nhau bằng mở sòng bài, quán ôm, chòi chọi. Xuýt thấy con Thín sa vào chòi chọi. Giải cứu được nó, tôi nghĩ đã đến lúc phải gả nó đi. Tôi đưa nó vào Định Quán, lúc đầu làm rừng, sau làm rẫy. Kinh tế tương đối. Con Thín cũng trổ mã, nhờ nước da trắng. Lúc diện quần bò nom cứ như con gái Sài Gòn. Tuy nhiên nhìn kỹ, nó vẫn nhếch nhác, đứng gần nghe mùi dê pha với hành mỡ chiên. Đặc biệt đầu óc càng ngày càng lệch lạc, suy nghĩ không giống ai, nói năng câu trước chửi câu sau. Đố ai sống lâu với một con giở người giở ngợm!
Sắm đài, tậu xe đạp và có quần áo lành lặn, chúng tôi có đủ tư cách về thăm quê cũ. Trong một cuộc giao tế thịt chó với bạn bè cũ, thằng Nẫm – cũng là tay có công với Cách mạng, nay là Trưởng ban Xóa đói Giảm nghèo Huyện – nhìn con Thín chòng chọc. Hôm sau tỉnh rượu, tôi một mình ra gặp thằng Nẫm ở văn phòng của nó. Văn phòng treo hình Bác Hồ và Bác Mao. Xã giao mấy câu vớ vẩn xong, tôi vào đề ngay:

“Mày muốn lấy con Thín tao gả cho.”
Nó nghệt mặt ra thú thật đã có một vợ chính thức và ba đứa ‘con gái nuôi’, không đủ sức cáng đáng thêm. Còn nữa, đứa ‘con gái nuôi’ thứ nhì hung dữ như sư tử Hà Đông, thiếu điều xơi tái hai con kia, và nếu con vợ chính thức không có Tỉnh bộ bảo kê, nó đã chuốc độc chết rồi. Nó tiếp:
“Nhưng tại sao mày hỏi thế"”
“Tối qua tao thấy mày nhìn chòng chọc vào hai quả bưởi của con Thín!” tôi trả lời.
“Tao cũng thèm thật, nhưng... thôi đã nói rồi,” nó ngưng một chập ra điều nghĩ ngợi, rồi tiếp, “Gả nó cho Trung Quốc đi!”


Tôi nhìn lên ảnh hai cụ thông gia – Bác Mao to hơn Bác Hồ. Nghi mình loạn thị, tôi nghiêng đầu, hỏi:
“Hai bức ảnh không đều nhau"”
“Đã hẳn!”
Tôi đánh ngón tay trên bàn tư duy. Đây là dịp thoát nợ. Tôi gật đầu, thòng một câu nhân đức:
“Đừng để cho nó phải khổ đấy!”
“Yên chí, tao làm mai đám tốt cho. Cơ mà, ngoài bưởi và nước da, nó có cái gì tốt để tao còn khuyến mãi"”


Tôi hớp một ngụm cà phê từ cái cốc chị phục vụ ngoài đường bưng vào. Thằng Nẫm giới thiệu chị là đối tượng xóa đói giảm nghèo. Tôi chưa bao giờ đánh giá cao em gái, biết gì mà khuyến mãi bây giờ. Thấy tôi không mở mồm, thằng Nẫm hiểu ý, cười ruồi nói tiếp:
“Tao thấy nó cũng chan hòa đấy chứ" ”
“Ừ, chan hòa cả với dê.”
“Nó còn ôm con dê ấy à"”
“Con dê già lụ khụ, nhờ vậy còn sống... Với kẻ lạ con Thín cũng chan hòa, nên mới xuýt bị hiếp ở Quảng Ngãi.”
“Sự cố thế nào"”
Con Thín, cũng vì cái tính chan hòa (đồng bào Nam Bộ gọi là hòa đồng) nên bọn đầu gấu, mẹ mìn tưởng là đĩ thõa, định làm thịt rồi đưa vào động. Tôi thêm mắm muối vào và kể cho tới khi đá tan hết trong cốc cà phê, Thằng Nẫm liếm môi hỏi:
“Mới xuýt hay đã bị hiếp rồi" Nếu rách mẹ nó rồi thì phải đi vá lại trước khi tính chuyện.”
“Nói chung là chưa. Tao can thiệp kịp thời.” Tôi vạch lưng cho nó xem cái thẹo ngang bả vai, “Chiến tích đây này!”
“Mày thương em phết. Hay thôi, bỏ chuyện làm dâu Trung Quốc đi.”
Biết nó đạo đức giả, tôi chép miệng giả theo:
“Nói chung tao có mỗi mình nó, bảo sao không thương. Nhưng anh em lớn lên cũng phải tự lập. Mày cứ làm vậy đi.”
“Cấm hối hận đấy nhá. Về bàn với em mày đi. Thứ bảy có dạ tiệc giao lưu, nói chung có nhiều mục vui phết, mày xem là máu liền. Mày đưa nó lại nhà hàng Đầm Sen. Cứ nói với bảo vệ muốn gặp tao. Đến sớm hai tiếng để vào nề nếp!” Nó rút ngăn kéo ra một tờ giấy bảo, “Ký vào đây.”
Tôi đọc sơ, nói:
“Mày làm như bán trâu. Chờ tao thông qua với nó một tiếng đã chứ.”
“Vậy cũng được.”
Tôi nốc cạn cốc cà phê đá nhạt thếch, đứng dậy, bước ra cửa. Nó khều lại nói:
“Quên! Cái chủ yếu lại quên. Ba trăm đấy. Con Thín hăm bảy là hơi già, nhưng chỗ anh em, tao sẽ ép chúng nó trả mày ba trăm đô Mỹ.”


Ba trăm đô bằng một năm thu nhập béo của tôi, tôi đâu còn đường nào để mà cân với nhắc nữa" Vừa tống của nợ đi vừa có tiền! Tuy nhiên mặc cảm bán rẻ em gái và nghĩ đến lúc chia tay, tôi hơi bất nhẫn. Để khỏi nghĩ ngợi linh tinh, tôi xuống xóm tìm tươi mát. Sớm quá, các em còn ngủ. Mụ cai gà – tương đối trẻ – kéo tôi ngồi uống cà phê đợi. Mụ bấm điện thoại cầm tay bảo lính chở tới một em. “U16 đấy, chịu khó đợi nhá,” mụ quay sang tôi nói. “Dưới 16, anh sẵn sàng chờ cho em lên 17 cũng chẳng sao,” tôi đùa, tự thấy nhạt nhẽo. Khoảng nửa giờ sau, một thằng ma cô đèo honda hai em tới, trông thoáng biết ngay là gái dạt từ Cửa Lò, Sầm Sơn về (bây giờ là cuối tháng chín, ngoài biển vắng khách). Tôi cụt hứng, lắc đầu. May hai em tương đối hiền, không chửi rủa tôi mở hàng phá thối. Các em tót lên honda đi rồi, mụ lại móc điện thoại bấm.
“Khách Việt kiều khó tính. Nhớ U16 đấy!” mụ cố ý nói to cho tôi nghe.
Mụ tắt điện thoại, tôi nói:
“Này em, có thật U16 không đấy" Em đừng nói điêu nhá" Thật thì anh chờ, không anh đi chỗ khác đây. Cứ như hai em gái dạt ban nãy, thà anh quan hệ với em.”
“Anh thử quan hệ em đi" Anh không máu em không lấy tiền.”

Cái mồm mụ này có bùa, tôi xiêu lòng. Mụ đánh thức một lính ra canh động, rồi dắt tôi vào buồng. Mụ tác nghiệp đúng như ý tôi muốn, không cần chỉ đạo từng bước.
Đang nửa mùa thì có tiếng oang oang ngoài cửa. Tôi nghe đúng là giọng thằng Nẫm.
“Động tiên gì mà vắng hoe tối tăm thế này"”
Tiên sư cái thằng có bốn vợ mà còn vác dế tới đây! tôi rủa thầm. Không lẽ nó biết tôi ở đây nên tới dò xét. Tôi ghì đầu mụ xuống và nói khẽ vào tai:
“Đừng rên nữa, mặc dù em giả đò.”
Mụ đáp lại vài câu tục tĩu và cứ rên la. Bên ngoài thằng Nẫm nói chõ vào buồng:
“Ban ngày ban mặt mà làm khiếp thế" Thôi, không làm phiền, anh chỉ đến báo cho em biết là chuyến này đủ người rồi. Thứ bảy em không cần tới dạ vũ giao lưu. Chờ chuyến sau nhá!” Nói xong nó ra honda biến nhanh, tuồng như sợ mụ cai đuổi theo.

Quan hệ xong, tôi càng thêm bức xúc. Trả tiền, rồi đi thật nhanh ra khỏi xóm. Vậy là thằng Nẫm khốn nạn tính kế hoạch để em tôi thế chỗ cho con đĩ này" Tôi nghĩ và ruột gan sôi lên.
Vừa đi ra con đường bụi mịt mù để về nhà trọ, anh xe ôm nói với tôi:
“Thủ trưởng, tôi có cái này hay lắm, muốn nói, mà ngại.”
“Tôi không phải thủ trưởng. Nhưng cái hay của các anh chắc cũng như vừa rồi là cùng. Tôi mệt rồi.”
“Thủ hiểu nhầm rồi. Gọi là hay chứ không hay cho thủ và cô em...”
“Em nào"”

Trước sự ngạc nhiên của tôi, anh xe ôm kể anh biết hết đường đi nước bước của tôi và em gái tôi. Anh khuyên tôi nên đưa em gái vào Nam ngay và đừng bao giờ liên hệ với bọn thằng Nẫm. Chúng nó không những chỉ làm giầu riêng, mà còn kết thành một mạng lưới tay sai cho Trung Quốc trong hết mọi lãnh vực từ buôn bán, ngân hàng, tới sản xuất nông nghiệp, khai thác rừng, cát, kể cả bao thầu điện nước cả vùng. Tôi hỏi no nê như vậy, hà cớ gì họ phải làm hại chúng tôi. Anh ta nói nếu cô Thín không đi làm dâu Trung Quốc thì tụi đầu gấu sẽ làm cho tàn mạt suốt đời. Còn đi thì “Tôi khuyên không nên. Con gái tôi sống giở chết giở bên đó... Vúc vách có tai, tôi không nói nữa đâu.”
“Tại sao anh tốt với em tôi"”
“Nói chung tại cô em thủ trưởng tốt với tôi. Cô ấy đã cho tôi tiền. Sáng nay tôi đã chở cô đi thăm mộ ông bà cụ, cô ấy hỏi gia cảnh, tôi kể tình thực, và cô ấy cho tiền. Cô moi hết tiền bạc cô ấy có trong bóp, nói để tôi chuộc con gái tôi. Tôi hỏi tại sao cô làm vậy" Cô nói vì thủ trưởng dạy trước hết phải thương lấy con người, mọi thứ khác là giả, Đảng chỉ là đảng cướp.”


Tàu hỏa bây giờ đã khang trang hơn. Toa chở người và súc vật riêng biệt. Và chúng tôi mua vé đàng hoàng. Tôi nghi binh, đáp ô tô tham quan Hà Nội, rồi mới nhảy lên tàu hỏa. Tàu tới Vinh, tôi mới hết lo. Không những tôi sợ bọn thằng Nẫm bắt mà sợ luôn anh xe ôm. Anh ta theo dõi tôi trong bóng tối, chắc hẳn là công an chìm. “Đảng chỉ là đảng cướp,” chỉ cần câu này, tôi đi cải tạo mọt gông. Nhưng tôi có nói câu ấy đâu" Tại sao con Thín vu vạ cho tôi" Đúng là con trời đánh thánh vật. Suốt ba ngày ngồi tàu, tôi không nói với nó một câu. Mấy bận trước như vầy, tôi đã đánh cho nó một trận nhừ tử. Bây giờ ít nhất tôi phải chửi. Nhưng tôi đã không đánh chửi. Tôi ngạc nhiên vì sự thay đổi này của mình. Nhờ khỏi phải nói năng, tôi ngủ nhiều, hết ngủ lại ngắm cảnh dọc đường – việc mà từ nhỏ tới lớn tôi ít khi làm. Nhìn những nấm mộ trên đồng ruộng, tôi hối hận đã không đi thăm mộ thầy bu. Chỉ có con Thín đi. Con giở người nghĩ tới cha mẹ trong lúc tôi đi xóm. Vạch vòi trong tâm can mình, để tự hỏi tại sao tôi thay đổi. Lý do có lẽ chỉ vì câu “phải thương lấy con người”, một câu tôi cho là đểu nếu phát ra từ mồm người khác, nhưng đây là con em khờ đã gán cho tôi, tôi hả dạ.

Về Định Quán, trước hết tôi củ gói cốm Vòng đi thăm người tình. Em hí hửng đem hấp ngay để cả nhà cùng biết mùi vị Hà Nội. Nhưng mẹ em bảo đưa bà thử trước; bà lấy mấy hột cốm bỏ vào bát nước, phẩm nhuộm thôi ra xanh lè, trơ ra mấy hột nếp trắng. “Cốm đểu! Cái gì cũng có thể đểu được,” tôi chữa thẹn.
Ăn cơm và tán gẫu với mẹ con người tình, tới tối mịt tôi mới về. Tới cửa tôi nghe tiếng khóc thút thít trong nhà. Dòm qua khe ván, tôi thấy con Thín đang ôm con dê mà khóc bên ngọn đèn dầu. Vừa khóc nó vừa kể lể linh tinh, chẳng ra đầu đuôi sao cả. Tôi đẩy cửa vào. Thín quệt nước mắt vào lông con vật, quay lại.

“Anh ăn cơm chưa"”
“Chưa,” tôi nói dối, rất nhanh. Thín mừng rỡ đứng dậy, nói:
“Em chờ cơm. Đói quá!”
Tôi giấu xúc động – sự xúc động nhỏ, nhưng tôi không quen – bằng cách vuốt lưng con dê, nói:
“Mày gầy quá!”
“Tại nó không ăn.”
“Người ta không cho nó ăn à"”
“Không phải. Tại nó nhớ em.”
Tôi lấy rau muống luộc đút cho con dê. Con Thín nhìn, chảy nước mắt – có thể là những giọt nước mắt ban nãy nó cầm lại. Nhưng cũng có thể là vì nó linh cảm điều gì.

“Thín!”
“Dạ"”
“Ai dạy mày là trước hết phải thương con người"”
“Anh chứ ai"”
“Tao dạy bao giờ"”
“Hôm lụt, khi em và con dê ngồi trên thúng chai, anh ngoi dưới nước lạnh lắm!”

Tôi nghẹn lời, không hỏi còn những điều khác – “tất cả các thứ khác là giả, Đảng là đảng cướp” – tôi dạy nó bao giờ" Nếu anh xe ôm không phịa thì điều này phải là do con Thín. Con Thín nghĩ ra và gán cho tôi. Ngay tình thương cũng là nó mặc cho tôi. Tôi đứng lên, vuốt tóc nó – mớ tóc nhím đã thay bằng mớ tóc mây từ bao giờ. Đó là lần đầu tiên kể từ hai mươi năm nay tôi chạm vào ruột thịt mình, không bằng đấm đá. Thoạt đầu nó giật mình, sau như mê sảng, nói lảm nhảm, tôi nghe nó nhắc đi nhắc lại câu “em thương anh lắm”.

Sáng hôm sau con dê chết. Tôi tự an ủi ít nhất hôm qua tôi có cho nó một cọng rau muống. Con Thín buồn lắm, nhưng không khóc. Trước mộ con dê, nó nói một câu hoàn toàn tỉnh táo, hoàn toàn bất ngờ, như từ miệng Cụ Trạng Trình:
“Ở xã hội này người được chết già là có phúc. Con vật mà được thương yêu tới chết là diễm phúc hiếm hoi.”

Tâm Thanh