Tuesday, January 3, 2012

AULD LANG SYNE


GIAI THOẠI VỀ KHÚC NHẠC GIAO THỪA
 BÀI AULD LANG SYNE
(Hay Điệu hát: NĂM XƯA NĂM XỬA NĂM XƯA)

Ở Hoa kỳ, dân chúng vào nửa đêm giao thừa dương lịch thường thức khuya để xem TV Chương trình đón năm mới ở quảng trườngTime Square ở NY, chủ đích là coi cảnh dân chúng theo dõi quả cầu tụt xuống theo 12 tiếng chuông đồng hồ để rồi tưng bừng hát mừng một năm mới bằng bài hát Auld Lang Syne .

Rất nhiều người VN thắc mắc chung quanh bài hát nầy vì họ quen nghe điệu hát quen thuộc nầy qua bàai hát Tạm biệt hay Ce n’est qu’un au-revoir !mỗi khi chia tay bãi trường hay tan lửa trại hướng đạo. Điệu hát này được con nít VN nhại ý đổi lời là : Ò e, con ma đánh đu , Tạc zăng nhẩy dù Zorrô bắn súng!

Kỳ thực, bài này gốc gác từ xứ Tô Cách Lan nhưng lại mang rất nhiều cái lạ. Chữ Auld Lang Syne nếu dịch ra tiếng Anh là times gone by nghĩa là nói theo tiếng Việt là Cái thủa năm xửa năm xưa , mà nói theo giọng Nam kỳ xứ Việt là Hồi Nẵm!

Điều rất lạ thứ nhất là, dù là thiên hạ không biết chút xíu gì về tiếng Tô Cách Lan, nhưng điệu nhạc của nó bình đị quyến rũ nhưng thấm dễ dàng vào tâm trí khiến người ta nghe vài lần là thuộc ngay, có thể nói hát mà không hiểu lời ca nhưng cảm thấy hay, điều này thật lạ lẫm.Cái lạ lớn thứ hai là bài hát này được phổ biến hầu như khắp hoàn cầu nhưng lại được hát vào những dịp khác nhau? Và Cái lạ thứ ba là nguyên thủy của bài hát là dùng để mừng đón” một điều vui mới đến, nhưng về sau nó lại được sử dụng để ngậm ngùi “tiễn đưa” một điều luyến tiếc.

Bài Auld Lang Syne ban đầu là do thi sĩ trứ danh của xứ Tô Cách Lan tên là Robert Burns chuyển ký và in ra dựa vào một bài du ca dân dã của xứ này. Robert Burns  (Hình phải)đưa  ra một bản chép của bài ca nguyên thùy đến Viện Bảo Tàng Anh với câu ghi chú sau: “ Bài hát sau đây- một bài rất cồ, cổ nhất trong những bài xưa cổ và chưa bao giờ được in ra và ngay dù xuất hiện dưới dạng bản thảo cho đến lúc tôi ghi nó ra từ tiếng hát một cụ già, điều này đã đủ khiến cho người ta tin cậy. Nhưng điệu ca mà ông Burns chuyển ký ra không phải là điệu hát ngày nay.

Robert Burns là một thi hào nặng tinh thần dân tộc của người dân Tô Cách Lan vào cỡ như Nguyễn Du ở VN. Ông sinh năm 1759, chết 1796 lúc 37 tuổi. Ảnh hưởng thi ca của ông ở Anh Cát lợi kéo dài 2 thế kỷ sau với tinh thần thi ca lãng mạn và ái quốc. Ngoài bài Auld Lang Syne, ông còn làm bài Scots Who Hae một thời được dân Tô Cách Lan dùng hát như bản quốc thiều vậy.

Thi sĩ Robert Burns đã chuyển thổ âm Tô Cách Lan ra Anh ngữ như sau:


Auld Lang Syne
by Robert Burns




Should auld acquaintance be forgot,
And never brought to mind?
Should auld acquaintance be forgot,
And days o’ lang syne!
Chorus:
For auld lang syne, my dear
For auld lang syne,
We’ll tak a cup o’ kindness yet
For auld lang syne!
We twa hae run about the braes,
And pu’d the gowans fine,
But we’ve wander’d mony a weary foot
Sin’ auld lang syne.
We twa hae paidl’t in the burn
Frae morning sun till dine,
But seas between us braid hae roar’d
Sin’ auld lang syne.
And there’s a hand, my trusty fiere,
And gie’s a hand o’ thine,
And we’ll tak a right guid willie-waught
For auld lang syne!
And surely ye’ll be your pint’ stoup,
And surely I’ll be mine!
And we’ll tak a cup o’ kindness yet
For auld lang syne! Times Long Gone
by Robert Burns

(translation)
Should old acquaintances be forgotten,
And never brought to mind?
Should old acquaintances be forgotten,
And days of long ago !
Chorus:
For old long ago, my dear
For old long ago,
We will take a cup of kindness yet
For old long ago.
We two have run about the hillsides
And pulled the daisies fine,
But we have wandered many a weary foot
For old long ago.
We two have paddled (waded) in the stream
From noon until dinner time,
But seas between us broad have roared
Since old long ago.
And there is a hand, my trusty friend,
And give us a hand of yours,
And we will take a goodwill draught (of ale)
For old long ago!
And surely you will pay for your pint,
And surely I will pay for mine!
And we will take a cup of kindness yet
For old long ago!

Đây là một loại dân ca hay ca dao Tô cách lan ( ballad) gồm 5 đoạn,mỗi đoạn 4 câu và câu cuối luôn luôn kết thúc bằng câu For Auld Lang Syne. Hát xong một đoạn là trở về điệp khúc để rồi hát đến đoạn kế. Cứ hát hoài như vậy.
Tôi thấy điệu này giống như Việt nam ta có điệu hát nhi đồng về Chuyện Con Voi. Bài này được nhạc sĩ Nguyễn xuân Khoát phổ nhạc với lời như sau mà tôi từng nghe ca sĩ Hoài Trung của ban Thăng Long trình diễn ở Sàigon

Con vỏi, ý ỳ con voi,
Cái vòi ý ỳ đi trước,
Hai chân trước ịch di ịch trước
Hai chân sau ịch đi ịch sau
Còn cái đuôi thì đi sau rốt
Tôi ngồi, tôi kể nốt cái chuyện con voi
Con voi, ý ỳ con voi
Cái vòi ý ỳ đi trước
......
Auld Lang Syne dịch theo từng chữ Tô Cách Lan ra Anh Ngữ là Old long since, được Robert Burns dịch là times gone by . Nói theo tiếng Việt, tôi nghĩ thích hợp hơn cả dịch là “Năm xưa, năm xửa, năm xưa.”
Đại ý của bài Ca dao Tô cách lan này là hai người bạn thân rất lâu không gặp nhau rồi rủ nhau nhậu bia, nhậu ruợu , nhưng với điều kiện tiền ai nấy trả. Hai ông cùng lè nhè nhắc lại bao nhiêu chuyện cũ thuở năm xửa năm xữa như : nào là cùng nhau leo đồi, nào là cùng nhau lội suối... Cứ nhắc xong một kỷ niệm thì họ lại cùng nâng ly nốc cạn. Uống cho đến say thì thôi
Tôi mạo muội dịch ý bài này ra thơ lục bát Việt cho vui, cố gắng lột tinh thần vui nhộn của nguyên văn về hai ông bạn vốn là bợm nhậu lưu tồn cố hữu bằng cách lập lại chữ “Năm Xưa như trong nguyên văn nhắc lại chư For old long ago:

NĂM XƯA NĂM XỬA NĂM XƯA

Địêp khúc:

Năm xưa năm xửa năm xưa,
Ta cùng nhắc lại cho vừa lòng nhau
Bạn bè bạc tóc bạc râu
Gặp nhau ôn lại hồi đầu chuyện xưa!


Bốn đoạn đồng thanh

Năm xưa năm xửa năm xưa
Xưa sao xưa đến bây giờ thật xưa.
Cùng nhau nâng chén ta ưa
Nhắc lại hồi nẵm , nhắc bừa chuyện xưa

Hai ta leo khắp núi đồi
Hoa đồng cỏ dại hái thôi đã đời
Lang thang chân mỏi rã rời
Nhắc lại hồi nẵm với hồi năm xưa!

Hai ta lặn lội muôn bề
Từ trưa đến tối không về ăn cơm
Biển đời trời rộng muôn phương
Từ hồi năm nẵm con đường năm xưa!

Tay tôi, bạn hãy nắm đi
Rồi đưa tay bạn tôi ghì một khi
Thôi ta nốc cạn ly bia
Để mừng tái ngộ nhớ về năm xưa

Ly tôi tôi trả tiền tôi
Ly anh anh trả...chớ đòi đãi nhau
Ta cùng nhậu quất cần câu
Cùng nhau kể lại hồi dầu năm xưa.


Sự lập đi lập lại “ Năm xưa năm xửa năm xưa” đã nhại cái tật lè nhè của các bợm nhậu. Dân Tô Cách Lan là dân hà tiện nên cùng đi uống ruợu thì tiền ai nay trả, nghe vui thiệt.
Lời ca Việt tếu Ò e con ma đáng du nghe không ngờ lại đúng âm điệu nguyên thủy vì người Tô Cách Lan đã dùng cây kèn bagpipe để thổi .
Theo phong tục cổ truyền của xứ Tô Cách Lan, người dân đã hát bài này vào dịp Giao Thưà Năm Mới hay Hogmanay.
Người đã phỗ biến bài này bằng cách chơi nó vào dịp Giao Thừa Tết Dương lịch trong những buổi phát thanh thường niên kể từ năm 1929 là nhạc trưởng Guy Lombardo . Tuy nhiên, ông này không phải là người tiên khởi tạo ra tục lệ. Bằng cứ vào hồ sơ lưu trữ của tờ báo ProQuest thì trong những bài đăng báo ngược dòng lên đến năm 1896 thì dân chúng ăn mừng Giao Thừa ở hai bờ Đại Tây Dương đã từng hát nó thành một tục lệ rồi. Hai ví dụ điển hình:

_ Tờ New York Times , số January 5, 1896 trang 10 đăng bài nhan đề là HOLIDAY PARTIES AT LENOX [Mass...] viết : ...Đám người tham dự nắm tay nhau trong phòng nhạc sảnh lớn và hát” Auld Lang Syne” đúng vào lúc tiếng chuông chót của 12 giờ đêm và Năm mới đã đến.
_ Tờ Washington Post, ngày 2 tháng 1910 tran Bài NEW YEAR’ EVE IN LONDON-Phong tục cổ truyền quen thuộc được mọi từng lớp người dân vẫn giữ : Ở Luân Đôn cuộc tiễn năm cũ được cử hành như thường lệ. Những cư dân gốc Tô Cách Lan tụ họp bên ngoài Nhà Thờ Thánh Paul và hát bài “Auld Lang Syne” vào tiếtng chuông chót của 12 tiếng chuông lớn.

Bài Auld Lang Syne rõ ràng tỏ sự vui mừng gặp lại nhau sau bao nhiêu năm xa cách bèn nâng ly nhắc lại chuyện xưa. Áp dụng vào tiệc ruợu Tất Niên Giao Thừa thì rất đúng, vì đây là dịp sum họp bè bạn. Nhưng khi nó lan truyền ra các xứ khác, thì nó được hát với sự áp dụng rất khác nhau

Ở Đài Loan, bài này hát vào địp sinh viên tốt nghiệp và đám tang, tượng trưng cho sự chấm dứt hay vĩnh biệt.
Ờ Nhật, vài tiệm siêu thị chơi bản này để nhắc nhở khách hàng giờ đóng cửa.
Ở Anh Quốc, bài này cử vào lúc bế mạc của Đại Hội thường niên về Mậu dịch
Ở Hàn quốc, trước khi có bài quốc thiều Aegukga (Ái Quốc ca) hiện nay, thì họ dùng điệu này làm quốc thiều với lời tiếng Hàn.
Trường hợp xứ Maldives cũng giống vậy: đó là bản Gaumii salaam nhac Auld Lang Syne với lời đặt theo thổ ngự.
Ở Bồ Đào Nha, bài nay dùng làm bài ca Tạm Biệt và nhất là trong Phong trào Hướng Đạo
Ơ Ấn độ, trong Quân Lực xứ này, khi tiễn toán quân Tân Binh tuyển mộ diễn hành rời khán đài, thì bài này cử lên và toán linh phãi đi thật chậm.
Dân Việt Nam còn nhớ bài Auld Lang Syne cũng được vào phim ảnh như là nhạc chủ dề như cuốn phim La Vase dans l’ombre với kép Robert Taylor và đào Vivien Leigh.
Trước đó, It’s a Wonderful Life làm một phim có dùng bài này với sự diễn xuất của J ames Steward và Donna Reed rất cảm động cao điểm vào hồi kết cuộc.

Bài Auld Lang Syne đúng là một điệu hát rất hay, rất lạ và cực kỳ thân quen với hầu như với tất cà mọi người, dùng sao về nó cũng thích hợp : đón mừng và buồn tiễn nhau đi. Tuy nhiên mấy ai mà hiểu sự kỳ bí hấp dẫn của nó. Đây là bài nhạc trứ danh mà chẳng ai hiểu gì về nó cả như câu nói của người Anh: “the song that nobody knows!

LÊ VĂN LÂN
@nhohue.org

Monday, January 2, 2012

Buddhism


Phật Giáo-Tôn giáo vĩ đại của nhân loại.

I. Lời mở đầu

Đạo Phật là một tôn giáo lớn của nhân loại; ảnh hưởng của đạo Phật đối với con người và xã hội, mang ý nghĩa rất lớn trong quá trình tiến bộ của con người, và đã tạo nên nền văn hóa nhân bản theo tinh thần của xã hội Á Đông hơn 2.000 năm qua. Đạo Phật đã và đang chinh phục phương Tây một cách nhẹ nhàng đầy tính cảm hóa. Rhys Davids, giáo sư sử học, phát biểu: "Là Phật tử hay không là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra rằng không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt của Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó".

Không dừng ở đây, người phương Tây còn hy vọng đạo Phật sẽ làm nền tảng cho tôn giáo của tương lai; nhân loại cần phải có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu sống còn và sự phát triển phù hợp với điều kiện mới của xã hội. Sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những khủng hoảng xã hội, mất thăng bằng về sinh thái, về văn hóa, tâm lý, đạo đức... Albert Einstein, nhà vật lý học, cho rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên, trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện ấy".

Đạo Phật có gì đặc biệt mà được sự thiện cảm và ca ngợi của con người thời đại? Có lẽ điều nổi bật là đạo Phật là một tôn giáo không có Thượng đế, một nền giáo lý không có giáo điều.

Đức Phật, tiếng Phạn gọi là Buddha, nghĩa là người Giác Ngộ, người Tỉnh thức, người đã tận diệt tham sân si, đã đạt được giải thoát viên mãn. Đạo Phật là con đường do Đức Phật tuyên bố, truyền đạt; con đường ấy đã được thực nghiệm, thực chứng. Vậy có thể nói rằng đạo Phật là phương thức sống, lẽ sống, lối sống để có được hạnh phúc chân thật, như Giám mục Milman nhận xét: "Tôi càng ngày càng cảm thấy Đức Thích Ca Mâu Ni gần gũi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài; Ngài là đường lối, là chân lý, là lẽ sống".

Tính cách của Đức Phật được thể hiện qua các kinh điển còn lưu lại, cho thấy Ngài chỉ dạy những gì Ngài đã thực nghiệm, cần thiết cho đời sống thoát khổ. Do vậy, nội dung của đạo Phật không ở nghi lễ, triết học hay thần thoại, mà chính là ở trong lối sống, cách ứng xử đối với bản thân, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vũ trụ.

 II. Mục đích của đạo Phật

Người Phật tử quy y theo Phật, thực tập hành trì tụng kinh, niệm Phật, nghiên cứu kinh điển, tọa thiền, hành đạo... có mục đích rất rõ rệt. Kinh Trung A Hàm, Đức Phật dạy 3 mục đích chính:

1. Muốn tự điều phục mình: Tự điều phục tất là làm chủ được bản thân mình, là chế ngự được tham dục, sân hận, ác ý. Như vậy, tự điều phục mình có nghĩa là đạt được sự tự do. Tự do là khát vọng muôn đời của nhân loại, là nhu cầu thiết yếu sau nhu cầu ăn uống, nhưng bản chất của tự do là gì thì không giống nhau. Con người càng tìm kiếm tự do ở bên ngoài thì càng mất tự do, đến nỗi có người nói: "Con người chỉ có tự do lựa chọn sự mất tự do". Khái niệm về mất tự do trong đạo Phật là sự bị trói buộc, bị vướng mắc vào dục vọng, sân hận, hãm hại. Cho nên tự điều phục mình, chế ngự bản năng dục vọng của mình, tự chiến thắng mình là sự tự vươn tới tự do.

Đức Phật dạy thêm rằng, người Phật tử có khả năng tự điều phục mình thì dù mưu cầu lợi lộc, công danh, sự nghiệp, xây dựng tình yêu... khi những cái ấy bị thất bại, bị thay đổi, bị phản bội... người ấy vẫn an ổn, vững chãi, không bị ưu sầu phiền muộn, khóc than, phát cuồng, tự tử... Đó là mục đích thứ nhất của đạo Phật.

2. Muốn đạt được sự thanh tịnh, an lạc: Sự an lạc tùy thuộc vào tư duy, cảm xúc của con người. Nếu tâm tư của một người bị chi phối, bị chế ngự bởi sự lo lắng, buồn rầu, sợ hãi thì họ không thể có an lạc. An lạc và hạnh phúc đi đội với nhau; hạnh phúc có hay không tùy thuộc vào thái độ tâm lý ổn định hay không. Một người mạnh khỏe và giàu có, nhưng trong lòng sôi sục dục vọng hay hận thù thì người ấy không thể có sự an lạc và hạnh phúc; một người đầy danh vọng và sự thành đạt mà trong lòng sự lo lắng bất an, sợ hãi chế ngự thì không thể có hạnh phúc được.

Đức Phật dạy rằng, một người đạt được sự thanh tịnh, an lạc là người khi có điều không vui đến, những điều lo âu, sợ hãi đến thì không bị chúng làm chi phối, vướng bận; rằng một người không bị chi phối, vướng bận với cái tư duy tham dục, sân hận và ác ý; rằng một người đạt được các trạng thái thanh tịnh như sơ thiền cho đến tứ thiền, như theo lời kinh Pháp Cú dạy: "Không có hạnh phúc nào lớn bằng sự yên tĩnh của tâm trí". Đây là mục tiêu thứ hai của đạo Phật.

 3. Muốn đạt được giải thoát - Niết bàn: Đây là mục đích tối hậu của mọi người Phật tử: chấm dứt mọi đau khổ, thoát ly sanh tử, luân hồi, thành tựu trí tuệ viên mãn. Nỗi khổ thật sự và lâu dài chính là vô minh; niềm hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu là sự chấm dứt vô minh, đó là đáo bỉ ngạn, là "vô minh diệt minh sanh".

Mục đích đó có thể chia làm 2 phần: mục đích gần và mục đích xa. Gần là sư vươn tới đời sống tự do và hạnh phúc, xa là đạt đến an lạc vĩnh cửu Niết bàn. Giáo pháp của Phật giúp con người kềm chế, làm chủ bản thân. Đây là bước đầu, là nền tảng của mọi đức hạnh, mọi tiến bộ, từ đó thực hiện sự thanh tịnh và an lạc của tâm linh, chuyển hóa toàn bộ đời sống đã từng mang bất an ổn và hạnh phúc. Nói mục đích gần và xa là để dễ hiểu, thực ra cả hai là một. Thực hiện được tự do tự chủ là đưa đến an lạc, hạnh phúc. Có được an lạc, hạnh phúc dẫn đến giải thoát Niết bàn. Niết bàn được thực hiện ngay cõi đời này.

III. Những đặc tính tiêu biểu của đạo Phật:

1. Tự do tư tưởng: Đạo Phật không có hệ thống tín điều, không lấy tín điều làm căn bản như hầu hết các tôn giáo. Đức tin của đạo Phật luôn đi đôi với cái "thấy", một trong những định nghĩa về giáo pháp là "đến để mà thấy", chứ không phải "đến để mà tin". Vì vậy, chánh kiến luôn đứng đầu trong các đức tính.

Lời Phật dạy cho dân Kàlama được các nhà học giả phương Tây coi là bản tuyên ngôn về tự do tư tưởng của nhân loại: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi vì thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều dường như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩ đây là bậc Đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kàlama, khi nào các ông biết chắc rằng những điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng" (Tăng Chi I).

Bác bỏ các tín điều và đức tin mù quáng, khuyến khích tự do phân tích, khảo sát, đó là một đặc điểm của Phật giáo.

2. Tinh thần tự lực: Đấng Thượng đế hoặc tạo hóa hay các thần linh được con người tin tưởng thở phụng, vì các đấng ấy có thể ban phúc hay giáng họa.. Ấy là quan điểm của tâm lý sợ hãi, yếu đuối, mất tự tín đã sản sinh ra thần thánh (hoặc đa thần hoặc nhất thần).

Đạo Phật với chủ trương luật nhân quả, nghiệp báo đã nói lên tinh thần trách nhiệm cá nhân và cộng đồng trước sự đau khổ và hạnh phúc của chính mình.. Đức Phật dạy: "Chính ta là kẻ thừa kế của hành động của ta, là người mang theo với mình hành động của mình" (Tạp A Hàm, 135).

Đức Phật không phải là đấng thần linh ban cho ta sự thay đổi hoàn cảnh hay tình trạng khốn đốn của mình. Đức Phật tuyên bố: "Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi thế cho ai được". Công trình khơi mở kho tàng tri kiến Phật là công trình của mỗi cá nhân. Con đường tự lực ấy được Đức Phật dạy như sau: "Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính mình, thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên vơ1i một pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác" (Trường A Hàm I).

Tinh thần tự lực mang tính triệt để nhân bản này là một đặc tính của đạo Phật.

3. Tinh thần từ, bi, hỷ, xả: Chúng sanh còn khổ thì đạo Phật còn vai trò và vị trí ở cuộc đời; đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có đạo Phật, ở đó có tình thương, ở đó hận thù được hóa giải. Bởi lẽ phương châm tu tập của Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là Tứ vô lượng tâm. Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật.

Trong quá trình truyền giáo, đạo Phật chưa bao giờ gây chiến tranh hay đổ máu, thông điệp tình thương cứu khổ, giúp đời đã được Đức Phật tuyên thuyết ngay từ thời kỳ sơ khai thành lập Giáo đoàn: "Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người".

Tâm từ là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân. Tâm bi là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm hỷ là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm xả là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Đức Phật dạy người Phật tử tu tập Tứ vô lượng tâm: "Vị ấy tâm an trú biến mãn một phương cho đến mười phương với tâm từ, bi, hỷ, xả quảng đại vô biên, không hận, không sân... đối với mọi hình thức của sự sống, không bỏ qua và bỏ sót một ai mà không biến mãn với tâm giải thoát cùng với từ, bi, hỷ, xả (Trường Bộ I)". Thương yêu đồng loại và vạn loại chúng sanh là chất liệu sống của đạo Phật.

4. Tinh thần thực tiễn: Một trong những định nghĩa về pháp là "thiết thực hiện tại", nghĩa là giáo lý đạo Phật là thiết thực, không mơ hồ, mang tính thực tiễn, có tác dụng cụ thể, không phải lý thuyết suông. "Hiện tại" có nghĩa là không chờ đợi kết quả của tương lai, có tu tập là có hướng thượng, có giải thoát ngay hiện tại, đời này. Vì vậy, giáo lý đạo Phật là giáo lý thực nghiệm, không chờ đợi một ân sủng hay một mặc khải nào. Đức Phật thường từ chối trả lời những câu hỏi về những vấn đề siêu hình. Ngài chỉ dạy những gì cần thiết cho cuộc đời, cho con đường thoát khổ. Có lần ở Kosambi, Đức Phật dạy: "Những gì Như Lai biết ví như lá trong rừng, còn những gì Như Lai giảng dạy như nắm là ở trong tay, nhưng đây là những phương pháp diệt khổ" (Tương Ưng V).

Đạo Phật cho rằng phần lớn những nỗi khổ của con người do họ không sống thật với hiện tại, họ thường nuối tiếc quá khứ, mơ tưởng tương lai; do đó, ý nghĩa của cuộc đời bị đánh mất:

 "Do mong việc sắp tới Do than việc đã qua Nên kẻ nghi héo mòn Như lau xanh lìa cành" (Tương Ưng I)

Hoặc:

"Đừng tìm về quá khứ Đừng tưởng tới tương lai Quá khứ đã không còn Tương lai thì chưa tới Hãy quán chiếu sự sống Trong giờ phút hiện tại..." (Kinh Trung Bộ)

Tính thực tiễn, thiết thực hiện tại là một đặc tính của đạo Phật.

5. Tinh thần không chấp thủ: Đạo Phật là giải thoát và tự do; vướng mắc vào bất cứ điều gì cũng đều đưa đến đau khổ. Đức Phật dạy: "Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ (vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn không hợp lý". Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu vào cuộc đời.

Nhờ tinh thần không chấp thủ nên thái độ củ đạo Phật rộng rãi, bao dung, tinh thần tu tập của người Phật tử rất thoáng. Kinh Ví dụ con rắn (Trung Bộ), Đức Phật ví dụ giáo pháp như chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ; chánh pháp như chiếc bè, chánh pháp cũng phải xả huống là phi pháp. Tương tự, kinh Kim Cang cũng nói: "Giáo lý như phiệt dụ giả chánh pháp thương ưng xả hà huống phi pháp", hoặc nói: "Cái gọi là Phật pháp tức chẳng phải là Phật pháp nên gọi là Phật pháp".

Tinh thần không chấp thủ là nội dung trí tuệ của đạo Phật; tác dụng của tinh thần ấy ngoài, sự đem đến giải thoát, còn đem đến sự giải tỏa tất cả mọi áp lực, ức chế của đời sống lên trên tâm lý của con người. Đây là một đặc tính của Phật.

IV. Kết luận

Sự có mặt của đạo Phật đã đem lại nguồn khí mới cho xã hội Ấn Độ thời ấy, đã mở ra một lối thoát cho con người trước những bế tắc, những khủng hoảng về xã hội, về tư tưởng triết học và đạo học. Lời tán dương Đức Phật của người đương thời còn ghi chép lại đã chứng minh diều đó: "Thưa Ngài Cồ Đàm, thật vi diệu, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho ai có mặt có thể thấy" (Nikàya).

Trải qua hơn 2.500 năm, đạo Phật đã được thử thách, cọ xát với thời gian và không gian; giá trị, tác dụng của đạo Phật vẫn như xưa. Ngày nay, trước tiến bộ văn minh vật chất quá độ đã xô đẩy con người vào trong hố thẳm của tham vọng, hận thù. Chiến tranh vẫn diễn ra khốc liệt trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai vẫn đe dọa đời sống của nhân loại. Càng văn minh, con người càng có nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi mới: nạn nhân mãn, ô nhiễm mo6i trường, hủy diệt sinh thái, áp lực kinh tế xã hội đè nặng lên trên tâm trí của con người tạo nên ức chế tâm lý. băng hoại về đạo đức làm mất thăng bằng giữa đạo đức và hưởng thụ. Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ, có khả năng thực hiện niềm hạnh phúc chân thật trên cõi đời này. Đó là lời dạy của Đức Phật.

Thích Viên Giác
Nguồn internet

Marxism


Mác Xít Lừa Đảo Thế Giới Ra Sao ?

“Còn Trời, còn Nước, còn Non,
Việt Cộng mà còn, thì mất Quê Hương”.

1. Cách Mạng Bôn Sê Vích 1917 là phản ứng chủ quan của người Do Thái Âu châu, Mác, Ăng Ghen, Tờ Rốt Kít, Borodine…đều là trí thức gốc Do Thái, họ chống lại chính sách kỳ thị áp bức của Nga Hoàng, của Âu châu tk 19, chẳng dính líu gì tới Á Đông nhất là Việt Nam. Họ chủ trương thiên hạ đại đồng, thế sao dân Do Thái mất đất 2000 năm vẫn cố trở về lập quốc Israel ?

2. Chưa biết rõ Vật chất là gì mà đã khẳng định là Duy Vật, tức là cường điệu của thế kỷ XVIII, thế kỷ khoa học và kỹ thuật mới bắt đầu phát triển, Duy Vật đã mơ hồ thì Duy Vật Biện Chứng Pháp không thể lô dích nghĩa là phản khoa học. Đi từ cực đoan Duy Tâm sang cực đoan Duy Vật, Mác cũng là con đẻ của trò chơi triết lý hão huyền hý luận của các trường phái triết học Âu Tây, khác xa minh triết cổ Hy Lạp, Hy Mã Lạp Sơn, Phật Khổng Lão Á đông.

3. Xã hội con người vốn đa tạp, không thể giản quy vào một công thức máy móc : Đề-Phản đề-Tổng hợp đề, Tư bản-Cọng sản-Xã hội. Dựa trên tinh thần biện chứng tiến hoá linh động, dialectic, thì sau Tổng Hợp đề, sau Xã hội, diễn tiến tiếp theo sẽ là gì ? Ngõ cụt này không thấy Mác và đồ đệ giải thích. Nói khác đi, nhận thức Mác xít rất máy móc, chỉ biết phần khách quan mà quên phần chủ quan.

4. Thời đại mới, sau đệ nhị thế chiến, các nước tư bản Âu Mỹ đã biến thể rất nhiều, thực dân cũng đã buông bỏ thuộc địa, địa vị quyền lợi của công nhân lao động đã tăng lên khác hẳn thế kỷ XIX, ý tưởng của Mác về kinh tế, về giai cấp xã hội…trở thành lỗi thời không thể áp dụng được. Phỏng đoán của Mác về cách mạng công nhân, vô sản, đã không xẩy ra ở các nước kỹ nghệ Anh, Đức, Pháp. Lenine đành phải thay cách mạng công nhân vô sản thành nông dân vô sản ở các nước chậm tiến như Nga, Nam Tư…Tóm lại CS chỉ là một đảng cướp tổ chức bài bản mạo danh nhân dân để lật đổ chính quyền ở các nước đang gặp khó khăn hòng lập thể chế độc tài sắt máu dành hết quyền và lợi cho phe nhóm vô học, vô luân, trả thù giai cấp xã hội.

5. Cực đại hoá mâu thuẫn giai cấp để phá huỷ mô hình xã hội cũ, nhưng không thấy họ dựng lên được một mô hình nào tốt hơn, mới hơn : thay tôn giáo bằng ma giáo mê tín, thay Thánh Thần Phật Chúa..bằng các lãnh tụ độc ác sát nhân, thay trí thức bằng cán bộ vô học, thay đạo lý bằng vô đạo, thay chân lý bằng nòng súng. Nói hoà bình mà đi gây chiến, nói giải phóng mà chỉ trả thù giết chóc thủ tiêu cầm tù đối lập, ký hoà ước chưa ráo mực đã dùng vũ lực xâm lăng.…Không thể giải quyết mâu thuẫn xã hội bằng cách thổi phồng mâu thuẫn, không thể đi tới hoà bình đại đồng qua ngả xương máu, khu rừng có cây cao cây thấp, không thể chặt hết cây cao cho bằng cây thấp rồi gọi đó là bình đẳng vô giai cấp được !

6. Chủ trương Duy Vật, lại dùng đấu tranh giai cấp để đi tới lý tưởng Cọng sản, vậy xã hội thực chất là một khát vọng hưởng thụ vật chất, đề cao vật tính, mà quên hẳn khía cạnh tinh thần hướng thượng (tôn giáo) rất quan trọng của con người.

7. Mác xít thật ra là một định mệnh thuyết ( intellectual determinism), xã hội tất yếu phải đi về xã hội CS, nhưng đã tất yếu theo biện chứng thì tại sao lại phải đấu tranh giai cấp để tạo nên lộ trình ấy ? Quan niệm biện chứng tất yếu làm Mác xít trở thành một loại tín ngưỡng mù quáng, mọi quan niệm khác đều bị loại bỏ vào thùng rác lịch sử ( dustbin of history-Trotsky), môn đệ Mác xít trở thành tín đồ duy Mác, họ tự nhận là khoa học xã hội ( scientific socialism), nghĩa là biện chứng khách quan lịch sử sẽ diễn tiến một chiều như họ mơ tưởng.

8. Nói Tư bản bóc lột lao động, nay đưa lao động lên để đàn áp tư sản, vậy khi lao động trở thành giầu có, nắm hết quyền và lợi, thì Lao động gọi là gì ? và nếu không có tư bản, không có tư sản, thì kinh tế sẽ ra sao, có phải là trao đổi nhau con số zero không ? Cho nên hệ quả là các nước theo CS Mác xít đều phá sản kinh tế và hứng chịu độc tài của một giai cấp lang băm bệnh hoạn mà lại muốn chữa bệnh xã hội, lợn què chữa lợn lành, vô học muốn cải tạo giáo dục, vô luật muốn làm ra luật mới, vô nhân muốn tạo nhân đạo mới.

9. Dù đạt bình đẳng kinh tế, chia đều miếng ăn, thì xã hội loài người, với bản chất tham-sân-si, có thể đi tới hoà bình an lạc không ? ba người ăn mày nghèo ngang nhau vẫn có thể đánh nhau, ba nhà giầu ngang nhau vẫn có thể xung đột tranh giành nhau..Cho nên mang mơ tưởng triết lý ra để xây dựng kinh tế, thì chỉ tạo ra bánh vẽ chứ không có bánh thật cho dân đen. Hệ quả là giai tầng nắm chân lý ở đầu nòng súng, trở thành chủ nhân ông cường hào ác bá, mà toàn dân đen trở thành nô lệ, nô lệ cả tâm lẫn vật ! Từ tháp ngà triết lý, mơ tưởng một xã hội CS hết giai cấp, hết mâu thuẫn ( conflict free society !), thực hiện bằng bạo lực trong một bức màn sắt, độc tài và nghèo đói.

10. Mác xít lại còn ngăn chặn tự do sáng tạo nghệ thuật, xem nghệ thuật như công cụ phục vụ đường lối cách mạng CS, văn học nghệ thuật phải phê phán phá đổ xã hội cũ để thực hiện cách mạng vô sản. Như vậy Mác đã không tôn trọng sáng tạo cá nhân và lấy xích buộc văn nghệ sĩ tự do.



Tóm lại: Mác xít là một quái thai tư tưởng, cực đại hoá Ác tính của con người để vẽ ra một xã hội bất công, bất nhân,bất tín, vô lễ, vô luân, vô học, vô đạo.

Lý Trần Quốc

Sunday, January 1, 2012

HOÀNG SA & TRƯỜNG SA


SLIDESHOW

HỒ SƠ
HOÀNG SA & TRƯỜNG SA

CHỦ QUYỀN DÂN TỘC
NGUYỄN VĂN CANH

CENTER FOR VIETNAM STUDIES
905 Stambaugh StRedwood City, CA 94,0632008

Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư
Tiệt Nhiên Định Phận Tại Thiên Thư
Như Hà Nghịch Lỗ Lai Xâm Phạm
Nhữ Đẳng Hành Khan Thủ Bại Hư

(Thơ thời nhà Lý chống quân Tống)

MỤC LỤC
hoangsa

  • Khẩu hiệu và biểu tượng Olympic Bắc Kinh 2008
  • Âm mưu bá quyền của Trung Cộng
  • Vài sự kiện đáng ghi nhận
Tuyên Cáo của Việt Nam Cộng Hòa xác nhận chủ quyền của Việt Nam ngay sau biến cố 1974
Chương I: Bản Đồ Chủ Quyền
(xin lưu ý: chương I này có nhiều hình và bản đồ nên tốc độ chuyển tải sẽ tùy thuộc khả năng của đường dây Internet.)
1. Bản đồ cổ do Việt Nam vẽ
2. Bản đồ cổ do ngoại quốc vẽ
3. Bản đồ cổ của Trung Hoa
4. Chú giải bản đồ
Chương II: Hình Ảnh Các Đảo Bị Trung Cộng Chiếm Đóng
1. Quần đảo Hoàng Sa
A. Tổng quát
B. Hình ảnh các căn cứ quân sự của Trung Cộng
C. Chú giải
2. Quần đảo Trường Sa
A. Tổng quát
B. Các đảo bị Trung Cộng chiếm
C. Hình ảnh các căn cứ quân sự của Trung Cộng
D. Chú giải
Phần II: Chủ Quyền Dân Tộc
1. Trên Đất Liền
2. Trong Vùng Vịnh
1. Hành vi chiếm đoạt chủ quyền của Trung Cộng
2. Luận cứ của Trung Cộng viện dẫn để đòi chủ quyền
A. Công hàm của Phạm văn Đồng
B. Tuyên bố của Ung văn Khiêm
C. Sách Giáo Khoa
D. Phân tích hành vi bán nước
1. Kháng chiến giành độc lập: một chiêu bài ngụy trang và âm mưu giúp Trung Cộng đồng hóa dân Việt
2. Các hành động biểu lộ sự nô lệ đối với Bắc triều
A. Đàn áp sinh viên biểu tình:
1. Biểu tình của sinh viên: một thách đố đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam
2. Lệnh ban hành từ Bắc Kinh
3. Cộng Sản Việt Nam thi hành lệnh của ngoại bang như thế nào?
a) Cơ quan chính quyền chính thức chỉ đạo
b) Huy động Đảng, Đoàn, cảnh sát, an ninh, quân đội để đàn áp
c) Tuyên dương những kẻ có công
4. Về kỹ thuật trấn áp:
a) Tổng quát
b) Thí dụ cụ thể
B. Thụ động, không dám bảo vệ dân trước sự giết chóc của quân xâm lược
C. Ngưng thực hiện các dự án đã công bố theo lệnh của Bắc Kinh
D. Chấp nhận hành vi xâm lăng của Trung Cộng là đồng lõa với tội phạm
E. Chấp nhận hành vi miệt thị công khai của quan thày
F. Cho dân Tàu vào sinh sống tự do, y như ở Bắc Kinh
1. Lời phát biểu của một blogger
2. Cảnh sát bảo vệ thanh niên Tàu trong kỳ rước đuốc
3. Thanh niên Tàu trương biểu ngữ đòi thống nhất đất nước
4. Dân Tàu tràn sang Sàigòn như đạo quân thứ 5
5. Người và cờ Trung Cộng tràn ngập Sàigòn
6. Du đãng Tàu giết người được cảnh sát che dấu
7. Trung Cộng đòi sửa sách giáo khoa, để cho dễ đồng hóa về sau
  1. Giai Đoạn Chống Pháp: Tìm Kiếm Sự Lãnh Đạo
  2. Giai Đoạn Từ 1990 Trở Về Sau: Đặt Sự “Thần Phục” Trung Cộng Trên Đất Việt
Phần III: Phụ chương và Phụ lục
I. Phụ Chương:
  1. Bản Lên Tiếng của Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ về công hàm của Phạm văn Đồng.
  2. Giải pháp cho công hàm của Phạm văn Đồng
  3. Việt Cộng giải thích vấn đề lãnh thỗ lãnh hải như thế nào?
II. Phụ Lục: Hiệp Ước Biên Giới, Hiệp Ước Phân Chia Vịnh Bắc Việt và Hiệp Ước Nghề Cá
Chính quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đàn áp sinh viên biểu tìnhchống ngoại bang xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa là chính quyền gì? Là đại diện cho nhân dân Việt Nam hay đại diện cho quân xâm lược?
-Có người như nhà báo blogger Măng và blogger HT gọi Đảng Cộng Sản Việt Nam là Thái Thú của Tàu đang cai trị Việt Nam, còn sinh viên Kim Duy có nói tới đồng hóa, ám chỉ biến dân Việt thành dân Tàu do Đảng CSVN đang thực hiện. Các ý tưởng này được chứng minh khắp nơi trong tập hồ sơ này và được nêu ra để mọi con dân Việt suy ngẫm.

New Year Poem 2012


Happy New Year Poem


For mercy great, unending still,
Which gave up to the grave
Thine only Son, the Sinless One,
Our sinful souls to save.

While entering on another year
Our cares on Thee we cast,
Beseeching aid in days to come
Which cheered us through the past.

That still the freedom may be ours
To kneel down in Thy sight,
And worship Thee at shut of day,
And in the morning light.

That from temptation's fatal paths
Thou turn our steps away;
And keep us from unholy thoughts
That lead the mind astray.

No more may lust of worldly wealth
Command thoughts that are thine;
Nor may we envy other's lot,
Or at our own repine.

Than all the riches earth can boast
Or gems beneath the sea,
We know the pious, humble heart,
More precious is to Thee.

How needful, then, to train our thoughts,
And fan the heavenly flame
Of faith, in the believing heart,
Triumphing o'er sin and shame

And holding by the Word, thou hast
For grace and guidance given,
Pass trough this world in holy fear,
True candidates for heaven.

By Charles Moir

Read More: New Year Poems 2012
@xitclub.com

SEAL TEAM 6


Ðô Ðốc William McRaven,
 người chỉ huy hạ sát Bin Laden 

Một ngày giữa Tháng Bảy năm 2001, chỉ gần hai tháng trước khi cả thế giới nghe nói đến tên Osama bin Laden, Hải Quân Ðại Tá McRaven, khi đó 45 tuổi, chỉ huy một toán Hải Kích (SEAL) nhảy dù thực tập gần San Diego.(Ðô Ðốc William McRaven, người chỉ huy vụ đột kích hạ sát trùm khủng bố Osama bin Laden. (Hình: Win McNamee/Getty Images))

Tai nạn

Các Hải Kích này rơi tự do từ phi cơ ở độ cao 10,000 feet (khoảng 3,048 m), chỉ mở dù khi gần đến đất để tránh khả năng bị phát giác khi thực sự nhảy vào vùng địch. Khi họ gần đến giai đoạn mở dù, một trong những quân nhân dưới quyền Ðại Tá McRaven dạt ngay vào phía dưới ông ta.

Ít giây sau, người này cho bung dù, đập mạnh vào McRaven với tốc độ hơn 100 miles/giờ (khoảng 160 km/giờ).

Ðại Tá McRaven kể cho tạp chí TIME hay: “Một phần dù quấn quanh một chân của tôi, một phần khác quấn chân bên kia, và khi dù mở, nó kéo tung người tôi ra.” Ông bị gãy lưng và xương chậu trong lần nhảy dù này.

Tám tuần sau đó, vụ tấn công của khủng bố “911” xảy ra. Ðại Tá McRaven và bốn toán Hải Kích dưới quyền ông đã khổ công luyện tập để có ngày đối phó với hoàn cảnh này, nhưng lúc đó ông chỉ có thể theo dõi tin tức từ giường bệnh. Liên Ðội 1 Hải Kích khởi sự cuộc săn lùng Osama bin Laden mà không có vị chỉ huy của họ; Ðại Tá McRaven thời gian ngắn sau đó từ chức chỉ huy.

Nhưng câu chuyện không chấm dứt nơi đây. Ðại Tá McRaven bình phục, quay trở lại phục vụ và từ từ lên đến cấp tướng. Bin Laden lẩn trốn và năm nay, một thập niên sau đó, định mạng đưa họ đối đầu nhau.

“Geronimo EKIA”

Vẫn theo bài báo của TIME, khi tình báo Mỹ có đủ tin tức để coi như phần nào chắc chắn về nơi con mồi của họ đang ẩn náu, ông McRaven, lúc này đã là tướng ba sao, đứng đầu Liên Bộ Chỉ Huy Hành Quân Ðặc Nhiệm (JSOC), cơ quan điều hành các đơn vị biệt kích của Mỹ. Và do đó, hôm 29 Tháng Giêng năm nay, Ðô Ðốc McRaven là người được lệnh khởi sự soạn thảo kế hoạch tấn công bắt giữ hoặc hạ sát bin Laden. Vào ngày 1 Tháng Năm, sau khi được Tổng Thống Obama ra lệnh thi hành, cũng chính Ðô Ðốc McRaven chỉ huy cuộc đột kích bằng trực thăng vào nơi ẩn náu của bin Laden ở Abbottabad, sâu trong nội địa Pakistan. Ðêm đó, đích thân McRaven, qua đường dây truyền hình từ Jalalabad, Afghanistan, tường thuật trực tiếp về Tòa Bạch Ốc diễn tiến từng phút của cuộc hành quân cho Tổng Thống Obama.

TIME viết rằng: “Giọng ông ta cũng giống như của nhà báo lừng danh Walter Cronkite, hoàn toàn bình tĩnh,” theo lời Michael Leiter, người lúc đó là giám đốc Trung Tâm Chống Khủng Bố của Mỹ.

Và khi chiếc trực thăng đi đầu bị rớt, khiến những người trong phòng thuyết trình hồi hộp cực điểm, Ðô Ðốc McRaven vẫn trầm tĩnh thông báo mọi sự xảy ra.

Vào phần cuối của cuộc tấn công, khi lính Hải Kích đi lùng từng phòng để kiếm bin Laden, Ðại Tá McRaven đột nhiên đứng dậy rời khỏi ghế của mình. Một sự im lặng nặng nề bao trùm căn phòng trong Tòa Bạch Ốc trong khi màn ảnh truyền hình vẫn chỉ thấy chiếc ghế trống của vị Ðô Ðốc. Nhưng rồi McRaven xuất hiện trở lại trên màn ảnh, ông loan báo: “Tôi muốn xác nhận rằng chúng ta đã có được báo cáo 'Geronimo EKIA' (kẻ địch bị hạ sát khi giao tranh - Enemy Killed in Action)”. Vẫn một giọng nói từ tốn!

Chiến lược gia

Cuộc đời binh nghiệp của Ðô Ðốc McRaven từng gặp trắc trở vì bản tính cương trực và nếu không vì khả năng cá nhân xuất sắc thì đã coi như tàn lụi từ lâu rồi.

TIME ghi nhận, năm 1982, Hải Quân Mỹ thành lập một đơn vị đặc nhiệm, chuyên chống khủng bố, có tên là Toán Phát Triển Chiến Tranh Ðặc Biệt Hải Quân (còn được biết dưới tên DevGru hay SEAL TEAM 6), dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Trung Tá Richard Marcinko, một sĩ quan nhiều mưu lược nhưng nóng nảy, ưa văng tục chửi thề, bản tính nghênh ngang và không chịu tuân theo các quy luật của quân đội. Trung Tá Marcinko có trách nhiệm thành lập đơn vị này và có quyền chọn những người ông coi là xuất sắc nhất, trong số này có Trung Úy McRaven.

Marcinko có công thành lập một đơn vị mới, có vai trò quan trọng, được coi là ưu tú nhất trong các đơn vị ưu tú để đáp ứng nhu cầu quốc phòng, nhưng lại gặp nhiều tai tiếng về đủ mọi mặt. Trung Úy McRaven được điều động về đơn vị mới, chỉ huy một trung đội trong đơn vị được coi là ước mơ của những người lính thích xông pha mạo hiểm.

Nhưng viên sĩ quan trẻ tuổi cấp thấp McRaven lại dám có thái độ cương trực bày tỏ sự không đồng ý về một số hành động của đơn vị trưởng mình. Và chỉ một năm sau, Marcinko đẩy ông ra khỏi đơn vị.

Ngày nay, McRaven gọi Marcinko là “người có sức thu hút” đáng được kể công là thành lập một đơn vị quan trọng ngay từ đầu. “Ông ta là sếp lớn, tôi chỉ là một trung úy trẻ. Có một số điều tôi nghĩ là không đúng trong lúc làm việc... và ông ta đẩy tôi ra.”

Nhiều sĩ quan trẻ trong Hải Quân Mỹ lúc đó ngưỡng mộ hành động can đảm của McRaven, nhưng phần lớn đều cho rằng đời binh nghiệp của ông coi như đã tàn.

Nhưng nhờ vào các báo cáo về khả năng xuất sắc trước đó, McRaven được chọn về chỉ huy một trung đội trong Liên Ðội Hải Kích Số 4. Từ đó, ông như diều gặp gió, tham gia nhiều chiến trận, lập nhiều chiến tích và thăng cấp nhanh chóng. Ða số các hoạt động nơi chiến trường của ông trước khi lên cấp tướng cho đến nay vẫn còn được giữ mật.

Không chỉ xuất sắc nơi chiến trường, McRaven cũng là một nhà tham mưu giỏi. Khi được đưa về học khóa tham mưu ở trường Naval Postgraduate School ở thành phố Monterey, tiểu bang California, ông viết một tiểu luận mang tên “Lý Thuyết Về Hành Quân Ðặc Biệt,” được Hải Quân Mỹ coi là “có ảnh hưởng không chỉ đến hành quân đặc biệt mà còn cho cả Bộ Quốc Phòng”.

Trong tiểu luận này, McRaven cho rằng chiến lược gia nổi tiếng lịch sử, Carl von Clausewitz, đã sai lầm. Ðô Ðốc McRaven chứng minh điều ngược lại, rằng một lực lượng nhỏ ở thế chủ động có thể đánh bại một lực lượng lớn phòng ngự kỹ càng.

Hồi Tháng Tư năm nay, một tháng trước khi có cuộc hành quân đột kích vào nơi ẩn náu của Osama bin Laden, Tổng Thống Obama đề cử Ðô Ðốc McRaven, và được Quốc Hội chấp thuận, cho ông thêm ngôi sao thứ tư, đồng thời bổ nhiệm ông vào chức vụ Tư Lệnh Bộ Chỉ Huy Hành Quân Ðặc Biệt Mỹ (US SOCOM) với tổng hành dinh đặt tại Tampa, Florida, có nhiệm vụ chỉ huy mọi đơn vị đặc biệt của Mỹ thuộc các quân binh chủng.

Nhiều người tin rằng đây sẽ không là nhiệm vụ chỉ huy sau cùng trong đời binh nghiệp của Ðô Ðốc McRaven.

Văn Giang

Year 2011


2011: Năm của quần chúng


Nếu đặc điểm đầu tiên của năm 2011 là tính chất cách mạng thì đặc điểm kế tiếp cần được nhấn mạnh: Tính chất quần chúng.

Có thể gọi năm 2011 là năm của quần chúng.

Không phải đến năm 2011 vai trò của quần chúng mới nổi bật và mới được ghi nhận. Không. Ngay từ đầu thế kỷ 20, với cuộc cách mạng gọi là vô sản do các đảng cộng sản lãnh đạo, người ta đã hết lời đề cao quần chúng. Ðề cao trên lý thuyết và cả trên thực tiễn(Dân chúng Ai Cập tiếp tục biểu tình tại Quảng Trường Tahrir ở thủ đô Cairo đòi nhà cầm quyền quân sự trao quyền cho chính phủ dân sự. (Hình: Filippo Monteforte/AFP/Getty Images). Trên thực tiễn, ở đâu cũng có hình ảnh công nhân và nông dân. Trên lý lịch, ở mục thành phần xuất thân, nếu có được những chữ như “công nhân” hay “nông dân”, nếu là “bần nông” hay “cố nông” nữa, thì coi như có được một điểm son hoàn hảo có thể dễ dàng được thăng tiến trong xã hội. Nghe nói ở Việt Bắc từ cuối thập niên 1940 và ở miền Bắc từ giữa thập niên 1950, nhiều trí thức rất hân hoan lấy vợ hay chồng là bần nông hay cố nông, bất chấp nhan sắc, học thức hay tính cách, để được chia sẻ chút lý lịch tốt. Trên lý thuyết, người ta lại càng đề cao quần chúng. Người ta xem quần chúng là chủ thể của lịch sử, là động lực của mọi sự tiến bộ, kể cả những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật. Người ta khuyên trí thức phải học hỏi quần chúng. Cái gọi là “đi thực tế” thực chất là một nỗ lực học tập quần chúng. Học cách sống. Cách làm việc. Cách suy nghĩ. Cách cảm xúc. Quá trình học tập ấy cũng là một quá trình tự cải tạo mình, tự lột xác mình. Ðể thành quần chúng.

Tuy nhiên, dù rất mực đề cao quần chúng, tất cả các phong trào cộng sản, ít nhất ở giai đoạn đầu, giai đoạn vận động cách mạng để giành và sau đó, thành lập chính quyền, đều nằm hết trong tay thành phần trí thức tiểu tư sản. Cứ nhìn vào giới lãnh đạo ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam thì thấy. Riêng ở Việt Nam, giới lãnh đạo từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp... đều là thành phần trí thức. Hiện nay, dù trên danh nghĩa, đảng Cộng sản vẫn giương cao chiêu bài công nhân và nông dân, nhưng giới lãnh đạo vẫn là tầng lớp quan liêu, vừa giàu có vừa muốn làm đại trí thức với đủ thứ bằng cấp, dù là bằng giả, bằng dỏm (mua ở các cơ sở chuyên sản xuất bằng giả) và bằng hoàn toàn không có chất lượng (từ các lớp chuyên tu hay tại chức).

Cho nên, cái gọi là tính quần chúng trong các cuộc cách mạng vô sản chỉ là một chiêu bài, một chiến lược chính trị hơn là sự thực.

Trong các cuộc cách mạng năm 2011 thì quần chúng đóng một vai trò quan trọng thực sự. Không ai xúi giục họ cả. Không ai lãnh đạo họ cả. Không ai vạch chiến lược, chiến thuật cho họ cả. Từ đầu đến cuối, chỉ có họ, những đám đông hoàn toàn vô danh.

Các cuộc cách mạng ở Trung Ðông và Bắc Phi có lẽ là những cuộc cách mạng duy nhất thành công mà không hề gắn liền với bất cứ một đảng phái hay một lãnh tụ nào. Xin lưu ý: Chúng ta không bàn đến thời “hậu-cách mạng”, khi các tên độc tài đã từ chức hoặc bỏ chạy. Chúng ta chỉ bàn đến giai đoạn cách mạng thực sự, tức từ lúc cuộc tranh đấu bắt đầu cho đến lúc bạo quyền sụp đổ: Ở giai đoạn này, ở cả Tunisia lẫn Ai Cập, đều không hề có bóng dáng một đảng phái nào. Một số đảng phái chính trị muốn rục rịch nhảy ra chia phần đều bị quần chúng gạt đi. Hơn nữa, một phần vì không muốn chính quyền tìm cớ để trấn áp, phần khác, cũng biết không nên trêu ngươi quần chúng, nên các đảng phái ấy chỉ hoạt động cầm chừng và khá kín đáo. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là họ không có ảnh hưởng gì đến các phong trào nổi dậy của quần chúng.

Không có đảng phái. Và cũng không có lãnh tụ. Ngay cả lãnh tụ nổi lên từ phong trào cũng không có. Mọi người xuống đường một cách tự phát và hoạt động của họ được điều hướng chủ yếu qua các mạng xã hội, từ facebook đến twitter hay tin nhắn trên điện thoại di động. Ðặc điểm lớn nhất của các cuộc mạng xã hội ấy là tính chất phi tâm. Mỗi người một ý, cuối cùng, người ta đồng thuận với nhau ở một điểm nào đó; và chính ở cái điểm đồng thuận ấy, người ta bắt tay vào hành động. Rất nhịp nhàng, dù không có ai là thủ lãnh.

Không có lãnh tụ. Và cũng không có lý thuyết gia. Trong khi thông thường, cuộc cách mạng nào cũng đi liền với một lý thuyết cách mạng; và đằng sau các lý thuyết ấy dĩ nhiên là có những con người được khen là uyên bác, có khả năng tổng hợp cao và nhạy bén phi thường. Cuộc cách mạng Pháp ở thế kỷ 18 gắn liền với bao nhiêu nhà tư tưởng cho đến bây giờ vẫn còn lừng lẫy. Cuộc cách mạng vô sản trong nửa đầu thế kỷ 20 cũng đẻ ra một số lý thuyết gia, từ Lênin đến Mao Trạch Ðông. Ngay trong cuộc cách mạng dân chủ làm tan rã chế độ cộng sản ở Ðông Âu cũng gắn liền với một tên tuổi có tầm lý thuyết lớn: Vaclav Havel, người đã tổng hợp được những lý tưởng của cách mạng và trở thành nguồn cảm hứng cho dân chúng các nước vừa thoát khỏi chế độ cộng sản.

Còn cuộc cách mạng ở các nước Ả Rập năm 2011? Không có ai cả. Từ phong trào, không nổi lên một lý thuyết gia nào. Tất cả các nhà tư tưởng lớn cũng như các nhà văn, nhà thơ lớn, những người có khả năng làm phát ngôn viên của phong trào đều im lặng. Cho đến nay, hầu hết những người lên tiếng về các cuộc cách mạng ấy đều là giới thanh niên, sinh viên và các blogger.

Tại sao?

Có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân đầu tiên là các diễn tiến của cuộc cách mạng xảy ra quá bất ngờ và quá nhanh chóng, vượt ra ngoài dự đoán của mọi trí thức, kể cả trí thức lớn. Bởi vậy, chứng kiến cảnh hàng mấy trăm ngàn người đổ xô xuống đường và cảnh bạo quyền chịu thua, họ sửng sốt, ngỡ ngàng và hoang mang cực độ. Trong lúc họ loay hoay nghĩ ngợi thì lịch sử cứ nhảy vọt từng bước dài, hết cái mới này đến cái mới khác. Một nguyên nhân khác là các cuộc cách mạng lần này nằm ngoài những khung diễn dịch cũ. Trước, với bất cứ biến cố chính trị nào, người ta cũng có thói quen nhìn ra bên ngoài: Không xuất phát từ Mỹ thì cũng từ Liên Xô, không gắn liền với chủ nghĩa tư bản thì cũng thoát thai từ chủ nghĩa xã hội. Bây giờ cái khung diễn dịch cũ ấy đã lỗi thời. Nhưng chưa ai tìm ra một khung lý thuyết nào mới để giải thích một kiểu cách mạng hoàn toàn mới như những gì đã diễn ra từ đầu năm 2011 cho đến nay.

Không gắn liền với đảng phái, không có lãnh tụ, không có lý thuyết và lý thuyết gia: Ðó là những đặc điểm nổi bật nhất của các cuộc cách mạng xảy ra trong năm 2011. Một số người gọi đó là cuộc cách mạng đầu tiên của kỷ nguyên hậu-ý thức hệ (post-ideological era) và cũng là cuộc cách mạng đầu tiên của thời đại Internet. Trung tâm của cuộc “cách mạng đầu tiên” này chính là quần chúng.

Không phải ngẫu nhiên mà báo Time ở Mỹ đã chọn nhân vật tiêu biểu nhất cho năm 2011 là người biểu tình (protester).

Báo Time dùng số ít cho cả hai: Person of the Year: The Protester. Nhưng thật ra, người mà họ vinh danh lại là những người biểu tình và phản đối nói chung. Chứ không phải một cá nhân nào cả. Nói cách khác, đó chính là quần chúng, những người dám nói thẳng, dám bày tỏ niềm tin và thái độ của mình, và không cúi đầu trước bạo lực. Chính những con người vô danh và dũng cảm ấy đã khiến cảnh sát và quân đội phải chùn tay, và cuối cùng, những tên độc tài đã chấp nhận thua cuộc.

Bởi vậy, không có gì quá đáng nếu chúng ta gọi 2011 là năm của quần chúng.

Nguyễn Hưng Quốc