2012:
Bàn cờ chính trị thế giới mới
Năm 2012 này sẽ đánh dấu nhiều sự thay đổi quan trọng trên thế giới, trong đó, quan trọng nhất là sự thay đổi của bàn cờ chính trị toàn cầu.
Trước,từ đầu thế kỷ 20, và đặc biệt, từ 1945, suốt thời chiến tranh lạnh (1945-1990),
trung tâm của bàn cờ chính trị thế giới là châu Âu. Lúc ấy, mâu thuẫn chính trị
chính của thế giới là mâu thuẫn giữa khối tư bản chủ nghĩa, đứng đầu là Mỹ, và
khối xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô. Tuy có lúc, điểm nóng của cuộc
chiến tranh lạnh ấy là Việt Nam, nhưng sân khấu chính trị vẫn thuộc về Mỹ và Âu
châu. Giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh lạnh, qua Kế hoạch Marshall, chính phủ
Mỹ đã đổ ra 18 tỉ đô-la để giúp 16 quốc gia Âu châu phát triển cơ sở kinh tế,
xã hội và kỹ thuật để có thể đương đầu với Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Từ
đó, quan hệ với châu Âu trở thành cột xương sống trong mọi chính sách đối ngoại
của Mỹ. Tất cả những đồng minh chiến lược quan trọng nhất của họ đều ở châu Âu.
Lực lượng quân sự quan trọng nhất của họ nằm ở châu Âu. Kho vũ khí nguyên tử
lớn nhất ở ngoài Mỹ cũng nằm ở châu Âu. Người ta đo lường thời tiết chính trị
thế giới qua từng cơn ho và từng cơn sổ mũi ở châu Âu. Chứ không phải ở Việt
Nam, nơi có lúc có đến nửa triệu quân lính Mỹ và đồng minh tham chiến.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, khối xã hội chủ nghĩa sụp đổ, thế giới lại đối diện với một nguy cơ mới: nguy cơ khủng bố toàn cầu, chủ yếu xuất phát từ các lực lượng Hồi giáo cực đoan ở Trung Đông. Thế là Trung Đông biến thành trung tâm của bàn cờ chính trị thế giới. Mỹ đổ quân vào đánh Afghanistan và Iraq, mở đầu cho hai cuộc chiến tranh dài đằng đẵng kể từ sau chiến tranh Việt Nam. Quan hệ giữa Israel và một số quốc gia láng giềng có lúc sôi lên sùng sục. Súng ống đạn dược được đổ vào Trung Đông. Tiền bạc cũng đổ vào Trung Đông. Mọi con mắt đều tập trung vào Trung Đông. Mỹ không còn khả năng để giải quyết bất cứ một mâu thuẫn nào khác ngoài hai cuộc chiến họ đang tiến hành.
Cuối
cùng, năm 2011, chiến tranh ở Iraq kết thúc. Chưa ai biết sau này số phận của
Iraq sẽ ra sao, nhưng, về phía Mỹ, ít nhất cuộc chiến tranh kéo suốt tám năm
của họ đã khép lại. Saddam Hussein bị bắt và bị treo cổ. Iraq có chính phủ mới
và có vẻ như có thể tự đứng vững được. Trong khi đó, chiến tranh ở Afghanistan
vẫn tiếp tục. Nhưng Mỹ cũng đang cố gắng giảm dần các gánh nặng của họ. Đó là
chưa kể sau cái chết của Osama bin Laden (ngày 2 tháng 5 năm 2011), Mỹ có thể
có lý do để rút dần ra khỏi một cuộc chiến mà càng ngày chiến thắng càng trở
nên mù mịt.
Thoát
ra khỏi hai cuộc chiến tranh ở Trung Đông, Mỹ bắt đầu trở về thực tế với những
mâu thuẫn mới nảy sinh từ sự xuất hiện của một siêu cường mới: Trung Quốc. Liên
tục trong nhiều tháng cuối năm 2011, giới lãnh đạo Mỹ, từ Tổng thống đến Bộ
trưởng Ngoại giao đều tuyên bố: Mỹ sẽ trở lại châu Á. Và sẽ ở lại châu Á.
Châu Á, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới thời hiện đại, trở thành trung tâm của bàn cờ chính trị. Thế cờ này đã manh nha từ cuối 2011 và chắc chắn sẽ là hiện thực vào năm 2012.
Đó
là điều không thể tránh được. Trước hết là về phương diện kinh tế. Trong khi
kinh tế Mỹ vẫn ngổn ngang đầy những khó khăn, kinh tế châu Âu ngập chìm trong
khủng hoảng không biết lúc nào mới thoát, kinh tế của phần lớn các nước Á châu
vẫn tiếp tục phát triển, trung bình hơn 5% trong suốt ba mươi năm qua. Dự đoán
của Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) vào tháng 9 năm 2011 cho biết đà phát
triển ở Á châu, không kể Nhật Bản, trong năm nay sẽ vào khoảng 7.5%. Theo cái
đà này, vào năm 2050, tức chưa tới 40 năm nữa, tổng sản phẩm nội địa (GDP) ở châu Á sẽ tăng từ 30 ngàn tỉ đô-la hiện nay
lên đến khoảng 230 ngàn tỉ đô-la ($234
trillion), chiếm hơn một nửa tổng thu nhập nội địa trên toàn thế giới.
Gắn
liền với kinh tế là con người. Cũng theo dự đoán, năm 2050 trên thế giới sẽ có
khoảng 8 tỉ người, trong đó có 5 tỉ sống ở châu Á.
Không
có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều học giả gọi thế kỷ 21 là “thế kỷ Á châu”. Cách
đây hơn 10 năm, vào buổi rạng đông của thế kỷ 21, nói thế, nhiều người còn thấy
nghi hoặc. Bây giờ thì chuyện đã thành hiển nhiên. Không thể nào khác được.
Ở
châu Á, phát triển với tốc độ nhanh nhất là Trung Quốc. Không những nhanh mà
còn khá liên tục. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, từ kinh tế Á châu đến kinh tế
toàn cầu hầu như không ảnh hưởng gì mấy đến sự phát triển của Trung Quốc. Nhiều
người đã nói đến những nguy cơ rình rập bên trong nền kinh tế Trung Quốc, từ
việc xây dựng, nhất là nhà cửa quá nhiều và quá nhanh, đến việc duy trì trị giá
đồng nguyên quá thấp, khoảng cách chênh lệch càng lúc càng lớn giữa người giàu
và người nghèo cũng như giữa thành thị và nông thôn, nạn tham nhũng cũng như bộ
máy hành chính quan liêu, v.v… sẽ dẫn Trung Quốc đến khủng hoảng. Tuy nhiên, đó
chỉ là những sự tiên đoán. Lịch sử không phải lúc nào cũng đi đúng quy luật.
Nếu
đà phát triển này cứ tiếp tục thì không bao lâu nữa kinh tế Trung Quốc sẽ vượt
Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Cách
đây vài ba chục năm, một số người cũng đã tiên đoán kinh tế Nhật sẽ qua mặt Mỹ.
Cuối cùng, điều đó không thành sự thật. Tuy nhiên, điều tôi muốn nhấn mạnh là:
ở thời điểm ấy, không mấy người xem sự phát triển của Nhật là một đe dọa lớn.
Lý do: Nhật, dù sao cũng là một đồng minh thân cận của Mỹ và Tây phương. Kể từ
sau đệ nhị thế chiến, Nhật hầu như từ bỏ hẳn mọi tham vọng chính trị trên sân
khấu thế giới. Không có quốc gia nào, kể cả những nước vốn là nạn nhân của Nhật
trong thập niên 1940, lo ngại về sự bành trướng của Nhật.
Bây
giờ, với Trung Quốc thì khác.
Khác
về ý thức hệ. Khác về thể chế chính trị. Và đặc biệt, khác về tham vọng. Trước,
Nhật Bản chỉ muốn cạnh tranh với Mỹ về kinh tế; còn về quân sự và chính trị thì
vẫn tiếp tục nằm trong quỹ đạo của Mỹ. Bây giờ Trung Quốc không hề giấu giếm
tham vọng cạnh tranh với Mỹ về mọi phương diện. Mà không những với Mỹ. Với các
nước láng giềng ở châu Á, Trung Quốc cũng sẵn sàng giơ nanh vuốt ra đe dọa.
Trong cuộc hội nghị của East Asian Cooperation ở Bali cách đây mấy tháng, 15
trong tổng số 18 nước hội viên thẳng thắn tuyên bố là họ lo lắng trước cách
hành xử của Trung Quốc ở Nam Hải.
Các nước Đông Á lo lắng. Mỹ cũng không thể không
lo lắng.
Phản ứng trước sự lo lắng ấy là một thế trận mới
bắt đầu được manh nha từ năm 2011 và sẽ triển khai dần dần trong năm 2012 này
với sự hình thành của các khối liên minh mới.
Thứ nhất là liên minh giữa Mỹ, Úc và Ấn Độ với
việc chính phủ Úc đồng ý cho lính Mỹ đến tập trận và đồn trú trên lãnh thổ Úc
cùng lúc với việc bãi bỏ lên cấm xuất cảng uranium sang Ấn Độ vốn có hiệu lực
từ lúc Ấn Độ, bất chấp lệnh cấm của Liên Hiệp Quốc, bắt đầu phát triển vũ khí
hạt nhân.
Thứ hai là liên minh quân sự giữa Mỹ, Ấn Độ và
Nhật Bản. Trước, quan hệ giữa Nhật và Ấn Độ khá lạnh lẽo. Bây giờ, hai nước đã
bắt đầu bàn đến việc hợp tác về an ninh trên biển, hơn nữa, còn dự định tập
trận chung lần đầu tiên vào năm 2012. Ngoài ra, hai nước cũng sẽ tổ chức các
cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng (Japan-India Defense Policy Dialogue)
trong năm nay.
Tất cả những liên minh chiến lược mới ấy đều nhắm
vào một mục tiêu chính: Trung Quốc.
Với tư cách là người Việt Nam, điều đáng cho
chúng ta lo nghĩ nhất là điểm này: Khi châu Á biến thành trung tâm của bàn cờ
chính trị mới, không chừng một lúc nào đó, Việt Nam sẽ trở thành một điểm nóng
trên bàn cờ ấy. Nơi bùng nổ của các mâu thuẫn chết người trên thế giới.
Như những gì đã xảy ra trong thời chiến tranh
lạnh.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
@VOA