Đồng lõa với giặc! Gian ác với dân!!!
Từ lâu, giữa giới người Việt yêu dân chủ từ trong ra tới ngoài nước, có thành ngữ gán cho đảng và nhà cầm quyền CSVN: “Hèn với giặc! Ác với dân”. Thiển nghĩ thành ngữ này chưa được chính xác cho lắm, khi chúng ta nhìn lại cả một lịch sử dài về mối quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt (Việt cộng) với đảng Cộng sản Tàu (Tàu cộng). Không như Nam Tư của Tito đã từng đứng độc lập với anh cả đỏ Liên Xô, Việt cộng kể từ thời Hồ Chí Minh cho đến hôm nay, vẫn luôn sát cánh với Tàu cộng. Sự sát cánh này chỉ tạm gián đoạn khoảng hơn thập niên khi Việt cộng phản phé đi theo anh cả để kết án anh thứ (ngay cả trong Hiến pháp) nên bị anh thứ “dạy cho bài học”; rồi sau khi anh cả sụp đổ, lại chạy sang anh thứ quỳ tạ lỗi và khấu đầu tái bái phục (tại Thành Đô, Tứ Xuyên, 09-1990).
Quả thế, khi bắt đầu hoạt động cách mạng,Hồ Chí Minh, ngoài việc coi hai lãnh tụ Lênin và Stalin như thần tượng (đúng ra như thần linh), còn sùng bái Mao Trạch Đông và đảng Tàu cộng. Lòng sùng bái ấy đi kèm với lòng hãi sợ (Cộng sản luôn duy trì hai tâm tình sùng bái và hãi sợ này song song trong những người của nó), nên HCM đã chấp nhận cuộc mặc cả chính trị giữa Tàu cộng với các cường quốc tại Hội nghị Genève (1954) là qua phân nước Việt (chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối điều này). Tiếp đến, dưới sự chỉ đạo của Mao, rập khuôn mẫu Tàu cộng và được các cố vấn Tàu cộng trợ giúp, Hồ Chí Minh phát động vụ Cải cách ruộng đất khiến cho đạo đức phong hóa đất nước, cơ cấu làng xã họ tộc, tiềm lực nhân sĩ lãnh đạo bị phá hoại nặng nề, rồi dựng lên vụ Nhân văn Giai phẩm và vụ Chỉnh đốn Tổ chức khiến cho bao tài năng nhiệt huyết của giới trí thức bị mai một dữ dội. Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “tàn hại sinh khí và văn hóa Việt” của Tàu cộng.
Khi Mao Trạch Đông tiến hành kế hoạch mở rộng lãnh thổ Đại Hán xuống Đông Nam Á (như lời ông ta tuyên bố năm 1939, 1959 rồi năm 1965 -xem “Bị vong lục của Bộ Ngoại giao CSVN ngày 15-03-1979”- và lời thú nhận của Lê Duẩn năm 1976: “Chúng ta đánh Mỹ Ngụy là đánh cho Trung Quốc!”), qua việc giúp đỡ Việt cộng xâm chiếm miền Nam, Hồ Chí Minh đã dâng trên giấy cho Tàu cộng hai quần đảo Hoàng Trường Sa của nước Việt (qua Công hàm 1958), đã để cho Tàu cộng chiếm cứ Ải Nam Quan, đồn biên phòng bền vững vạn niên, đem hơn 300 ngàn quân xâm nhập sâu vào miền Bắc để “giữ hậu phương giùm”, len lỏi vào tận hàng lãnh đạo của đảng Việt cộng để “bảo đảm tình đoàn kết “răng môi” giữa hai chính đảng và chính thể”. Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “tàn hại nền chính trị nước Nam” của Tàu cộng.
Khi cuộc thôn tính miền Nam kết thúc, do bị Tàu cộng đòi nợ chiến phí bằng đất đai và quyền lợi kinh tế trên đất Việt, do mù quáng tin tưởng vào Việt (16 chữ vàng và 4 tốt, bất chấp cuộc chiến biên-tình hữu nghị Trung giới năm 1979 và cuộc chiến Trường Sa năm 1988 đầy cay đắng) cũng như do yếu nhược phải cậy dựa vào đàn anh duy nhất còn lại, Việt cộng đã nhượng cho Tàu cộng gần cả ngàn km2 lãnh thổ qua Hiệp định biên giới năm 1999, trên 10.000 km2 lãnh hải qua Hiệp định vịnh Bắc bộ năm 2000, cả vùng Tây Nguyên yếu huyệt qua Quyết định năm 2007 cho Tàu cộng khai thác bauxite; đã cho Tàu cộng thuê hơn 300.000 hecta rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ, xây nhiều làng mạc và đô thị Tàu từ Nam chí Bắc, đi vào đất Việt không cần thị thực nhập cảnh, trúng thầu 90% các công trình kinh tế chủ yếu, các dự án trọng điểm quốc gia, tuôn tràn vào Việt Nam vô số sản phẩm văn hóa, kỹ thuật, ẩm thực (đa phần kém chất lượng hay độc hại)… Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “tàn hại nền kinh tế và quốc phòng đất nước”. Chính Đỗ Mười đã thú nhận điều này: “Tuy Trung Quốc nó đánh ta nhưng nó cùng là cộng sản”. Nghĩa là tuy bọn Tàu chiếm đất, chiếm biển Việt Nam, nhưng dù sao chúng cũng là đồng chí anh em. Đồng chí hướng lý tưởng cộng sản vô biên giới! Chung tình nghĩa anh em cộng sản một gia đình! Núi liền núi sông liền sông, môi bị hở răng phải lạnh! Của em cũng là của anh, là của cộng sản! Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “xâm hại nền kinh tế và quốc phòng đất nước” của Tàu cộng.
Thập niên gần đây, khi Tàu cộng quyết định mở rộng chủ quyền trên Biển Đông qua yêu sách phi lý “Đường lưỡi bò 9 đoạn”, Việt cộng tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao lạ đời (dựa trên bảng phân loại các nước thành bạn hay thù, chứ không phải trên quyền lợi quốc gia lẫn tương quan lợi quyền quốc tế) và thái độ ngày càng khiếp nhược trước Tàu cộng dưới mỹ từ “hiếu hòa hữu nghị”, do đó đã bị Tàu cộng liên tục lấn lướt trên Biển đông. Cụ thể là xua đuổi, bắt tù, cướp bóc, bắn giết ngư dân Việt; là thúc giục, bảo vệ, hộ tống ngư dân Tàu vào đánh cá ngay trong thềm lục địa Việt; là hăm dọa các công ty khai thác dầu hỏa ngoại quốc muốn làm ăn với nước Việt; và mới nhất là xâm phạm lãnh hải Việt Nam để phá hoại những tàu thăm dò khoáng sản của Hà Nội, trong mục tiêu muốn biến luôn vùng biển chủ quyền của nước Việt thành vùng biển tranh chấp hầu đòi chia nửa (như đối với vịnh Bắc bộ năm nào)… Thế nhưng, Việt cộng lại chỉ phản ứng bằng cách cho các viên chức thấp trong bộ Ngoại giao lên tiếng rồi thân hành tới gặp đại sứ Tàu cộng trao công hàm “yêu cầu dừng lại”; bằng cách bỏ mặc ngư dân bơ vơ trước sói biển, lấy cớ tàu quân sự không xen vào chuyện dân sự (lời phát biểu của Nguyễn Chí Vịnh); bằng cách tiếp tục hợp tác toàn diện với Đại Hán xâm lấn, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc (từ kinh tế tới quốc phòng, từ pháp luật tới an ninh, từ thông tin tới văn hóa… qua những cuộc trao đổi gặp gỡ cấp cao kể từ tháng 4-2011); bằng cách tiến hành tuần tra chung Trung-Việt trên vịnh Bắc Bộ; bằng cách từ khước liên minh với lực lượng hùng mạnh của các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ; bằng cách giấu nhẹm thông tin về vụ việc trước quốc dân và không trình vụ việc lên Tòa án quốc tế. Đây là một sự đồng lõa với âm mưu “xâm hại chủ quyền quốc gia” của Tàu cộng.
Trước thái độ “hợp đồng” này, đồng bào Việt Nam, đặc biệt tại quốc nội, mấy Chúa nhật tháng 6, đã biểu tình khắp nơi, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn. Lẽ ra phải nhận thấy đó vừa là sự nhắc nhở cảnh báo, vừa là sự trợ giúp ủng hộ, nhà cầm quyền Việt cộng lại ra tay hạn chế và quấy rối (tại Hà Nội), cấm cản và bắt bớ (tại Sài Gòn), hăm dọa và ngăn chận trọn vẹn (tại Hải Phòng, Nghệ An, Đà Nẵng)… Thông tấn xã Việt Nam và 700 tờ báo trong nước không dám nhắc đến 2 chữ “biểu tình”, đang khi báo chí nước ngoài và báo chí “lề trái” đã phổ biến chi tiết cùng hình ảnh “phong phú, sinh động” về các cuộc xuống đường chống Tàu cộng như vậy. Nhiều biện pháp đểu cáng và hung bạo đã được tung ra để bóp chết lòng yêu nước và hành hạ người yêu nước. Lẽ ra nhân cơ hội toàn dân muốn đoàn kết để bày tỏ sự phản kháng lũ ngoại xâm, thậm chí có người còn đề nghị Quốc hội xác định quyền biểu tình, ban hành Luật Đoàn kết dân tộc, sau khi một nhóm trí thức ra Tuyên cáo về việc Tàu cộng có các hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam (tiếc là Tuyên cáo này không đề cập đến việc quốc tế hóa, đa phương hóa vấn đề biển Đông), nhà cầm quyền phải thả ngay những nhà dân chủ đã bị tống ngục vì bênh vực chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ này (như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cô Phạm Thanh Nghiên, luật sư Cù Huy Hà Vũ…), phải đổi mới hệ thống chính trị theo mệnh lệnh của tình thế. Đau đớn thay, Việt cộng lại càng ra tay hung bạo cách trắng trợn, điển hình là bắt bớ, hành hung, khám nhà và tống ngục Mục sư Phạm Ngọc Thạch hôm 25-06 khi ông đi dán truyền đơn về Hoàng Trường Sa, mang tội “kích động biểu tình, vi phạm pháp luật”!?! Những ai dũng cảm biểu lộ lòng yêu nước, chống ngoại xâm tiếp tục ngồi tù và sẽ tiếp tục vào tù. Thật là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và lịch sử loài người (thậm chí trong “lịch sử” loài vật).
Thái độ đồng lõa với giặc mới đây còn biểu lộ qua việc cùng ngày nói trên (25-06), Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn đã thân hành sang Trung Hoa gặp Ủy viên Quốc vụ Tàu cộng là Đới Bỉnh Quốc (mình là nạn nhân mà lại đi xin “cầu hòa” thì đúng là khiếp nhược, quỵ lụy và vô liêm sỉ). Cùng nhai lại 16 chữ vàng và 4 tốt, “hai bên khẳng định cần tích cực thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, giải quyết hoà bình các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị, áp dụng biện pháp có hiệu quả, cùng nhau duy trì hoà bình và ổn định tại Biển Đông, tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước, đẩy nhanh tiến độ đàm phán để sớm kết ký kết “Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam – Trung Quốc”; thúc đẩy việc thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và công việc tìếp theo, cố gắng sớm đạt tiến trển thực chất”. Điều này có nghĩa là Việt cộng đã chấp thuận thoả hiệp song phương với Tầu cộng, để ký kết dâng thềm lục điạ của mình cho Tầu trước, rồi sau đó cùng đứng chung một phía với Tầu để thảo luận đa phương với các nước trong khối ASEAN và Hoa Kỳ, theo tuyên bố DOC sau.
Mỉa mai thay, trong cùng ngày của cuộc gặp gỡ này, viên tướng Bành Quang Khiêm, phó tổng thư ký Ủy ban Chính sách an ninh quốc gia, thành viên Hội Nghiên cứu Khoa học Chính sách Tàu cộng, lại ngạo mạn tuyên bố: “Trung Quốc từng dạy Việt Nam một bài học và có thể cho Việt Nam bài học lớn hơn nữa”. Khiêm không quên đổ lỗi cho Việt Nam và Philippin gần đây “liên tục khiêu khích”. Khiêm còn dùng những ngôn từ khích động rằng: “Nếu Việt Nam tiếp tục diễu võ dương oai, múa trên lưỡi dao, sớm muộn có ngày Việt Nam sẽ ngã trên lưỡi dao đó”. Nhà cầm quyền Việt cộng không biết tới thái độ nước lớn chẳng bao giờ thay đổi này của Tàu cộng chăng?
Tại sao Việt cộng vẫn mãi “đồng lõa với giặc, gian ác với dân” như thế? Đó là vì đối với Việt cộng, độc lập tự do của đất nước chỉ là chiêu bài (nay không cần dùng nữa), Tổ quốc Dân tộc chỉ là những khái niệm vô nghĩa. Việt cộng chỉ biết có một điều duy nhất: quyền lực của đảng, quyền lợi của phe phái; chỉ có một bận tâm duy nhất: giữ ngai vàng bằng mọi giá, dù có phải bán nước, buôn dân!