Phật Giáo-Tôn giáo vĩ đại
của nhân loại.
I. Lời mở đầu
Đạo Phật là một tôn giáo
lớn của nhân loại; ảnh hưởng của đạo Phật đối với con người và xã hội, mang ý
nghĩa rất lớn trong quá trình tiến bộ của con người, và đã tạo nên nền văn hóa
nhân bản theo tinh thần của xã hội Á Đông hơn 2.000 năm qua. Đạo Phật đã và
đang chinh phục phương Tây một cách nhẹ nhàng đầy tính cảm hóa. Rhys Davids,
giáo sư sử học, phát biểu: "Là Phật tử hay không là Phật tử, tôi đã quan
sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra rằng không
một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt
của Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng
cuộc đời tôi theo con đường đó".
Không dừng ở đây, người phương Tây còn hy vọng
đạo Phật sẽ làm nền tảng cho tôn giáo của tương lai; nhân loại cần phải có một
tôn giáo đáp ứng được nhu cầu sống còn và sự phát triển phù hợp với điều kiện
mới của xã hội. Sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những
khủng hoảng xã hội, mất thăng bằng về sinh thái, về văn hóa, tâm lý, đạo đức...
Albert Einstein, nhà vật lý học, cho rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là
một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo
ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý
thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên, trong
cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện ấy".
Đạo Phật có gì đặc biệt mà
được sự thiện cảm và ca ngợi của con người thời đại? Có lẽ điều nổi bật là đạo
Phật là một tôn giáo không có Thượng đế, một nền giáo lý không có giáo điều.
Đức Phật, tiếng Phạn gọi
là Buddha, nghĩa là người Giác Ngộ, người Tỉnh thức, người đã tận diệt tham sân
si, đã đạt được giải thoát viên mãn. Đạo Phật là con đường do Đức Phật tuyên bố,
truyền đạt; con đường ấy đã được thực nghiệm, thực chứng. Vậy có thể nói rằng
đạo Phật là phương thức sống, lẽ sống, lối sống để có được hạnh phúc chân thật,
như Giám mục Milman nhận xét: "Tôi càng ngày càng cảm thấy Đức Thích Ca
Mâu Ni gần gũi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài; Ngài là đường lối,
là chân lý, là lẽ sống".
Tính cách của Đức Phật
được thể hiện qua các kinh điển còn lưu lại, cho thấy Ngài chỉ dạy những gì
Ngài đã thực nghiệm, cần thiết cho đời sống thoát khổ. Do vậy, nội dung của đạo
Phật không ở nghi lễ, triết học hay thần thoại, mà chính là ở trong lối sống,
cách ứng xử đối với bản thân, giữa con người với con người, giữa con người với
thiên nhiên vũ trụ.
II. Mục đích của đạo Phật
Người Phật tử quy y theo
Phật, thực tập hành trì tụng kinh, niệm Phật, nghiên cứu kinh điển, tọa thiền,
hành đạo... có mục đích rất rõ rệt. Kinh Trung A Hàm, Đức Phật dạy 3 mục đích
chính:
1. Muốn tự điều phục mình: Tự điều phục tất là
làm chủ được bản thân mình, là chế ngự được tham dục, sân hận, ác ý. Như vậy,
tự điều phục mình có nghĩa là đạt được sự tự do. Tự do là khát vọng muôn đời
của nhân loại, là nhu cầu thiết yếu sau nhu cầu ăn uống, nhưng bản chất của tự
do là gì thì không giống nhau. Con người càng tìm kiếm tự do ở bên ngoài thì
càng mất tự do, đến nỗi có người nói: "Con người chỉ có tự do lựa chọn sự
mất tự do". Khái niệm về mất tự do trong đạo Phật là sự bị trói buộc, bị
vướng mắc vào dục vọng, sân hận, hãm hại. Cho nên tự điều phục mình, chế ngự
bản năng dục vọng của mình, tự chiến thắng mình là sự tự vươn tới tự do.
Đức Phật dạy thêm rằng,
người Phật tử có khả năng tự điều phục mình thì dù mưu cầu lợi lộc, công danh,
sự nghiệp, xây dựng tình yêu... khi những cái ấy bị thất bại, bị thay đổi, bị
phản bội... người ấy vẫn an ổn, vững chãi, không bị ưu sầu phiền muộn, khóc
than, phát cuồng, tự tử... Đó là mục đích thứ nhất của đạo Phật.
2. Muốn đạt được sự thanh tịnh, an lạc: Sự an
lạc tùy thuộc vào tư duy, cảm xúc của con người. Nếu tâm tư của một người bị
chi phối, bị chế ngự bởi sự lo lắng, buồn rầu, sợ hãi thì họ không thể có an
lạc. An lạc và hạnh phúc đi đội với nhau; hạnh phúc có hay không tùy thuộc vào
thái độ tâm lý ổn định hay không. Một người mạnh khỏe và giàu có, nhưng trong
lòng sôi sục dục vọng hay hận thù thì người ấy không thể có sự an lạc và hạnh
phúc; một người đầy danh vọng và sự thành đạt mà trong lòng sự lo lắng bất an,
sợ hãi chế ngự thì không thể có hạnh phúc được.
Đức Phật dạy rằng, một
người đạt được sự thanh tịnh, an lạc là người khi có điều không vui đến, những
điều lo âu, sợ hãi đến thì không bị chúng làm chi phối, vướng bận; rằng một
người không bị chi phối, vướng bận với cái tư duy tham dục, sân hận và ác ý;
rằng một người đạt được các trạng thái thanh tịnh như sơ thiền cho đến tứ
thiền, như theo lời kinh Pháp Cú dạy: "Không có hạnh phúc nào lớn bằng sự
yên tĩnh của tâm trí". Đây là mục tiêu thứ hai của đạo Phật.
3. Muốn đạt được giải thoát - Niết bàn: Đây là
mục đích tối hậu của mọi người Phật tử: chấm dứt mọi đau khổ, thoát ly sanh tử,
luân hồi, thành tựu trí tuệ viên mãn. Nỗi khổ thật sự và lâu dài chính là vô
minh; niềm hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu là sự chấm dứt vô minh, đó là đáo bỉ
ngạn, là "vô minh diệt minh sanh".
Mục đích đó có thể chia
làm 2 phần: mục đích gần và mục đích xa. Gần là sư vươn tới đời sống tự do và
hạnh phúc, xa là đạt đến an lạc vĩnh cửu Niết bàn. Giáo pháp của Phật giúp con
người kềm chế, làm chủ bản thân. Đây là bước đầu, là nền tảng của mọi đức hạnh,
mọi tiến bộ, từ đó thực hiện sự thanh tịnh và an lạc của tâm linh, chuyển hóa
toàn bộ đời sống đã từng mang bất an ổn và hạnh phúc. Nói mục đích gần và xa là
để dễ hiểu, thực ra cả hai là một. Thực hiện được tự do tự chủ là đưa đến an
lạc, hạnh phúc. Có được an lạc, hạnh phúc dẫn đến giải thoát Niết bàn. Niết bàn
được thực hiện ngay cõi đời này.
III. Những đặc tính tiêu biểu của đạo Phật:
1. Tự do tư tưởng: Đạo
Phật không có hệ thống tín điều, không lấy tín điều làm căn bản như hầu hết các
tôn giáo. Đức tin của đạo Phật luôn đi đôi với cái "thấy", một trong
những định nghĩa về giáo pháp là "đến để mà thấy", chứ không phải
"đến để mà tin". Vì vậy, chánh kiến luôn đứng đầu trong các đức tính.
Lời Phật dạy cho dân
Kàlama được các nhà học giả phương Tây coi là bản tuyên ngôn về tự do tư tưởng
của nhân loại: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay
bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển,
hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi vì
thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều dường như có thể xảy ra, hay
bởi ý nghĩ đây là bậc Đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kàlama, khi nào các
ông biết chắc rằng những điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và theo
chúng" (Tăng Chi I).
Bác bỏ các tín điều và đức
tin mù quáng, khuyến khích tự do phân tích, khảo sát, đó là một đặc điểm của
Phật giáo.
2. Tinh thần tự lực: Đấng Thượng đế hoặc tạo
hóa hay các thần linh được con người tin tưởng thở phụng, vì các đấng ấy có thể
ban phúc hay giáng họa.. Ấy là quan điểm của tâm lý sợ hãi, yếu đuối, mất tự
tín đã sản sinh ra thần thánh (hoặc đa thần hoặc nhất thần).
Đạo Phật với chủ trương
luật nhân quả, nghiệp báo đã nói lên tinh thần trách nhiệm cá nhân và cộng đồng
trước sự đau khổ và hạnh phúc của chính mình.. Đức Phật dạy: "Chính ta là
kẻ thừa kế của hành động của ta, là người mang theo với mình hành động của
mình" (Tạp A Hàm, 135).
Đức Phật không phải là
đấng thần linh ban cho ta sự thay đổi hoàn cảnh hay tình trạng khốn đốn của
mình. Đức Phật tuyên bố: "Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải
tự đi đến, không ai đi thế cho ai được". Công trình khơi mở kho tàng tri
kiến Phật là công trình của mỗi cá nhân. Con đường tự lực ấy được Đức Phật dạy
như sau: "Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính mình,
thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên vơ1i một pháp nào khác. Hãy tự mình làm
chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một
pháp nào khác" (Trường A Hàm I).
Tinh thần tự lực mang tính
triệt để nhân bản này là một đặc tính của đạo Phật.
3. Tinh thần từ, bi, hỷ, xả: Chúng sanh còn
khổ thì đạo Phật còn vai trò và vị trí ở cuộc đời; đạo Phật thường được gọi là
đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có đạo Phật, ở đó có tình thương, ở đó hận thù
được hóa giải. Bởi lẽ phương châm tu tập của Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả, còn
gọi là Tứ vô lượng tâm. Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự
phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật.
Trong quá trình truyền
giáo, đạo Phật chưa bao giờ gây chiến tranh hay đổ máu, thông điệp tình thương
cứu khổ, giúp đời đã được Đức Phật tuyên thuyết ngay từ thời kỳ sơ khai thành
lập Giáo đoàn: "Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
và loài người".
Tâm từ là khả năng hiến
tặng niềm vui cho tha nhân. Tâm bi là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt.
Tâm hỷ là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm xả là thư thái nhẹ
nhàng, tự do, không kỳ thị. Đức Phật dạy người Phật tử tu tập Tứ vô lượng tâm:
"Vị ấy tâm an trú biến mãn một phương cho đến mười phương với tâm từ, bi,
hỷ, xả quảng đại vô biên, không hận, không sân... đối với mọi hình thức của sự
sống, không bỏ qua và bỏ sót một ai mà không biến mãn với tâm giải thoát cùng
với từ, bi, hỷ, xả (Trường Bộ I)". Thương yêu đồng loại và vạn loại chúng
sanh là chất liệu sống của đạo Phật.
4. Tinh thần thực tiễn: Một trong những định
nghĩa về pháp là "thiết thực hiện tại", nghĩa là giáo lý đạo Phật là
thiết thực, không mơ hồ, mang tính thực tiễn, có tác dụng cụ thể, không phải lý
thuyết suông. "Hiện tại" có nghĩa là không chờ đợi kết quả của tương
lai, có tu tập là có hướng thượng, có giải thoát ngay hiện tại, đời này. Vì
vậy, giáo lý đạo Phật là giáo lý thực nghiệm, không chờ đợi một ân sủng hay một
mặc khải nào. Đức Phật thường từ chối trả lời những câu hỏi về những vấn đề
siêu hình. Ngài chỉ dạy những gì cần thiết cho cuộc đời, cho con đường thoát
khổ. Có lần ở Kosambi, Đức Phật dạy: "Những gì Như Lai biết ví như lá
trong rừng, còn những gì Như Lai giảng dạy như nắm là ở trong tay, nhưng đây là
những phương pháp diệt khổ" (Tương Ưng V).
Đạo Phật cho rằng phần lớn
những nỗi khổ của con người do họ không sống thật với hiện tại, họ thường nuối
tiếc quá khứ, mơ tưởng tương lai; do đó, ý nghĩa của cuộc đời bị đánh mất:
"Do mong việc sắp tới Do than việc đã qua
Nên kẻ nghi héo mòn Như lau xanh lìa cành" (Tương Ưng I)
Hoặc:
"Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai Quá khứ đã không còn Tương lai thì chưa tới Hãy quán
chiếu sự sống Trong giờ phút hiện tại..." (Kinh Trung Bộ)
Tính thực tiễn, thiết thực
hiện tại là một đặc tính của đạo Phật.
5. Tinh thần không chấp
thủ: Đạo Phật là giải thoát và tự do; vướng mắc vào bất cứ điều gì cũng đều đưa
đến đau khổ. Đức Phật dạy: "Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ
(vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn
không hợp lý". Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu vào cuộc
đời.
Nhờ tinh thần không chấp
thủ nên thái độ củ đạo Phật rộng rãi, bao dung, tinh thần tu tập của người Phật
tử rất thoáng. Kinh Ví dụ con rắn (Trung Bộ), Đức Phật ví dụ giáo pháp như
chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ; chánh pháp như chiếc bè, chánh
pháp cũng phải xả huống là phi pháp. Tương tự, kinh Kim Cang cũng nói:
"Giáo lý như phiệt dụ giả chánh pháp thương ưng xả hà huống phi
pháp", hoặc nói: "Cái gọi là Phật pháp tức chẳng phải là Phật pháp
nên gọi là Phật pháp".
Tinh thần không chấp thủ
là nội dung trí tuệ của đạo Phật; tác dụng của tinh thần ấy ngoài, sự đem đến
giải thoát, còn đem đến sự giải tỏa tất cả mọi áp lực, ức chế của đời sống lên
trên tâm lý của con người. Đây là một đặc tính của Phật.
IV. Kết luận
Sự có mặt của đạo Phật đã
đem lại nguồn khí mới cho xã hội Ấn Độ thời ấy, đã mở ra một lối thoát cho con
người trước những bế tắc, những khủng hoảng về xã hội, về tư tưởng triết học và
đạo học. Lời tán dương Đức Phật của người đương thời còn ghi chép lại đã chứng
minh diều đó: "Thưa Ngài Cồ Đàm, thật vi diệu, như người dựng đứng lại
những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho ai có mặt có thể
thấy" (Nikàya).
Trải qua hơn 2.500 năm,
đạo Phật đã được thử thách, cọ xát với thời gian và không gian; giá trị, tác
dụng của đạo Phật vẫn như xưa. Ngày nay, trước tiến bộ văn minh vật chất quá độ
đã xô đẩy con người vào trong hố thẳm của tham vọng, hận thù. Chiến tranh vẫn
diễn ra khốc liệt trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai vẫn đe dọa đời
sống của nhân loại. Càng văn minh, con người càng có nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi
mới: nạn nhân mãn, ô nhiễm mo6i trường, hủy diệt sinh thái, áp lực kinh tế xã
hội đè nặng lên trên tâm trí của con người tạo nên ức chế tâm lý. băng hoại về
đạo đức làm mất thăng bằng giữa đạo đức và hưởng thụ. Đạo Phật với con đường
thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ,
hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
Tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ, có khả năng thực hiện niềm hạnh phúc chân
thật trên cõi đời này. Đó là lời dạy của Đức Phật.
Thích Viên Giác
Nguồn internet