Monday, July 4, 2011

HS-TS-VN


Giàn khoan dầu khổng lồ Trung Quốc:
một hành động xâm lấn nghiêm trọng

TRUNG QUỐC ĐƯA GIÀN KHOAN DẦU KHỔNG LỒ VÀO BIỂN ĐÔNG VÀO THÁNG BẢY 2011, MÔT HÀNH ĐỘNG XÂM CHIẾM BIỂN ĐÔNG RẤT NGHIÊM TRỌNG. PHẢI NGĂN CHẶN BẰNG MỌI GIÁ, MỌI CÁCH, ĐỂ GIÀN KHOAN NÀY KHÔNG CÓ MẶT TẠI KHU VỰC BIỂN ĐÔNG.

Trong nhiều năm qua nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục gây hấn lãnh hải Việt Nam, đánh đắm tàu thuyền, giết hại ngư dân Việt Nam, bắt bớ ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mạng. Hành động ngang ngược xem thường các lực lượng hải quân của chính quyền Việt Nam càng lúc càng trắng trợn.

Trong lúc chính quyền Trung Quốc cho phép các cấp trong lực lượng hải quân của họ bắn giết, đâm chìm tàu thuyền của ngư dân Việt, thì chính quyền nước Việt Nam không tích cực chống lại hành động bạo ngược của họ đối với ngư dân Việt Nam, cũng không dùng lực lượng hải quân tuần tra vùng lãnh hải của Việt Nam để trước là chứng tỏ chủ quyền và sau là bảo vệ an ninh cho ngư dân của nước mình khi họ đang hành nghề trên vùng biển thuộc chủ quyền và vùng biển quốc tế. Cùng trong thời gian đó, chính phủ Việt Nam lại rất tích cực trong việc thực hiện tình đồng chí, đồng minh đối với nhà nước và ngư dân Trung Quốc, nghiêm chỉnh thực hiện những cam kết làm đồng chí tốt, láng giềng tốt, đối tác tốt. Điều này được chứng minh rõ vì trong nhiều năm qua không có một trường hợp nào ngư dân Trung Quốc vi phạm vùng lãnh hải của Việt Nam bị hải quân hay tàu biên phòng của chính quyền Việt Nam bắt giữ hay tịch thu tàu thuyền của họ hay phạt tiền mà chỉ hướng dẫn hay yêu cầu họ rời khỏi vùng lãnh hải của Việt Nam.

Hành động gây hấn, xâm lược của Trung Quốc ngày càng lộ liễu, ngang bướng và sống sượng. Trong những tháng gần đây chính quyền Trung quốc gia tăng cường độ gây hấn lên mức độ cao hơn, thách thức và bạo động hơn, không những trên toàn bộ vùng biển Đông, từ vùng lãnh hải của Việt Nam tới Philippines, Malaysia, Indonesia… mà còn ở vùng biển giáp ranh Trung – Nhật. Riêng tại vùng biển Đông, Trung Quốc tiếp tục tăng cường thêm nhiều tàu chiến, tàu chiến đội lốt tàu hải giám, tàu ngư chính hoành hành toàn vùng biển Đông, đe dọa, phá hoại tàu thuyền của ngư dân, tàu nghiên cứu tài nguyên của các công ty quốc doanh của Việt Nam. Điển hình là hai vụ gây hấn và phá hoại dụng cụ khảo cứu địa chấn của hai tàu Bình Minh 2 và Viking 2 thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.

Tại sao, điều gì làm cho Trung Quốc gia tăng cường độ đối đầu và áp lực các nước trong vùng Biển Đông trong thời gian gần đây, từ đầu năm 2011? Đặc biệt đối với Việt Nam, một nước trên nguyên tắc là đồng chí tốt và láng giếng tốt của họ, mức độ gây hấn có tính cách thù địch và dữ dằn hơn, hành động gây hấn phá hoại lại hung bạo hơn?

Câu trả lời duy nhất là họ sắp sửa chiếm đóng vùng biển Đông với kế hoạch mang giàn khoan dầu khổng lồ của họ ra chiếm ngữ ngay tại biển Đông trong tháng 7 này.(Giàn khoan dầu Hải dương 981 Trung Quốc dùng xâm lấn Biển Đông và tháng 07/2011)

Chính quyền Trung Quốc đang thực hiện ý đồ bá quyền đại Hán với hành động dựng một ốc đảo bằng sắt khổng lồ ngay tại khu vực đang tranh chấp trên biển Đông. Nếu họ thực hiện ý đồ này mà không bị lên án, ngăn chặn từ trong trứng nước bằng mọi cách thì một khi giàn khoan này hoàn tất việc di chuyển và cắm sâu vào lòng của biển Đông, mọi chống đối sau đó chỉ bằng thừa. Quốc gia trong vùng biển Đông bị thiệt thòi, mất mát và hứng chịu nguy hiểm nhiều nhất chính là nước Việt Nam.

Trong lúc tình hình biển Đông trở nên nguy kịch từng ngày, chính phủ Việt Nam có hành động gì chống lại việc Trung Quốc đơn phương cho thiết lập một giàn khoan trên vùng biển còn đang tranh chấp trong biển Đông: tại trong nước, với Trung Quốc và trước cộng đồng thế giới?

Một số báo chí trong nước dựa vào tin tức từ các báo nước ngoài chỉ mới vừa đăng tin về giàn khoan khổng lồ này như một tin tức bình thường, gián tiếp khen trình độ kỹ thuật của Trung Quốc. Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện việc kiến tạo giàn khoan khổng lồ từ ba năm nay nhưng báo chí trong nước không biết đến. Báo chí trong nước với một lực lượng phóng viên hùng hậu lại không hay biết gì về việc Trung Quốc đã xây dựng giàn khoan mà phải dùng tin tức từ những cơ quan thông tin tư nhân nước ngoài! Và tệ hại hơn nữa, các cơ quan thông tin của nhà nước không nhận xét hay cảnh báo trước công luận về hậu quả một khi giàn khoan này đóng chốt tại biển Đông.

Chính phủ Việt Nam phải kiên quyết không để cho Trung Quốc thực hiện ý đồ nham hiểm của họ để lấn chiếm biển Đông. Ngay từ bây giờ, bằng mọi giá chính phủ Việt Nam phải chống lại hành động phi pháp, rất gian manh xảo quyệt của Trung Quốc nhằm đưa giàn khoan dầu của họ vào vùng tranh chấp chủ quyền trong biển Đông. Thời gian rất là cấp bách, vì tháng 7 đã tới rồi.

Nguyễn Hùng, Lê Quang Long, Ngô Khoa Bá
Ngày 01 tháng 07 năm 2011
@vanganh.

tdnl.com


Đồng lõa với giặc! Gian ác với dân!!!


Từ lâu, giữa giới người Việt yêu dân chủ từ trong ra tới ngoài nước, có thành ngữ gán cho đảng và nhà cầm quyền CSVN: “Hèn với giặc! Ác với dân”. Thiển nghĩ thành ngữ này chưa được chính xác cho lắm, khi chúng ta nhìn lại cả một lịch sử dài về mối quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt (Việt cộng) với đảng Cộng sản Tàu (Tàu cộng). Không như Nam Tư của Tito đã từng đứng độc lập với anh cả đỏ Liên Xô, Việt cộng kể từ thời Hồ Chí Minh cho đến hôm nay, vẫn luôn sát cánh với Tàu cộng. Sự sát cánh này chỉ tạm gián đoạn khoảng hơn thập niên khi Việt cộng phản phé đi theo anh cả để kết án anh thứ (ngay cả trong Hiến pháp) nên bị anh thứ “dạy cho bài học”; rồi sau khi anh cả sụp đổ, lại chạy sang anh thứ quỳ tạ lỗi và khấu đầu tái bái phục (tại Thành Đô, Tứ Xuyên, 09-1990).

Quả thế, khi bắt đầu hoạt động cách mạng,Hồ Chí Minh, ngoài việc coi hai lãnh tụ Lênin và Stalin như thần tượng (đúng ra như thần linh), còn sùng bái Mao Trạch Đông và đảng Tàu cộng. Lòng sùng bái ấy đi kèm với lòng hãi sợ (Cộng sản luôn duy trì hai tâm tình sùng bái và hãi sợ này song song trong những người của nó), nên HCM đã chấp nhận cuộc mặc cả chính trị giữa Tàu cộng với các cường quốc tại Hội nghị Genève (1954) là qua phân nước Việt (chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối điều này). Tiếp đến, dưới sự chỉ đạo của Mao, rập khuôn mẫu Tàu cộng và được các cố vấn Tàu cộng trợ giúp, Hồ Chí Minh phát động vụ Cải cách ruộng đất khiến cho đạo đức phong hóa đất nước, cơ cấu làng xã họ tộc, tiềm lực nhân sĩ lãnh đạo bị phá hoại nặng nề, rồi dựng lên vụ Nhân văn Giai phẩm và vụ Chỉnh đốn Tổ chức khiến cho bao tài năng nhiệt huyết của giới trí thức bị mai một dữ dội. Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “tàn hại sinh khí và văn hóa Việt” của Tàu cộng.

Khi Mao Trạch Đông tiến hành kế hoạch mở rộng lãnh thổ Đại Hán xuống Đông Nam Á (như lời ông ta tuyên bố năm 1939, 1959 rồi năm 1965 -xem “Bị vong lục của Bộ Ngoại giao CSVN ngày 15-03-1979”- và lời thú nhận của Lê Duẩn năm 1976: “Chúng ta đánh Mỹ Ngụy là đánh cho Trung Quốc!”), qua việc giúp đỡ Việt cộng xâm chiếm miền Nam, Hồ Chí Minh đã dâng trên giấy cho Tàu cộng hai quần đảo Hoàng Trường Sa của nước Việt (qua Công hàm 1958), đã để cho Tàu cộng chiếm cứ Ải Nam Quan, đồn biên phòng bền vững vạn niên, đem hơn 300 ngàn quân xâm nhập sâu vào miền Bắc để “giữ hậu phương giùm”, len lỏi vào tận hàng lãnh đạo của đảng Việt cộng để “bảo đảm tình đoàn kết “răng môi” giữa hai chính đảng và chính thể”. Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “tàn hại nền chính trị nước Nam” của Tàu cộng.

Khi cuộc thôn tính miền Nam kết thúc, do bị Tàu cộng đòi nợ chiến phí bằng đất đai và quyền lợi kinh tế trên đất Việt, do mù quáng tin tưởng vào Việt (16 chữ vàng và 4 tốt, bất chấp cuộc chiến biên-tình hữu nghị Trung giới năm 1979 và cuộc chiến Trường Sa năm 1988 đầy cay đắng) cũng như do yếu nhược phải cậy dựa vào đàn anh duy nhất còn lại, Việt cộng đã nhượng cho Tàu cộng gần cả ngàn km2 lãnh thổ qua Hiệp định biên giới năm 1999, trên 10.000 km2 lãnh hải qua Hiệp định vịnh Bắc bộ năm 2000, cả vùng Tây Nguyên yếu huyệt qua Quyết định năm 2007 cho Tàu cộng khai thác bauxite; đã cho Tàu cộng thuê hơn 300.000 hecta rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ, xây nhiều làng mạc và đô thị Tàu từ Nam chí Bắc, đi vào đất Việt không cần thị thực nhập cảnh, trúng thầu 90% các công trình kinh tế chủ yếu, các dự án trọng điểm quốc gia, tuôn tràn vào Việt Nam vô số sản phẩm văn hóa, kỹ thuật, ẩm thực (đa phần kém chất lượng hay độc hại)… Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “tàn hại nền kinh tế và quốc phòng đất nước”. Chính Đỗ Mười đã thú nhận điều này: “Tuy Trung Quốc nó đánh ta nhưng nó cùng là cộng sản”. Nghĩa là tuy bọn Tàu chiếm đất, chiếm biển Việt Nam, nhưng dù sao chúng cũng là đồng chí anh em. Đồng chí hướng lý tưởng cộng sản vô biên giới! Chung tình nghĩa anh em cộng sản một gia đình! Núi liền núi sông liền sông, môi bị hở răng phải lạnh! Của em cũng là của anh, là của cộng sản! Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “xâm hại nền kinh tế và quốc phòng đất nước” của Tàu cộng.

Thập niên gần đây, khi Tàu cộng quyết định mở rộng chủ quyền trên Biển Đông qua yêu sách phi lý “Đường lưỡi bò 9 đoạn”, Việt cộng tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao lạ đời (dựa trên bảng phân loại các nước thành bạn hay thù, chứ không phải trên quyền lợi quốc gia lẫn tương quan lợi quyền quốc tế) và thái độ ngày càng khiếp nhược trước Tàu cộng dưới mỹ từ “hiếu hòa hữu nghị”, do đó đã bị Tàu cộng liên tục lấn lướt trên Biển đông. Cụ thể là xua đuổi, bắt tù, cướp bóc, bắn giết ngư dân Việt; là thúc giục, bảo vệ, hộ tống ngư dân Tàu vào đánh cá ngay trong thềm lục địa Việt; là hăm dọa các công ty khai thác dầu hỏa ngoại quốc muốn làm ăn với nước Việt; và mới nhất là xâm phạm lãnh hải Việt Nam để phá hoại những tàu thăm dò khoáng sản của Hà Nội, trong mục tiêu muốn biến luôn vùng biển chủ quyền của nước Việt thành vùng biển tranh chấp hầu đòi chia nửa (như đối với vịnh Bắc bộ năm nào)… Thế nhưng, Việt cộng lại chỉ phản ứng bằng cách cho các viên chức thấp trong bộ Ngoại giao lên tiếng rồi thân hành tới gặp đại sứ Tàu cộng trao công hàm “yêu cầu dừng lại”; bằng cách bỏ mặc ngư dân bơ vơ trước sói biển, lấy cớ tàu quân sự không xen vào chuyện dân sự (lời phát biểu của Nguyễn Chí Vịnh); bằng cách tiếp tục hợp tác toàn diện với Đại Hán xâm lấn, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc (từ kinh tế tới quốc phòng, từ pháp luật tới an ninh, từ thông tin tới văn hóa… qua những cuộc trao đổi gặp gỡ cấp cao kể từ tháng 4-2011); bằng cách tiến hành tuần tra chung Trung-Việt trên vịnh Bắc Bộ; bằng cách từ khước liên minh với lực lượng hùng mạnh của các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ; bằng cách giấu nhẹm thông tin về vụ việc trước quốc dân và không trình vụ việc lên Tòa án quốc tế. Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “xâm hại chủ quyền quốc gia” của Tàu cộng.

Trước thái độ “hợp đồng” này, đồng bào Việt Nam, đặc biệt tại quốc nội, mấy Chúa nhật tháng 6, đã biểu tình khắp nơi, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn. Lẽ ra phải nhận thấy đó vừa là sự nhắc nhở cảnh báo, vừa là sự trợ giúp ủng hộ, nhà cầm quyền Việt cộng lại ra tay hạn chế và quấy rối (tại Hà Nội), cấm cản và bắt bớ (tại Sài Gòn), hăm dọa và ngăn chận trọn vẹn (tại Hải Phòng, Nghệ An, Đà Nẵng)… Thông tấn xã Việt Nam và 700 tờ báo trong nước không dám nhắc đến 2 chữ “biểu tình”, đang khi báo chí nước ngoài và báo chí “lề trái” đã phổ biến chi tiết cùng hình ảnh “phong phú, sinh động” về các cuộc xuống đường chống Tàu cộng như vậy. Nhiều biện pháp đểu cáng và hung bạo đã được tung ra để bóp chết lòng yêu nước và hành hạ người yêu nước. Lẽ ra nhân cơ hội toàn dân muốn đoàn kết để bày tỏ sự phản kháng lũ ngoại xâm, thậm chí có người còn đề nghị Quốc hội xác định quyền biểu tình, ban hành Luật Đoàn kết dân tộc, sau khi một nhóm trí thức ra Tuyên cáo về việc Tàu cộng có các hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam (tiếc là Tuyên cáo này không đề cập đến việc quốc tế hóa, đa phương hóa vấn đề biển Đông), nhà cầm quyền phải thả ngay những nhà dân chủ đã bị tống ngục vì bênh vực chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ này (như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cô Phạm Thanh Nghiên, luật sư Cù Huy Hà Vũ…), phải đổi mới hệ thống chính trị theo mệnh lệnh của tình thế. Đau đớn thay, Việt cộng lại càng ra tay hung bạo cách trắng trợn, điển hình là bắt bớ, hành hung, khám nhà và tống ngục Mục sư Phạm Ngọc Thạch hôm 25-06 khi ông đi dán truyền đơn về Hoàng Trường Sa, mang tội “kích động biểu tình, vi phạm pháp luật”!?! Những ai dũng cảm biểu lộ lòng yêu nước, chống ngoại xâm tiếp tục ngồi tù và sẽ tiếp tục vào tù. Thật là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và lịch sử loài người (thậm chí trong “lịch sử” loài vật).

Thái độ đồng lõa với giặc mới đây còn biểu lộ qua việc cùng ngày nói trên (25-06), Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã thân hành sang Trung Hoa gặp Ủy viên Quốc vụ Tàu cộng là Đới Bỉnh Quốc (mình là nạn nhân mà lại đi xin “cầu hòa” thì đúng là khiếp nhược, quỵ lụy và vô liêm sỉ). Cùng nhai lại 16 chữ vàng và 4 tốt, “hai bên khẳng định cần tích cực thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, giải quyết hoà bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị, áp dụng biện pháp có hiệu quả, cùng nhau duy trì hoà bình và ổn định tại Biển Đông, tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước, đẩy nhanh tiến độ đàm phán để sớm kết ký kết “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam – Trung Quốc”; thúc đẩy việc thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và công việc tìếp theo, cố gắng sớm đạt tiến trển thực chất”. Điều này có nghĩa là Việt cộng đã chấp thuận thoả hiệp song phương với Tầu cộng, để ký kết dâng thềm lục điạ của mình cho Tầu trước, rồi sau đó cùng đứng chung một phía với Tầu để thảo luận đa phương với các nước trong khối ASEAN và Hoa Kỳ, theo tuyên bố DOC sau.

Mỉa mai thay, trong cùng ngày của cuộc gặp gỡ này, viên tướng Bành Quang Khiêm, phó tổng thư ký Ủy ban Chính sách an ninh quốc gia, thành viên Hội Nghiên cứu Khoa học Chính sách Tàu cộng, lại ngạo mạn tuyên bố: “Trung Quốc từng dạy Việt Nam một bài học và có thể cho Việt Nam bài học lớn hơn nữa”. Khiêm không quên đổ lỗi cho Việt Nam và Philippin gần đây “liên tục khiêu khích”. Khiêm còn dùng những ngôn từ khích động rằng: “Nếu Việt Nam tiếp tục diễu võ dương oai, múa trên lưỡi dao, sớm muộn có ngày Việt Nam sẽ ngã trên lưỡi dao đó”. Nhà cầm quyền Việt cộng không biết tới thái độ nước lớn chẳng bao giờ thay đổi này của Tàu cộng chăng?

Tại sao Việt cộng vẫn mãi “đồng lõa với giặc, gian ác với dân” như thế? Đó là vì đối với Việt cộng, độc lập tự do của đất nước chỉ là chiêu bài (nay không cần dùng nữa), Tổ quốc Dân tộc chỉ là những khái niệm vô nghĩa. Việt cộng chỉ biết có một điều duy nhất: quyền lực của đảng, quyền lợi của phe phái; chỉ có một bận tâm duy nhất: giữ ngai vàng bằng mọi giá, dù có phải bán nước, buôn dân!

Sunday, July 3, 2011

HS-TS-VN


 Tuyên cáo ngày 3.7.2011 tại nhà hát lớn Hà Nội


Tuyên cáo của Nhân dân Việt Nam yêu nước gửi nhà cầm quyền Trung Quốc phản đối hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam trên Biển Đông

Hôm nay, tại trung tâm thủ đô Hà Nội của nước Việt Nam ngàn năm văn hiến, chúng tôi, những người tham gia biểu tình đại diện cho hàng triệu người dân Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước cùng gửi tới nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố như sau:

- Cực lực lên án và tố cáo trước dư luận trong nước và quốc tế việc nhà cầm quyền Trung Quốc đã nổ súng và chiếm đóng phi pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trong các năm từ 1956 đến 1974 cũng như 9 đảo ở Trường Sa của Việt Nam trong các năm từ 1988 đến 1992. Phản đối! (sau đó mọi người hô theo 2 lần: Phản đối, Phản đối).

- Cực lực lên án và phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn nhằm xâm chiếm Biển Đông, liên tục bắt bớ cướp bóc, phá hoại tàu bè của ngư dân Việt Nam; cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam với ý đồ biến vùng đặc quyền kinh tế, vùng biển của Việt Nam thành vùng tranh chấp để hưởng lợi; diễn tập quân sự, điều tàu chiến lớn đến Biển Đông, đe dọa hòa bình an ninh trong khu vực. Phản đối! (sau đó mọi người hô theo 2 lần: Phản đối, Phản đối).

- Kiên quyết phản đối tuyên bố chủ quyền đường lưỡi bò 9 đoạn phi pháp của Trung Quốc. Tuyên bố đó không dựa trên bất cứ luận điểm công pháp quốc tế nào, vi phạm nghiêm trọng Luật Biển và Công ước về Luật Biển (UNCLOS) của Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc đã ký năm 1982 cũng như vi phạm tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc và ASEAN đã ký năm 2002. Phản đối! (sau đó mọi người hô theo 2 lần: Phản đối, Phản đối).

- Kiên quyết phản đối những phát ngôn mang tính đe dọa và việc tuyên truyền đặt điều, xuyên tạc sự thật của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với Việt Nam. Phản đối! (sau đó mọi người hô theo 2 lần: Phản đối, Phản đối).

Chúng tôi, những người dân yêu nước Việt Nam quyết tâm làm tất cả, nguyện đem tất cả sức mình để chống lại các hành động xâm lấn hiếu chiến của nhà cầm quyền Trung Quốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền đất, biển, đảo của Việt Nam.

Đất nước Việt Nam muôn năm! (sau đó mọi người hô theo 2 lần: muôn năm)
Dân tộc Việt Nam muôn năm! (sau đó mọi người hô theo 2 lần: muôn năm)

July.4


Nơi Nước Mỹ Ra Đời



Thành phố Philadelphia, nơi gắn liền với bản tuyên ngôn độc lập năm Hoa Kỳ 1776. Ngày Độc Lập này được kỷ niệm trọng đại vào ngày 4 tháng 7 hàng năm và được xem như Lễ Quốc Khánh của Hoa Kỳ.

Nhiều di tích tại thành phố này gắn liền với lịch sử khai quốc Hoa Kỳ như Chuông Tự Do (Liberty Bell) hay Independence Hall (Tòa Nhà Độc Lập) có sức thu hút và lan tỏa trên khắp thế giới về lý tưởng tự do khai phóng của con người.

Tuy Philadelphia và nước Mỹ mang tiếng là non trẻ nhưng khi thật sự khám phá mới biết rằng “cố đô” Philadelphia vào lúc khai sáng nền cộng hòa còn lâu đời hơn cố đô Huế của Việt Nam thời nhà Nguyễn.

Từ đó đến nay, thể chế cộng hòa được kéo dài và liên tục 235 năm với những di tích và lịch sử có thể sờ nắn ngay trước mắt.

Non trẻ hay già đời

Nếu tính từ lúc người Anh khai phá, Philadelphia được thành lập vào thế kỷ thứ 17, thời điểm được xem là cổ đại đối với nền văn hóa lịch sử của rất nhiều nước.

Với nền văn minh Âu châu phát triển rực rỡ, những di dân người Anh, Hòa Lan, Thụy Điển… đã đi tiên phong trong làn sóng thực dân ở Tân Thế Giới. Họ mang theo tinh thần, kỹ thuật, di sản của trời Âu sang gieo cấy vào châu Mỹ.

Cho nên nói đến Châu Mỹ tức là nói đến văn minh của Âu Châu nối dài mới thấy hết được sự già dặn và và tinh hoa thực sự của nó.

Lãnh thổ miền Đông Bắc của nước Mỹ bấy giờ thuộc về đế chế Anh. Những người tiên phong xem mình là người Anh và đặt lòng trung thành kiên cố với mẫu quốc bên kia bờ Đại Tây Dương. Các luật lệ, thủ tục hành chánh đều dựa trên cơ sở pháp chế phổ thông của dân tộc Anh (Great Britian) với một đế quốc Anh đang hùng mạnh.

Sự xung đột giữa tiền thân nước Mỹ với mẫu quốc Anh bắt nguồn từ mâu thuẫn lợi ích về thuế má mà Nghị Viện Anh lấy quyền áp đặt. Vua Anh thời đó là George III (đệ Tam), không phân xử được mà còn kết án Nghị Hội Lục Địa (tiền thân chính quyền Mỹ) là quân nổi loạn dẫn đến việc kiều dân nổi loạn thật sự tuyên bố độc lập, phủ nhận uy quyền của vua George III.


Và một trong những lý do cấp thiết phải tuyên bố độc lập là để phòng khi đánh nhau, bị bắt làm tù binh, những người tham chiến cho đất Mỹ không bị nước Anh kết tội phản quốc. Đây cũng là lối tư duy rất quan trọng để hình thành tính cách quốc gia của người Mỹ trong một thế giới mà văn hóa ngôn ngữ Anh vẫn giữ vai trò nguồn gốc và di sản.

Tuy nhiên, nhiều kiều dân vẫn muốn hàn gắn với đế chế Anh. Nhiều gia đình phải chia hai vì khuynh hướng bảo hoàng và yêu nước. Chính con trai của Ben Franklin, một trong những vị khai quốc công thần nước Mỹ đã chọn khuynh hướng bảo hoàng quay về và chết trên nước Anh - không bao giờ gặp lại cha ruột khi cách mạng Mỹ thành công.

Từ Thần Dân đến Công Dân

Gần đây, người ta còn phát hiện ra bút tích trong bản nháp của vị cha đẻ của nền độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson khi ông dùng từ thần dân (subjects) để nói với công chúng. Sau một thời gian suy tư, ông mới dùng đến từ công dân (citizens) như là một khái niệm hiện đại của một nước cộng hòa.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập chú trọng phần kết án vua George III dẫn tới việc phủ nhận vương quyền gắn liền với chủ quyền lãnh thổ và định mệnh người dân.

Đặc biệt, bản tuyên ngôn độc lập còn khẳng định quyền trời sinh, quyền nổi loạn (làm cách mạng) biến người Mỹ về mặt nguyên tắc trở thành mẫu người tự do nhất thế giới đối với nhà cầm quyền.

Tuyên ngôn độc lập khai mở nhiều khái niệm về nhân quyền, lý tưởng tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc được coi là khuôn mẫu tư tưởng tiến bộ nhất của xã hội hiện đại. Nhiều chính khách trên thế giới cảm hứng và trích dẫn như trường hợp Hồ Chí Minh đã mô phỏng ý tưởng tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ vào năm 1945.

Tổng Thống Chế

Nền độc lập Hoa Kỳ còn đóng góp vào nền chính trị thế giới ở thể chế tổng thống với sự giới hạn nhiệm kỳ mà George Washington, vị tổng thống Mỹ đầu tiên đã làm tiên phong. Với thời điểm mà việc khởi nghĩa và xưng vương được xem là thành quả cơ nghiệp, tổng thống chế là một sáng tạo vĩ đại về mô hình chính quyền làm gương mẫu cho vai trò lãnh đạo của nhiều nền cộng hòa trên thế giới sau nay.

Cuộc cách mạng Mỹ thành công cũng phải đổi rất nhiều máu xương vì sau khi tuyên bố độc lập, nước Anh đem quân sang thảo phạt chiếm được thành phố Philadelphia. Quân Mỹ do tướng George Washington lãnh đạo phải lánh ra thung lũng Valley Forge cách Philadelphia khoảng 30 km và phải đấu tranh gian khổ mấy năm trời mới chiến thắng được quân Anh và sau này được nước Anh thừa nhận là một quốc gia độc lập.

Nước Mỹ sau đó qua nhiều thời kỳ phát triển để mở rộng lãnh thổ về phía Tây và vượt ra khơi Thái Bình Dương trở thành đất nước rộng lớn. Những người trung thành với đế chế Anh vượt lên phía Bắc và sau này trở thành nước Canada - trên danh nghĩa vẫn là thần dân của vương triều Anh và tồn tại cho đến bây giờ. Hàng năm ngày quốc khánh Canada (mồng 1 tháng 7) và Lễ Độc Lập Hoa Kỳ (mồng 4 tháng 7) trở thành lễ lạt liên tục cho những thành phố biên giới.

Tinh thần độc lập của nước Mỹ mang tính tiên phong để khởi đầu cho một nền văn minh mới có sự dung hợp nhiều văn hóa khác nhau trở thành không gian sống cho nhiều sắc dân tạo nên vị trí đặc biệt (American Exptionalism) mà nhiều người Mỹ vẫn thường tôn vinh như một chủ nghĩa.

Nước Mỹ kể từ khi lập quốc cho đến khi đạt vị trí siêu cường là lịch sử sống động với nhiều thư tịch bút tích vẫn còn nguyên vẹn như tấm giấy khai sinh hẳn hoi. Cho dù lịch sử ly khai của Mỹ có khi được xem như là cuộc nổi loạn về tư tưởng chống lại khuynh hướng bảo hoàng vốn có nhiều ưu thế về nhân tâm và lý lẽ. Nhưng các nhà khai quốc nước Mỹ thời ấy đã quyết tâm kêu gọi để xây dựng một nền văn minh mới làm nền tảng cho nước Mỹ của ngày hôm nay.

Trần Đông Đức

Saturday, July 2, 2011

Trần Văn Khởi


NHỚ VỀ LUẬT SƯ VƯƠNG VĂN BẮC

Video Love story  -  Tino Rossi

VV+B%25E1%25BA%25AFc+v%25C3%25A0+Kh%25E1%25BB%259Fi.jpg“Saigon 17-1-1974 (VTX): Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc chiều nay đã lên tiếng tố cáo trước dư luận quốc tế và quốc nội việc Trung Cộng đã vi phạm chủ quyền VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa, đồng thời cho rằng việc xâm phạm chủ quyền này không thể chấp nhận được. Sau đây là nguyên văn bản tuyên bố:
“Ngày 11-1-1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng bỗng nhiên lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH. Ngay ngày hôm sau, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao VNCH đã bác bỏ đòi hỏi vô căn cứ đó.


Mặc dầu vậy, trong những ngày gần đây, nhà cầm quyền Trung Cộng không những đã không rút lại sự đòi hỏi vô lý của mình lại còn ngang nhiên xâm phạm vào chủ quyền lãnh thổ của VNCH bằng cách cho người và tàu bè xâm nhập vào vùng lãnh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Hòa (Duncan), Duy Mộng (Drummond) thuộc quần đảo Hoàng Sa (Paracels Islands) của VNCH. Thậm chí bọn người này còn dám đặt chân lên các hòn đảo này, dựng chòi và kéo cờ Trung Cộng, trắng trợn chà đạp lên chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của VNCH.

Trước những sự vi phạm thô bạo đó, Chính phủ và Nhân dân VNCH rất công phẫn và quyết không dung thứ. Sự kiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những phần tử bất khả phân của lãnh thổ VNCH là một sự kiện hiển nhiên và không chối cãi được, căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử và pháp lý quốc tế. Thật vậy….” (Tác giả Trần Văn Khởi (trái) và luật sư Vương Văn Bắc.)

Thái độ cương quyết, lời văn chính xác, ý văn mạch lạc và luận cứ hùng hồn của bản tuyên bố trên đây đã phản ảnh nhiều nét tiêu biểu của tác giả bản văn, Luật Sư Vương Văn Bắc, người vừa vĩnh viễn ra đi hôm thứ Hai ngày 20 tháng Sáu vừa qua.

LS Vương Văn Bắc có một tiểu sử sáng chói: ông đã thành công vượt bực trong lãnh vực tư ở Saigon trước khi tham gia vào các hoạt động của chính phủ VNCH, mà chức vụ sau cùng là Tổng Trưởng Ngoại Giao. Nhiều người biết về LS Bắc trong nhiều tư cách khác nhau – luật sư, cố vấn công ty, giáo sư, thành viên phái đoàn Hòa Đàm Paris, đại sứ ở Luân đôn, Ngoại Trưởng.
Tôi chỉ xin được nhớ về LS Bắc khi cùng làm việc ở Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa, cùng làm và dự hội nghị về luật biển, và sau này khi cùng duy trì mối thân tình.

Tiêu Chuẩn Cao

Tôi gặp LS Bắc lần đầu tiên hồi đầu năm 1971. Tôi vừa được giao phó thực thi chương trình tìm kiếm dầu hỏa, và đang xúc tiến sáng kiến Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa và lập văn phòng điều hành. LS Bắc là một trong ba nhân vật trong lãnh vực tư được ông Tổng Trưởng Kinh Tế Phạm Kim Ngọc đề nghị, và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận, làm hội viên của Ủy Ban, cùng với quí vị Tổng Thư Ký / Tổng Giám Đốc của các bộ liên hệ. (Hai vị hội viên thuộc lãnh vực tư khác là Kỹ Sư Đinh Quang Chiêu và Kỹ Sư Âu Ngọc Hồ). LS Bắc cũng vừa nhận lời cầm đầu một phái đoàn đi Ba Tư để nhờ giúp cho VNCH tổ chức xúc tiến tìm dầu mà Ông Ngọc vừa móc nối được qua tình cờ quen biết với ông Tổng Trưởng Kinh Tế Ba Tư hồi cùng học ở Luân đôn.

Tôi trịnh trọng tự giới thiệu “Như có hẹn, ông Tổng Trưởng Kinh Tế gởi tôi qua đây để bàn chuyện với Luật Sư về chuyến đi Tehran sắp tới của phái đoàn”. LS Bắc bắt tay tôi, thân mật nói ngay: “Luật sư gì, gọi là anh và tôi được rồi. Anh Ngọc có nói về anh. Mình sẽ cùng nhau làm việc.” Lần đó, chúng tôi bàn về mọi chi tiết của chuyến đi, từ các lãnh vực chuyên viên mình muốn mời qua, đến quà sơn mài để biếu Thủ Tướng Hoveyda và Tổng Trưởng Dầu Hỏa Amouzegar, một sáng lập viên của OPEC. Tôi rất cảm kích lề lối làm việc và thái độ ân cần của LS Bắc. Khi gần xong, tôi nói tôi rất tiếc không cùng đi được; Kỹ Sư Võ Anh Tuấn sẽ thay tôi. Ông rất ngạc nhiên, nhưng sau đó hoàn toàn đồng tình khi biết tôi còn phải cấp bách lo tổ chức Ủy Ban, kiếm người cùng làm việc, và nhất là lo cấp tốc dịch Luật Dầu Hỏa vừa được ban hành ra Anh ngữ để phổ biến cho các công ty và để các chuyên viên Ba Tư có tài liệu làm việc ngay.

Ấn tượng đầu tiên thường lâu bền: tôi ghi nhớ tiêu chuẩn cao trong suy nghĩ cũng như cách tiếp cận vấn để của Anh Bắc. Sau này, Anh cũng nói với tôi là Anh nhận thấy ngay tinh thần trọng ưu tiên của tôi, bỏ qua dịp đi xuất ngoại lúc đó.

Không được cùng đi Tehran với Anh nhưng sau đó tôi lại được dịp cùng đi nhiều nơi khác, cùng làm việc ở Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa, rồi cùng liên hệ lâu dài.

 *Chỉ mấy tháng sau, Anh làm trưởng phái đoàn tham dự hội thảo về pháp lý dầu hỏa ở Bangkok; tôi làm thuyết trình viên tại hội nghị, giới thiệu Luật Dầu Hỏa VNCH. Sau buổi thuyết trình, phái đoàn VNCH cùng với Tòa Đại Sứ ở Bangkok đã tổ chức một buổi tiếp tân rất thành công. Anh Bắc và tôi rất hài lòng với kết quả công tác này, và đã thưởng cho nhau đi coi xi-nê ở Bangkok, một phim mới ra đang ăn khách với bài hát chóng thịnh hành lúc đó là Love Story;

 *Qua năm 1972, đáp lời mời của công ty quốc doanh dầu hỏa Pertamina của Indonesia, tôi cùng Anh đi Jakarta. Là khách của Pertamina, chúng tôi lưu trú trong khuôn viên của Pertamina ở xa phố xá. Nhưng được mấy ngày buồn chán quá, chúng tôi quyết định dọn ra khách sạn ở ngoài. Nào ngờ khách sạn này gồm toàn người Liên Sô, phần lớn là phi hành đoàn của Aeroflot. Chúng tôi thấy không yên tâm và tôi đã cẩn thận dọn qua ở cùng phòng với Anh. Anh rất phiền lòng vị đại diện ngoại giao VNCH ở Jakarta lúc đó không đủ bén nhạy, đã chọn một khách sạn không thích nghi;

* Cũng trong năm 1972, trong lần đi Mã Lai Á sơ thảo về tranh chấp thềm lục địa, Anh bàn với tôi vì vùng tranh chấp tương đối nhỏ nên mình nên thử gieo ý kiến thăm dò khai thác chung trong tương lai. Bên phia Mã cũng lịch sự ghi nhận; nhưng không bên nào thấy cấp bách. Mãi sau này, vào cuối thập niên 1980 hai nước Mã Lai Á và Việt Nam thỏa thuận khai thác chung trong vùng tranh chấp, nay gọi là Vùng Dàn Xếp Thương Mại Mã-Việt. Đến cuối thập niên 1990 thì Việt Nam được chia phần dầu hỏa sản xuất trong vùng tranh chấp do công ty quốc doanh Petronas khai thác;

* Giữa năm 1974, Anh Bắc lại một lần nữa nêu cao ngọn cờ chính nghĩa của VNCH cho Hoàng Sa-Trường Sa; lần này trước khoáng đại hội nghị gồm tới 150 quốc gia tham dự Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Kỳ III về Luật Biển ở Caracas. Anh đã lưu loát trình bày nội dung khúc chiết như trong bản tuyên bố hồi đầu năm. Một số phái đoàn bỏ ghế trống, một số đứng lên rời phòng hội, nhưng Anh vẫn bình tâm, vẫn hùng hồn trình bày lập trường chính thức của VNCH để đưa vào biên bản của Liên Hiệp Quốc. Lịch sử Hoàng Sa- Trường Sa ở Liên Hiệp Quốc, trước đây đã có tuyên bố Trần Văn Hữu ở San Francisco 1951, nay lại ghi thêm tuyên bố Vương Văn Bắc ở Caracas 1974;

* Tiêu chuẩn cao của Anh không những chỉ thấy trong các công tác ở luật biển và thềm lục địa, mà còn được thể hiện trong các thảo luận, phân tích và đúc kết của Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa. Anh đã luôn luôn coi kỹ hồ sơ và suy nghĩ về các đề án trước khi họp Ủy Ban – always come prepared, Anh nói. Ai cũng công nhận Anh là hội viên rường cột của Ủy Ban.

Lịch Thiệp và Witty

LS Bắc là một trong rất ít người khởi đầu một tập tục mới ở VNCH lúc đó: thành công và nổi tiếng ở lãnh vực tư trước khi tham chính – một tập tục đã có lâu đời ở Hoa Kỳ, trong truyền thống từ luật sư công ty (corporate lawyer) tới ngoại trưởng như John Foster Dulles và Cyrus Vance. Anh rất lịch thiệp, và không cần quen biết lâu cũng thấy Anh có một óc hài hước rất tinh tế. Anh rất witty.

* Trong những lần xuất ngoại, nhiều khi chúng tôi đi ăn chung. Lần nào Anh mời thì Anh cũng lịch sự nói “Cho phép chiều nay tôi mời anh đi…”. Những lúc tôi mời lại Anh thì Anh tế nhị đề nghị một tiệm hay một món ăn ít tốn kém, “để thay đổi không khí”, “để diversify”, Anh mỉm cười thân mật.

* Sau này khi Anh định cư ở Paris, tôi lại có dịp gặp Anh Chị khi ghé thăm gia đình bào huynh là nhà báo Từ Nguyên Trần Văn Ngô: khi đi nghỉ hè, đi đám cưới, hay trên đường công tác về từ vùng Trung Á. Cũng như nhiều cựu nữ sinh Trưng Vương, nhà tôi gọi Chị bằng Cô. Lần nào chúng tôi cũng cùng ăn cơm Việt ở tiệm Le Palanquin. Và lần nào Anh cũng đưa đi một tiệm cơm Tây có món đặc biệt, khác mấy lần trước.

* Anh rất thích chơi chữ. Một giai thoại về cái wit của Anh là câu chuyện thú vị với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy tại một buổi họp Hội Đàm Paris mà Anh kể lại trong bài “Tưởng Nhớ Nguyển Ngoc Huy” hồi 1997, in lại năm 2003. Tôi xin mạn phép ghi lại như sau:

VV+B%25E1%25BA%25AFc+and+friends.JPG “Óc yêu thơ có khi theo chúng tôi đến tận bàn hội đàm. Một bữa, sau khi đã nghe nhắc lại lần thứ mấy mươi lập trường của đôi bên: Cộng Sản đòi quân Mỹ phải rút nhanh, rút hết, rút không điều kiện ra khỏi Miền Nam Việt Nam, đồng thời lật đổ chính quyền Saigon; còn bên mình đòi quân Bắc Việt phải rời khỏi Miền Nam Việt Nam và phía Cộng Sản phải chấp nhận tổng tuyển cử thật sự dân chủ tự do để giải quyết vấn đề chính quyền…tôi (LS Bắc) viết vào một mảnh giấy nhỏ vế đối như sau: BÌNH BỊ BÍP BẮT BẦU, trong đó Bình chỉ Nguyễn Thị Bình trưởng phái đoàn Việt Cộng, Bip là Philip C. Habib quyền trưởng phái đoàn Mỹ, còn ”bầu” nhắc lại yêu sách bầu cử tự do nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa khác.

Tôi đẩy mảnh giấy nhỏ ấy sang phía Nguyễn Ngọc Huy, thường thường ngồi cạnh tôi bên phía tay mặt ở bàn hội, rồi nói: “Cậu đối đi, mà nhớ để ý là tất cả các chữ đều bắt đầu bằng B đấy nhé!”. Nguyễn Ngọc Huy suy nghĩ một lúc, rồi viết vào mảnh giấy đẩy lại chỗ tôi. Vế đáp của anh như sau: LÂM LO LÂU LẤP LIẾM, trong đó Lâm chỉ anh đại sứ Phạm Đăng Lâm, Lâu chỉ Hà Văn Lâu quyền trưởng phái đoàn Bắc Việt, còn lấp liếm là nhắc tới mánh khóe của phái đoàn Cộng Sản, dùng những luận điệu vu khoát hòng che lấp vấn đề thực sự tức là sự có mặt của quân Cộng Sản Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam”.(Ông Vương Văn Bắc (quần áo màu nhạt, đứng giữa) cùng thân hữu tại Paris, 2008.)

* Anh thích diễu, nhưng khuôn mặt Anh bình thường lại nghiêm nghị, như đăm chiêu. Anh ít khi cười lớn tiếng, thường thì cười mỉm, mà cũng không cười lâu. Khi tìm được hay nghe xong một chuyện ý nhị thì Anh mỉm cưới, thú vị. Nhưng rồi Anh sớm trở lại khuôn mặt nghiêm nghị. Người mới quen thấy vậy có thể đâm lo ngại, thắc mắc, không hiểu có chuyện gì. Quen lâu thì nhận thấy Anh chừng mực, tự chế ngay cả trong thú vị. Và nếu mình còn cười thêm thì Anh cũng như rộng lượng thông cảm, nhiều khi còn cười thêm theo.

Suy Tư / Cảm Xúc

Anh thuộc loại người vừa nghiêng về hành động thực tế vừa thấm đậm trong suy tư và cảm xúc.Anh viết nhiều về những vấn đề Anh quan tâm, nhưng hầu như không hề công khai nhắc lại những đóng góp lớn trong công vụ của Anh, hay những thành công trong đời Anh. Trong hai năm 2003-2004, Anh có cho in lại những bài vở của Anh, trong hai cuốn gởi riêng cho bạn bè, không thấy phát hành ra ngoài.

* Trong “Suy Tư”, Anh đã tập hợp lại những bài nghị luận hay phát biểu về những vấn đề chính trị tổng quát hay đặc biệt: những vấn đề của quê hương, suy nghĩ về tương lai đất nước, bình luận về vài sinh hoạt chính trị của Hoa Kỷ, chuyện chính trường quốc tế nói chung, và viết về một vài người quen đã ra đi, trong đó có Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy như đã trích ở trên;

* Trong “Cảm Xúc”, Anh thâu gồm những bài thơ, chuyện ngắn, bài tùy bút ghi lại dư âm dư ảnh của những ngày đã qua của đời mình: những ngày thơ ấu, những ngày học trường Bưởi, những ngày sống tha hương, những ngày lưu lạc quê người. Anh cũng đã gom góp lại mười mấy bài thơ Anh sáng tác, có vài bài bằng tiếng Anh, đặc biệt có nhiều bài thơ làm từ thời 1947-1952 mà Anh còn lưu giữ.

* Bàng bạc trong hai cuốn sách, và trong những lá thư Anh trao đổi với tôi hai ba lần một năm trong nhiều năm qua, là những ưu tư nặng trĩu cho số phận đồng bào và tương lai đất nước. Với Anh, không có lý tưởng nào đẹp hơn và chủ nghĩa nào hay hơn là hạnh phúc của dân Việt Nam và thịnh vượng của nước Việt Nam.

Có Tài-Có Lòng-Có Mệnh

Trong một tiệm ăn ở Paris cách đây cũng khá lâu rồi, nhìn lại những thành quả đời Anh, tôi có nói với Anh: Anh rất có tài, Anh rất có lòng. Anh mỉm cười, tưởng như bắt được ý tôi, “nhưng không có mệnh”. Tôi không phản đối, nhưng cũng không hoàn toàn đồng ý với Anh: Vì bị lôi cuốn trong vận mệnh ngập tràn của quốc gia trong thời 1945-1975, nhiều thế hệ Việt Nam đã bị chối bỏ định mệnh cho riêng mình. VNCH đã có không ít người có tài, và bình tâm mà xét thì đã có rất nhiều người có lòng. Đó là niềm hãnh diện lớn lao, và cũng là niềm an ủi sâu xa cho một số đông đã và đang lần lẫn theo nhau đi vào dĩ vãng.

Nhưng đối với riêng Anh thì Anh đã có mệnh. Do tình cờ của lịch sử, và qua tài và lòng của Anh, mệnh Anh đã dính liền với tiền đồ của Hoàng Sa- Trường Sa.
Anh nằm xuống giữa lúc Biển Đông lại dậy sóng, Trung Cộng tiếp tục ngang nhiên gây hấn trong âm mưu chiếm đất, chiếm biển.

Lúc này, một thế hệ mới ở quê nhà đang phải đương đầu với những thử thách lịch sử đó. Văng vẳng đâu đây, họ phải lắng nghe, họ hãy lắng nghe, lời nhắn của Luật Sư Vương Văn Bắc:

“Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết nhất của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của quốc gia; chính phủ VNCH cương quyết làm tròn nghĩa vụ ấy, bất luận những khó khăn, trở ngại có thể gặp phải và bất chấp những sự phản đối không căn cứ dầu phát xuất từ đâu…”

Anh đã làm xong phần và vụ của mình.
Nguyện cầu hương hồn Anh thanh thản tiêu dao ở cõi Vĩnh Hằng.

Trần Văn Khởi
* nguyên Tổng Cục Trưởng Dầu Hỏa và Khoáng Sản VNCH
@bandoclambao

Thơ Vương Văn Bắc


Mộng trở về

Audio rfavn  -  Video : Tang lễ 

Lòng chán ngán những tình hờ, danh hão,
Tai nhàm nghe toàn Paul, Jacque, Henri.
Mười năm sống kiêm lưu linh, gượng gạo,
Quá lâu rồi đất Mẹ mộng quay về.

Bỏ lại hết những lâu đài xa lạ,
Những cánh đồng không ngập lúa quê hương.
Không vương vấn những vườn nho, tượng đá,
Ta ra đi nhằm nẻo Thái Bình Dương.

Qua sa mạc cận đông thiêu lửa Hạ
Ghé Chiraz thu tới trải hoa vàng.
Âm thầm vượt thành Afgang băng giá,
Hướng về đông, thuyền ngược Ấn Độ giang.

Nắng nhiệt đới làm bỏng da, cháy thịt,
Gió nồm lên, hơi thở nghẹn bụi đường.
Ta ngưng bước trên đồi cao nghỉ mệt,
Thấy mây trôi lòng dào dạt nhớ thương.

Ta tưởng thấy Tháp Rùa in đáy nước,
Ngỡ nghe chuông Thiên Mụ vọng bên đò.
Lòng rộn rã lại hăng say cất bước,
Đã đến ngày hò hẹn với Tự Do!

Vương Văn Bắc
Paris-25/5/1985
(Hình trên:Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc)
Đọc thêm :Biển xưa  -  Vietbao   -    Come back to Sorrento  - hoiquanphidung  -

Friday, July 1, 2011

ledienducblog


Hai đoạn đường và những công trình bất hạnh


Vào ngày 19/6, người Ba Lan đã quyết định chia tay hay đúng hơn, “tống cổ” nhà thầu Covec, làm vỡ tan giấc mộng xâm nhập thị trường Liên minh châu Âu (EU) của Trung Nam Hải.(Liệu Trung Quốc có thể mua cả thế giới? - Ở Ba Lan thì không! )

Đây là câu chuyện thú vị. Thái độ của người Ba Lan và chính phủ Ba Lan trước những bê bối của công ty Trung Quốc, hy vọng ít nhiều giúp người Việt nên ứng xử thế nào với “người bạn 4 tốt” trên đất nước mình.

Thị trường lôi cuốn

Covec (China Overseas Engineering Group), công ty con của Crec (China Railway Engineering Corporation), là công ty xây dựng nhà nước lớn nhất của Trung Quốc, đã và đang thực hiện nhiều dự án tại châu Phi và châu Á. Làm đường cao tốc A2 ở Ba Lan được xem là dự án lớn đầu tiên của Covec tại Liên Minh châu Âu (EU), được xem như cánh cửa mở ra cho các công ty Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ EU.

Bắt đầu trở thành thành viên của EU từ năm 2005, các nước cựu cộng sản đã được EU tài trợ rất lớn trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi sinh, nhất là hệ thống giao thông tồi tệ và lạc hậu.

Số tiền dành cho Ba Lan 67 tỷ Euro, Tây Ban Nha 35 tỷ Euro, Cộng hòa Czech 25 tỷ Euro, v.v... trong tài khoá 2007-2013 của EU thực sự là con số vô cùng hấp dẫn với mọi nhà thầu. Đặc biệt cả đất nước Ba Lan vài năm nay trở thành một công trình xây dựng lớn chuẩn bị cho giải vô địch bóng đá châu Âu mà Ba Lan và Ukraine đồng đăng cai tổ chức vào mùa hè năm 2012.

Năm 2006, trong bài viết cho BBC “Dân chủ là lối làm kinh tế hiệu quả nhất” tôi nhấn mạnh những cái mà người Ba Lan “được”, không chỉ trong phạm trù nhân quyền và còn cả về tiền bạc. Ngay sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, các Câu lạc bộ Tài chính Paris và London đã xoá cho Ba Lan phân nửa số nợ trị giá hơn 20 tỷ đôla, còn EU đã và đang chi viện cho Ba Lan một số tiền khổng lồ để phát triển kinh tế. [1]

Đường cao tốc A2 dài 90 km từ thành phố Lodz đến thủ đô Warsaw được chia thành 5 đoạn. Covec thi công một đoạn 29,2 km với giá 745 triệu Zloty (ZL- tiền Ba Lan), tức là khoảng hơn 250 triệu đôla, mặc dù theo ước tính ở mức 1,7 tỷ ZL (khoảng 566 triệu đôla) và một đoạn khác dài 20 km với 535 triệu ZL (khoảng 180 triệu đôla), ước tính ở mức 1,1 tỷ ZL (khoảng 366 triệu đôla). Ba đoạn khác do các công ty Ba Lan đảm nhận.

Bê bối mọi nơi

Với giá thành chỉ bằng phân nửa mức dự toán và những lời quảng cáo, cam kết có cánh, Covec đã thắng hai gói thầu trước nhiều đối thủ.

Đặt ra nhiều nghi vấn, báo chí truyền thông Ba Lan ầm ĩ cho rằng, để đạt được chỗ đứng trên thị trường EU, công ty Trung Quốc đã sẵn sàng phá giá để giành hợp đồng. Các chuyên gia Ba Lan tiên liệu những khả năng xấu có thể xảy ra.

Khi sự việc vỡ lỡ, nhật báo Pháp luật Ba Lan (Gazeta Prawna) viết rằng vấn đề xây dựng đường cao tốc tại Ba Lan của Covec chỉ là đỉnh của tảng băng ngầm. Khó khăn với các nhà thầu phụ, lỡ hẹn, không giữ đúng thời hạn bàn giao công trình dường như là “tiêu chuẩn” cho bất kỳ dự án nào được thực hiện bởi Covec. – “Công thức cho sự thành công của các nhà thầu Trung Quốc rất đơn giản: giá thấp cộng với hỗ trợ tài chính của chính phủ ở Bắc Kinh. Tuy nhiên sau đó giá thấp biến thành khả năng dự báo cũng rất thấp” - Sven Grimm từ Center for Chinese Studies (CCS) nói với nhật báo.

Theo ghi nhận của nhật báo, Covec thường xuyên bê bối ở châu Phi. Tại Angola, Covec đã xây dựng một bệnh viện, nhưng bị sụp đổ ngay sau khi đưa vào sử dụng. Ở Nam Phi Covec xây dựng hệ thống thủy lợi cho chính phủ với giá thành 61 triệu đôla, ít hơn 14 triệu đôla so với đối thủ cạnh tranh rẻ nhất. Chính điều này đã dẫn đến khó khăn tài chính của công ty. Trả công cho kỹ sư chỉ bằng một nửa số tiền cần thiết, Covec không tìm nổi người làm việc, cuối cùng phải kéo từ Trung Quốc qua, làm công trình bị đình trệ nhiều tháng trời. Tương tự tại Kenya, Covec bàn giao sân bay chậm một năm. Ở Zambia, Covec phá vỡ hợp đồng xây dựng một tổ hợp của chính phủ, vì người chào hàng là đảng UNIP không còn cầm quyền.

Ngoài châu Phi, năm 2005 Covec thi công đường cao tốc tại Fiji. Sau gần 5 năm xây dựng mới thực hiện được 35% dự án. Chính quyền Fiji đã huỷ hợp đồng, mất đứt 34 triệu đôla thiệt hại!

Theo tính toán của CCS, 70% đầu tư nước ngoài của Covec nằm ở châu Phi. Công ty này là công cụ mạnh mẽ của Trung Quốc cho mục tiêu củng cố ảnh hưởng kinh tế trong khu vực. Bản đồ đầu tư trùng với danh sách ưu tiên địa chính trị của Bắc Kinh. Covec đầu tư vào Angola, nơi Trung Quốc mua các nguồn tài nguyên năng lượng. Nam Phi, là đối tác thương mại lớn nhất Trung Quốc ở Lục Địa Đen, còn với Botswana Bắc Kinh là nhà nhập khẩu kim cương lớn thứ nhì.

Qua châu Âu, Covec quyết định khởi đầu hoạt động tại một quốc gia nghèo nhất châu lục - Moldova. Trong năm 2009, Trung Quốc cám dỗ chính phủ Moldova bằng số tiền cho vay trị giá 1 tỷ đôla, kèm theo điều kiện bảo đảm cho Covec vị trí đặc quyền trên thị trường địa phương. Thế nhưng, người Trung Quốc đã thất bại. Nhưng rồi trên chân trời hy vọng xuất hiện Ba Lan. Và như nhật báo viết, chính phủ Ba Lan cũng vì ham rẻ nên bị lùa vào rọ!

“Hai đoạn đường bất hạnh”…

Báo chí Ba Lan trong những ngày qua đã nói như thế về hai đoạn đường cao tốc A2 của Ba Lan do Covec thi công.

Trên đất nước Ba Lan với thể chế dân chủ pháp trị, cộng với báo chí tự do, khi xuất hiện các vần đề nan giải liên quan đến thực hiện hợp đồng, thói quen của người Trung Quốc tìm cách mua chuộc viên chức chính quyền, gây sức ép với người lao động đã không dễ như ở châu Phi.

Chỉ sau một thời gian ngắn, Covec đã gặp khó khăn tài chính, đòi nâng cao mức kinh phí thi công. Trong khi đó, vì thanh toán không đúng hạn nhiều triệu đôla cho các công ty thầu phụ, người Ba Lan biểu tình phản đối Covec bằng cách đi bộ chặn các trục đường giao thông, gây áp lực lên chính phủ Ba Lan và dư luận. Công trình bị ngừng trệ. Để tiến độ kịp phục vụ giải chung kết bóng đá Euro 2012, phía Ba Lan không có cách nào hơn là chọn đơn vị khác thay thế.
Cũng có nguồn tin rằng, ghét cách vào cuộc không trong sáng của Covec, đồng thời bảo vệ thị trường nội địa trước thủ đoạn thiếu lương thiện của Trung Quốc, dân chúng Ba Lan đã phản kháng, chủ ý gây khó khăn trong việc cung cấp người làm việc, phương tiện chuyên chở, nguyên vật liệu…  (Người Ba Lan của các công ty thầu phụ phản đối Covec - Ảnh: TVN 24)

Trong khi đó, đảng “Luật pháp và Công lý”, đảng đối lập lớn nhất trong quốc hội Ba Lan, đã đề nghị Công tố viện mở điều tra xem tiến trình đấu thầu có vi phạm thủ tục hay không và đòi Bộ trưởng Bộ Xây dựng Cơ sở hạ tầng từ chức.

Tờ báo tiếng Anh China Daily ngày thứ Bảy 18/6 trích dẫn từ bài "Trung Quốc gặp sự chào đón khó chịu tại Ba Lan" của tờ Renmin Ribao, được xem là phát ngôn của Bắc Kinh, rằng "bất chấp những nỗ lực của phía Trung Quốc, phía Ba Lan cố tình can thiệp vào việc chuyên môn, thậm chí tận dụng cả phương tiện ngoại giao để chính trị hóa vấn đề". Tờ báo còn cáo buộc báo chí Ba Lan đã quan trọng hoá và phóng đại các vấn đề.

Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk nói rằng, để Covec tham gia đấu thầu là điều tốt, tăng thêm tính cạnh tranh, nhưng Covec đã đánh giá quá cao khả năng của mình vì nghĩ dựa vào nguồn tài trợ của chính phủ. Ông nhấn mạnh Covec dường như không chịu được sự cạnh tranh thực sự trong một môi trường cụ thể và minh bạch, khác hẳn với Trung Quốc, nơi mà thủ tục không đóng vai trò lớn.

Kế hoạch xâm nhập và bành trướng của Bắc Kinh vào thị trường EU, bắt đầu từ Ba Lan, coi như bị phá sản. Người Ba Lan đã ý thức rõ ràng về một đối tác khó tin. Phía Ba Lan sẽ xúc tiến các biện pháp đòi Covec bồi thường thiệt hại 741 triệu ZL (khoảng 250 triệu đôla), trong đó đã có số tiền 10% hợp đồng của Trung Quốc đặt cọc khi trúng thầu.
… đến những công trình bất hạnh
Không chỉ ở châu Phi, vòi bạch tuộc của Bắc Kinh cũng thả sức vươn dài và rộng khắp tại Việt Nam.

Tràn ngập lãnh thổ đủ các chủng loại hàng hoá phẩm chất kém, rẻ tiền, lôi cuốn người tiêu thụ nghèo, làm bức tử nhiều ngành công nghiệp địa phương; tuồn hàng hoá độc hại huỷ diệt môi sinh và sức khoẻ; mua vét nguyên liệu làm tê liệt sản xuất; tung tiền giả làm rối loạn thị trường; phổ biến văn hoá phẩm làm mê muội tinh thần dân tộc Việt; v.v… là những thủ đoạn mà Trung Quốc áp dụng triệt để ở tầng dưới của xã hội Việt Nam từ hai thập niên nay.

Trên thượng tầng, từ thành quả hợp thức hoá sự bành trướng qua hiệp định biên giới Trung-Việt năm 2009, bằng phép mầu, Bắc Kinh đã đạt được bước chiến lược cho mục đích lũng đoạn, khống chế nền kinh tế và an ninh quốc phòng của Việt Nam: thuê rẻ mạt 300 ngàn hécta rừng đầu nguồn trong 50 năm, hiện diện trên vùng cao chiến lược Tây Nguyên bằng các dự án khai thác bauxite, nắm trọn hơn 90% gói thầu EPC (thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây lắp) bao gồm những dự án kinh tế quan trọng bậc nhất.

Một điều đáng chú ý là dường như toàn bộ các hợp đồng nêu trên được ký kết với sự chuẩn thuận của ông Nguyễn Tấn Dũng, giữ chức Thủ tướng Chính phủ từ năm 2006, mặc dù đã có không ít tranh cãi, thậm chí bị phản đối quyết liệt từ giới trí thức, từ nhiều đại biểu Quốc hội và các nhà cách mạng lão thành. Không hề thấy nhà nước công bố công khai tiến trình đấu thầu. Cũng không thấy nói tới số tiền bảo đảm bắt buộc nhà thầu phải đặt cọc cho các dự án.

Trong bài "Tất cả các dự án điện đều bị chậm tiến độ" ngày 25/04/2007, tờ Việt Báo cho hay nhà máy điện Uông Bí xây dựng không đúng tiến độ, nguyên do chậm từ khâu duyệt thiết kế, cung cấp bản vẽ, giải phóng mặt bằng, đến cung cấp thiết bị công nghệ… [2]

Báo Lao Động ngày 24/9/2010 với bài "Chủ đầu tư nhiều dự án nhiệt điện: Ăn 'quả đắng' nhà thầu Trung Quốc", viết các chủ đầu tư đều rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc, trong khi “chính chủ đầu tư thừa nhận chất lượng các thiết bị xuất xứ từ Trung Quốc thấp” và “nhiều công trình, sau khi trúng thầu, nhà thầu Trung Quốc thi công chậm, dẫn tới bị đội vốn”.

Bài báo dẫn lời của giáo sư Bùi Huy Phùng thuộc Viện Khoa học Năng lượng, rằng, "Việc hiện 90% dự án nhiệt điện hiện nay đều do Trung Quốc thắng thầu sẽ dẫn tới sự phụ thuộc, có nguy cơ mất an ninh năng lượng khi có sự cố xảy ra, vì khi đó chúng ta có cái gì làm đối trọng. Đây là điều đáng nghĩ". [3]

Nêu cụ thể những công trình bàn giao chậm từ 10 tháng, đến 28 tháng, tờ Sài Gòn Đầu Tư ngày 06/06/2011 với bài "Nhiều gói thầu EPC lớn chậm tiến độ" viết: "Theo thống kê mới nhất của Hiệp hội Nhà thầu Việt Nam, hầu hết các dự án nhiệt điện than, khai khoáng, hóa chất, luyện kim, xi măng triển khai từ năm 2005 đến nay do các nhà thầu nước ngoài làm tổng thầu EPC, với tỷ lệ trúng thầu rất lớn. Đơn cử, tỷ lệ trúng thầu của các nhà thầu Trung Quốc lên tới 90%. Chất lượng đấu thầu thấp đã dẫn đến một thực trạng đáng báo động là, phần lớn các dự án do nhà thầu nước ngoài làm tổng thầu EPC bị kéo dài thời gian xây dựng và chậm tiến độ bàn giao so với hợp đồng". [4]

Ngạc nhiên hơn là trước bi kịch như vậy, chưa thấy nhà thầu Trung Quốc nào bị xử phạt hoặc bị buộc đình chỉ thi công, bồi thường thiệt hại như người Ba Lan đã xử lý Covec. Tại sao?

Vài lời kết

Cựu Chủ tịch quốc hội NVA, dù muộn màng nhưng đã vạch ra nguyên nhân của mọi nguyên nhân: sai lầm từ hệ thống.

Hệ thống sai lầm tạo ra một guồng máy đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng từ dưới lên trên, mọi cấp, mọi ngành, ngày mỗi nghiêm trọng. Tất cả thông tư, nghị quyết, thành lập uỷ ban nọ, thanh tra kia, đều chỉ là những vở diễn nhằm che đậy một thực trạng không thể cứu vãn. Tham nhũng đã trở thành văn hoá phổ cập, “dường như người chống tham nhũng ngày càng ít đi. Tham nhũng ngày càng lớn hơn và tinh vi hơn nhiều”. [5]

Hệ thống chính trị sai lầm cho phép đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền bổ nhiệm những người tệ hại điều hành đất nước. Ông Thủ tướng xuất thân từ y tá miệt vườn, nhưng là người quyết định số phận của 20 tập đoàn lớn nhất, từ dầu khí, điện lực, thép, than, xi măng, viễn thông, hàng không, hàng hải... cho đến lương thực, cà phê - xương sống của cả nền kinh tế. Được vũ trang bằng chủ nghĩa thân hữu, cộng với công cụ an ninh và tình báo, Thủ tướng có quyền lực vô song, có thể qua mặt, khuynh loát cả Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Quốc hội. Chỉ trong vài năm chỉ đạo trực tiếp một tập đoàn Vinashin, ông Dũng đã có thể vứt xuống biển theo “những con tàu nát” 4,5 tỷ đôla. Thế nhưng, không những ông Dũng vẫn bình chân như vại mà còn làm thêm một nhiệm kỳ nữa!

Ngoài ra, cũng nên kể đến thái độ đáng buồn của người Việt, kém xa sự dấn thân và hy sinh của người Ba Lan trong cuộc tranh đấu xoá bỏ chế độ cộng sản, cũng như trong xây dựng dân chủ. Ý thức phản kháng trước bất công và trách nhiệm với tương lai của đất nước chỉ còn lại ở số ít người Việt. Số người xuống đường trong ngày xử án tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ hôm mồng 4 tháng 4, cũng như số người tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền trong các ngày 5, 12, 19 tháng 6 vừa qua, tuy là bước vượt qua nỗi sợ khởi đầu rất khích lệ, nhưng thực tế chưa được sự hưởng ứng của đông đảo quần chúng. Lẽ ra con số phải nhiều hơn gấp bội.

Nhà nước như thế, người dân như thế, dân tộc Việt còn tiếp tục bất hạnh thì chúng ta chỉ có thể tự trách mình mà thôi!

Lê Diễn Đức