Saturday, June 21, 2014

Song Chi.

Lần thức tỉnh sau cùng?

Sau ngày 30 tháng Tư, 1975, người dân miền Bắc nói chung và những đảng viên cộng sản nói riêng lần đầu tiên bước chân vào Sài Gòn và miền Nam, mới vỡ ra một sự thật, đó là cuộc sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam khá hơn chế độ XHCN ở miền Bắc về rất nhiều mặt.

Kinh tế là cái đập vào mắt mọi người ngay lập tức và dễ nhìn ra nhất khi so sánh từ bộ mặt các đô thị cho tới nông thôn hai miền, thu nhập, mức sống của người dân, số lượng, chất lượng, sự phong phú của các chủng loại sản phẩm, hàng hóa trong đời sống hàng ngày, rồi tổng sản lượng quốc gia, vị trí nền kinh tế của mỗi miền so với các nước trong khu vực…
Đến chất lượng của nền giáo dục, y tế, thành tựu về văn hóa nghệ thuật xét trên tiêu chí tự do sáng tác, sự đa dạng, phong phú trong các tác phẩm. Quan trọng hơn là một môi trường sống tự do dân chủ được thể hiện từ tự do báo chí, lập hội, lập đảng, biểu tình phản đối Mỹ và chính quyền Sài Gòn, tự do tiếp nhận thông tin …

Trí thức miền Bắc nhận ra sự khác biệt này khi tiếp xúc với kho báo chí, sách vở, tư liệu, dịch thuật mênh mông đa chiều của chế độ miền Nam. Trong lúc miền Bắc chỉ được đọc/nghe/xem báo chí quốc doanh của nhà nước, tư liệu dịch thuật thì chỉ từ Liên Xô và các nước XHCN anh em, ai lén lút nghe đài BBC có thể bị tù ngay thì ở miền Nam báo đài, sách vở các nước từ nhiều nguồn khác nhau, kể cả tư tưởng của Mác của Mao…được in ấn, lưu hành rộng rãi.

Phóng viên nước ngoài được tự do sục sạo khắp nơi, tác nghiệp đưa tin và phải nói thật, chính sự tự do này cũng là con dao hai lưỡi đối với chế độ VNCH trong khi phải đương đầu với cái loa tuyên truyền một chiều phát hết cỡ của truyền thông báo chí cộng sản. Nhưng tự do dân chủ thì phải như vậy.

Trước đó, người dân miền Bắc luôn được nghe đảng và nhà nước tuyên truyền rằng cuộc sống của đồng bào miền Nam vô cùng khốn khổ vì bị Mỹ ngụy kìm kẹp, đồng bào miền Nam đang rên siết dưới gót giày ngoại xâm, phải hy sinh tất cả để giải phóng miền Nam…

Trước thực tế rành rành sau đất nước thống nhất, những “cái loa” của đảng lại tìm cách ngụy biện rằng đó chỉ là phồn vinh giả tạo, miền Nam giàu là do Mỹ viện trợ, chứ còn đời sống xã hội thì thối nát, toàn đĩ điếm, xì ke, tham nhũng…

Mặc dù vậy, trong lòng nhiều người, chắc chắn niềm tin vào đảng, vào nhà nước cộng sản đã giảm sút khá nhiều, thậm chí có những người thực sự thức tỉnh vì nhận ra mình, cha ông mình đã bị lừa.

Theo thời gian, những giá trị của VNCH đã từ từ, lặng lẽ hoặc công khai được phục hồi. Từ việc chuyển đổi mô hình từ kinh tế quốc doanh, tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường dù vẫn còn cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”, bỏ ngăn sông cấm chợ, bỏ các mô hình làm chủ tập thể như hợp tác xã, nông trường…trở lại với tư nhân, tư hữu.

Từ việc một số lượng không nhỏ sách của miền Nam trước năm 1975 được cho in ấn, tái xuất bản, một số lượng lớn các ca khúc của miền Nam được phổ biến, trình diễn công khai (cần phải nói thêm rằng âm nhạc miền Nam chưa bao giờ hoàn toàn chết trong suốt 40 năm qua, ngay cả trong thời kỳ đầu khi bị lên án là đồi trụy, phản động…thì người dân vẫn lén lút nghe).

Trong đời sống hàng ngày nhiều thứ cũng dần dần xuất hiện trở lại. Chẳng hạn, việc cho phép cô giáo tiểu học, trung học rồi đến nữ sinh trung học lại được mặc áo dài, trang phục công sở nam mặc veston thắt cravate đi giày, nữ ăn mặc đẹp, lịch sự thay vì cung cách xuề xòa một thời được đề cao.

Trong các cơ quan công sở hành chính thay vì gọi “sếp”, gọi cấp trên là anh Hai, Chị Ba, chú Tư…thân mật theo kiểu gia đình đã trở lại thành ông/bà lịch sự.

Những từ ngữ trong giao dịch công sở, giấy tờ hành chính, trong giáo dục, bằng cấp, đời sống…một thời cứ Việt hóa một cách thô thiển như “xưởng đẻ”, chiến sĩ gái, bài nói (diễn văn), các bạn nghe đài (quý thính giả), hát đôi (song ca), hát tốp hoặc tốp ca (hợp ca)…từ từ “đổi mới thành cũ”, kể cả CMND cũng trở lại là thẻ căn cước…

Nhưng cái án nặng nề nhất mà chế độ VNCH bị đảng và nhà nước cộng sản “đóng đinh” bao năm là một chế độ ngụy quyền, tay sai bán nước, đã hằn thành nếp nghĩ trong đầu óc bao thế hệ người Việt sinh ra và lớn lên ở miền Bắc trước đây cũng như người dân cả nước thời hậu chiến.

Đối với những người dân lặng lẽ tìm cách mở mắt cho mình qua báo chí tư liệu “lề trái” trong và ngoài nước, từ lâu đã nhận ra nhiều sự thật phía sau “hào quang” chiến thắng và tính chính danh, chính nghĩa của đảng cộng sản trong cả hai cuộc chiến tranh với Pháp, Mỹ, sự thật về mối quan hệ Việt-Trung trong suốt bao nhiêu năm…

Thật ra, thông qua đường lối chính trị ngoại giao cho tới cách hành xử của phần lớn các thế hệ lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản, người dân VN cũng như thế giới không khó khăn gì để nhận ra đảng cộng sản hèn hạ, bạc nhược trước Trung Cộng như thế nào, thật sự là một cái đảng bán nước ra sao. Nhưng muốn thuyết phục tất cả những ai còn mơ hồ, hoặc vẫn còn chút niềm tin vào nhà cầm quyền VN thì phải có bằng chứng giấy trắng mực đen.

Và dần dần những bằng chứng đó đã bị lộ ra, từ chính “bạn vàng” Trung Quốc. Từ công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, bản đồ, sách giáo khoa do nước VNDCCH phát hành công nhận Trường Sa-Hoàng Sa là của Trung Quốc… được chính Trung Cộng đính kèm làm bằng khi kiện VN ra trước Liên Hiệp Quốc ngày 9 tháng Sáu vừa qua.

Nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ. Đừng quên trong suốt bao nhiêu năm qua, giữa hai đảng, hai nhà nước Việt-Trung đã có bao nhiêu bản ký kết, hiệp ước trong bí mật, rồi nào Hiệp định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam-Trung Quốc 1999, Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ tháng 12 năm 2000, Hội nghị Thành Đô 1990…

Không ai biết được hai bên đã ký kết thỏa thuận những gì, chỉ biết Ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc, hàng trăm kilomet vuông dọc biên giới phía Bắc, hàng ngàn hải lý vuông lãnh hải thuộc vịnh Bắc Bộ…trở thành của Trung Cộng, do chính đảng và nhà nước cộng sản VN tự tay dâng cho giặc. Chưa kể một phần Trường Sa và nhiều địa điểm bị Trung Cộng cưỡng chiếm qua các cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, trận Gạc Ma 1988…

Và bây giờ, điều chua chát là nhà cầm quyền VN phải viện dẫn đến thực tế Hoàng Sa lúc bấy giờ đang thuộc quyền quản lý của chính quyền VNCH, bị Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm từ năm 1974, để “chạy tội” cho công hàm 1958, hay những “Tấm bia chủ quyền thời VNCH trở thành di tích quốc gia” (Báo Thanh Niên)…
Và bây giờ, trước lòng tham vô đáy, sự hung hăng ngang ngược của Trung Cộng, nhiều nước ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á đều mong muốn được là đồng minh của Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc, kể cả VN, vẫn luôn tự hào đã đánh đuổi “đế quốc Mỹ xâm lược”.

Ai sai lầm, ai bán nước, câu trả lời đã quá rõ ràng. Chưa kể, nếu nói là một chế độ tay sai, đánh thuê, thì chính đảng cộng sản VN còn tự hào thừa nhận “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”, chính đảng cộng sản cũng phải dựa vào lương thực, quân tranh quân dụng, tiền bạc, vũ khí, đạn dược, cố vấn, kể cả con người…của các nước XHCN anh em để có thể đánh Mỹ và VNCH.

Như thế là sau 39 năm, cái tiếng oan trong lịch sử “một chế độ tay sai, đánh thuê, bán nước” của chế độ VNCH đã được gột rửa, đối với những ai hiểu biết.

39 năm lâu hay là mau? Có thể gọi là mau nếu so với quãng đường lịch sử dài mấy ngàn năm của một quốc gia, nhưng riêng trong hoàn cảnh ngặt nghèo của VN, khi cơn ác mộng mất nước, bị lệ thuộc lâu dài vào Trung Cộng đang lơ lửng trước mắt và thời gian còn lại quá ít, thì mọi sự thật được bạch hóa đều trở nên quá chậm.

Dù sao, đối với tất cả những ai thức tỉnh trước sự thật về đảng cộng sản VN lần này, có lẽ sẽ là sự thức tỉnh sau cùng, và không bao giờ còn chút mơ hồ, lầm lẫn nào nữa. Bởi với một dân tộc có một lịch sử cay đắng “1000 năm nô lệ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…” (ca khúc “Gia tài của Mẹ”, Trịnh Công Sơn), tội bán nước luôn luôn là tội lớn nhất, không thể tha thứ.

Với cái tội bán nước có bằng chứng, có quá trình, tiếp tục một cách lâu dài và đem lại quá nhiều hệ lụy cho đất nước, dân tộc, đảng và nhà nước cộng sản còn lý do nào để có thể tiếp tục độc quyền lãnh đạo đất nước?

Song Chi

Friday, June 20, 2014

Nguyễn Mạnh Côn

Tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn
Tiễn đưa một thế hệ

Một người bạn cho biết mới đọc lại một cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng của Nguyễn Mạnh Côn và vẫn thấy mê câu chuyện của nhà văn đa tài này. Trong tác phẩm của ông, dù thuộc thể loại nào cũng chứa đựng những thao thức về triết lý. Ông Nguyễn Mạnh Côn thuộc thế hệ những thanh niên Việt Nam đầu thập niên 1940, muốn giải phóng quê hương nhưng cũng muốn tham dự vào lịch sử một cách có ý thức. Họ không những tìm đường đòi độc lập dân tộc mà còn đi tìm con đường nào "đúng nhất" để xây dựng đất nước. Có những người thuộc thế hệ ông đã chọn con đường của chủ nghĩa Mác, nhưng tâm hồn Nguyễn Mạnh Côn có đủ mẫn cảm và tinh tế để tránh xa chủ nghĩa cộng sản ngay từ đầu.Và những tác phẩm trong đời ông đã viết đều vẫn đi tìm đường, nói văn hoa thì gọi là đi xây dựng một ý thức hệ khác với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Nguyễn Mạnh Côn đã qua đời từ vài chục năm nay sau khi bị hành hạ về thể xác cũng như tinh thần trong nhà tù cộng sản. Chúng ta có thể đoán rằng trước khi nhắm mắt ông vẫn thao thức đi tìm. Nhưng chắc hẳn ông cũng an lòng ở một điều này, là quyết định của ông từ thời thanh niên đã từ chối chủ nghĩa cộng sản là một quyết định đúng. Ông đã nhìn thấy sản phẩm do chủ nghĩa cộng sản tạo ra, chỉ cần nhìn vào cách sống của những quản giáo, cách cư xử, nói năng của những cán bộ tuyên huấn cho đến các công an. Ông thấy cách họ đối xử với nhau. Và chắc ông phải cảm thấy là loài người không nên sống với nhau như vậy. Mặc dù lúc qua đời ông Nguyễn Mạnh Côn chưa chứng kiến sự sụp đổ của cả hệ thống kinh tế, xã hội cộng sản, nhưng ông cũng có thể nhận thấy ngay rằng một chủ nghĩa đem biến mọi người thành những thứ người như vậy, huấn luyện họ ăn ở với nhau như vậy, thì chắc chắn là sai lầm. Đem chủ nghĩa đó áp đặt cho cả một dân tộc phải theo, không ai được cãi, quả là một tội lớn. Trước khi nhắm mắt, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có thể an tâm là mình không tham dự vào cái tội lớn đó.

Tướng Trần Độ không may mắn như nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Ông cũng thuộc thế hệ những người Việt Nam từ thập niên 1940 đã đi tìm một ý thức hệ, và ông đã chọn chủ nghĩa cộng sản. Ông tin tưởng nhiệt thành vào chủ nghĩa đó, đem truyền bá cho nhiều người khác theo ông. Nhưng trong mấy năm cuối của đời ông thì ông biết mình đã sai lầm. Mới ba năm trước ông còn nói vẫn đang đi tìm một kiểu mẫu xã hội hay nhất, đúng nhất, nhưng chưa tìm ra. Chắc trước khi nhắm mắt ông vẫn muốn nhắn bảo những người còn sống hãy tiếp tục đi tìm. Có thể ông cũng ăn năn vì mình đã chọn lầm đường, không những thế còn lôi cuốn nhiều người khác đi theo đường mình đã chọn. Ông nhắc lại nhiều lần rằng chế độ cộng sản mà ông góp công xây dựng nên chỉ là một bộ máy đàn áp, bóc lột nhân dân. Ông biết nó thất bại không mang lại hạnh phúc cho loài người, và chắc cũng cảm thấy guồng máy đó còn huỷ diệt cả nhân tính. Nhưng trong lúc nhắm mắt tâm hồn ông cũng có thể vẫn bình an. Vì khi biết mình đi theo con đường sai lầm thì ông nói thẳng, nói thật điều đó ra, cho thấy ông vẫn giữ được một lương tâm trong sáng. Nhiều người không có thái độ can đảm đó. Có những người biết mình sai nhưng không dám nói thẳng hết, như nhà thơ Chế Lan Viên chỉ dám viết những câu thơ bóng gió.

Đó là một thế hệ những người đi tìm chủ nghĩa. Có người theo chủ nghĩa cộng sản một cách dễ dãi, có những người suốt đời đi tìm một thứ chủ nghĩa khác, không phải mác xít, chống mác xít, hoặc vượt mác xít.

Mà không phải chỉ có thế hệ đó, không phải chỉ có người Việt Nam. Khắp thế giới, cả loài người, từ thế kỷ 18, 19 đến thế kỷ 20 đã có bao nhiêu người thao thức đi tìm như vậy. Tựu chung, họ muốn đem trí khôn ngoan của con người mà tìm hiểu lịch sử, để vẽ ra một bản hoạ đồ cho đồng loại theo đó mà sống cho tốt đẹp, cho lương hảo hơn. Có thể do tấm lòng vị tha, nhưng cũng có thể do ngã mạn quá lớn. Những ông Hitler, Mao Trạch Đông, Khomenei đều mang hoài bão to lớn thay đổi nhân loại cả. Họ đã đem nhân loại ra làm thí nghiệm cho các bản hoạ đồ lớn lao của họ, và làm chết rất nhiều người, làm khổ nhiều người hơn nữa.

Trong khi đó thì loài người vẫn sống, vẫn thay đổi, lịch sử vẫn diễn ra ngoài mọi dự định, mọi tiên đoán của các lý thuyết gia, các lãnh tụ, các uỷ ban kế hoạch, cộng sản cũng như không cộng sản. Những tiến bộ của khoa học từ đầu thế kỷ này đã cho thấy trí khôn ngoan của chúng ta thật ra rất khiêm tốn. Hoài bão muốn thâu tóm cả lịch sử, trước và sau, cả thế giới và cả vũ trụ vào trong một ý thức hệ, một bản hoạ đồ, đó là một ham muốn lớn quá sức con người. Khi biết như vậy rồi thì ý định xây dựng xã hội theo một bản hoạ đồ cố định cũng chấm dứt, thời đại của các ý thức hệ chấm dứt.

Ngày nay chúng ta khiêm tốn hơn, không mong thay đổi thế giới theo một bản hoạ đồ vĩ đại nữa. Thế hệ nào cũng có những người muốn giúp đồng loại sống tốt đẹp và xứng đáng hơn. Nhưng thay vì vẽ ra một hoạ đồ vĩ đại cho cả nhân loại theo thì ngày nay người ta chỉ thảo luận với nhau về những vấn đề nho nhỏ để cải thiện cuộc sống chung. Thí dụ, như mục này mới trình bày hôm qua, một câu hỏi mà xã hội nào cũng phải bàn, là chúng ta làm việc, tạo ra của cải rồi, thì phải đóng bao nhiêu thuế?

Không đặt ra những câu hỏi đơn giản đó thì sẽ tạo ra những cảnh lố bịch lắm. Chẳng hạn như ở những nước tự gọi là theo chủ nghĩa xã hội thì các nhà doanh nghiệp giầu nhất nước lại không đóng góp cho công quỹ, để cho dân lao động nghèo nàn đóng thuế chết bỏ! ƠẨ Trung Quốc trong mười người dân thì 2 người giầu nhất đang làm chủ 80% tài sản chung, để cho tám người khác chia nhau 20% chỗ còn lại. Mà 2 người giầu nhất nước đó chỉ đóng góp được 10% vào số thuế lợi tức cá nhân, để cho 8 người còn lại góp 90% cho công quỹ. Tại sao một chính phủ tự nhận là đại biểu của giai cấp lao động lại gây ra cảnh bất công đó? Vì người ta cứ hô hào những chủ nghĩa trừu tượng, tranh luận những vấn đề lớn lao, không ai thảo luận những chuyện nhỏ nhặt và cụ thể đó.

Có lẽ thế hệ những người như Tướng Trần Độ vẫn còn bị ám ảnh về chuyện ý thức hệ, chứ các thanh niên ngày nay đã vỡ mộng rồi, chẳng còn ai nghĩ đến chuyện đó nữa. Nhưng không đi tìm ý thức hệ không có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ nỗi thao thức hướng thiện của mình. Chúng ta vẫn cần bầu nhiệt huyết muốn xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Chúng ta phải tìm cách cải thiện đời sống hiện tại của dân tộc, mà không cần một bản hoạ đồ vĩ đại nào cả. Chính ông Trần Độ cũng đã bắt đầu làm như vậy. Khi còn sống ông đã quyết liệt đòi hỏi cho người dân Việt Nam được bầu cử tự do, có quyền ngôn luận tự do.Trước kia, khi còn tin ở chủ nghĩa cộng sản ông không coi đó là những quyền quan trong, gắn cho chúng nhãn hiệu là các quyền của ý thức hệ tư sản. Nhưng gần đây ông đã thấy rằng những nhãn hiệu đó không có ý nghĩa gì cả, mà các quyền tự do thì rất thiết thực. Có lẽ những người đi dự đám tang ông nên nhớ lại kinh nghiệm đó của ông mà tiếp tục công việc ông đang làm dở dang. Phải đòi hỏi những quyền tự do cụ thể, cho tất cả mọi người dân Việt Nam đều được hưởng. Đó chính là nước đầu để tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh!



Ngô Nhân Dụng
@nguoiviet

Buddhism

TÂM PHẬT THẤY PHẬT

Một hôm Tô Đông Pha đến chơi chùa, cùng ngồi thiền với nhà sư, trong khi ngồi thiền thấy an lạc xuất hiện.    Xả thiền xong, Tô rất vui vẻ hỏi nhà sư: 
- Ngài thấy tôi ngồi thiền như thế giống cái gì? 
- Trông ngài giống như Đức Phật.  
...
Tô nghe thế vui lắm. Thiền sư hỏi lại: 

- Thế ngài thấy tôi ngồi thiền giống cái gì? 
Tô đáp:
- Trông ngài ngồi thiền giống 1 đống phân bò.
Thiền sư nghe thế cũng hứng chí lắm.
 
                                             
Tô Đông Pha cười suốt dọc đường về, nghĩ bụng hôm nay ta đã thắng lão hòa thượng đó 1 phen rồi. Bị ta nói là đống phân bò mà không bẻ lại được câu nào cả. Tô về khoe với em gái Tô tiểu muội:
 - Hôm nay anh đã qua mặt được lão sư già đó rồi.
Tô tiểu muội hỏi chuyện gì, Tô Đông Pha hào hứng kể lại.
Tô tiểu muội cười ầm lên, Tô Đông Pha càng hào hứng.
Tiểu muội nói: 
-Muội cười là cười huynh đó, huynh lại thua lão hòa thượng ấy rồi.
Tô ngạc nhiên hỏi thế nào. Tiểu muội đáp:
- Tâm lão hòa thượng là tâm Phật, nên thấy huynh cũng giống như Phật. Còn tâm của huynh thì toàn phân bò nên huynh thấy hòa thượng như đống phân bò thôi. Tâm huynh như thế làm sao mà bằng được tâm lão hòa thượng.
@internet 

Thursday, June 19, 2014

Giáo Sư Phạm Biểu Tâm

Giáo Sư Phạm Biểu Tâm,
người thầy y khoa và người hướng đạo gương mẫu


“Tài nối Hoa Đà, đức noi Khổng Tử” 1Tập San Y Sĩ của hội Y Sĩ Việt Nam tại Gia Nã Ðại đến với tôi qua hai đàn anh y khoa, bác sĩ Nghiêm Ðạo Ðại và Lê Quang Dũng, là tập san đặc biệt tưởng niệm Giáo Sư Phạm Biểu Tâm một người thầy đáng kính của nền Y Khoa Việt Nam. Tập san tổng hợp nhiều cây viết và tiếng nói qua các đàn em, bạn và đồng nghiệp của ông như các Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, Ðào Ðức Hoành, Ðào Hữu Anh, Vũ Quí Ðài, Nguyễn Khắc Minh, Bác Sĩ Trần Văn Tích, Bác Sĩ Nghiêm Thị Thuần cùng những học trò đã nổi danh trong ngành phẫu thuật như các Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại, Trần Xuân Ninh, Văn Kỳ Chương, Ðặng Phú Ân, Lê Quang Dũng, đã vẽ lại đầy đủ chân dung và cuộc đời của Giáo Sư Phạm Biểu Tâm.( GS. Phạm Biểu Tâm (1913 - 1999).

Như mùi bánh Madelaine thơm phức đã đánh thức Marcel Proust “đi tìm lại thời gian đã mất,” tập san với những trang giấy trắng mới còn thơm mùi mực đã đánh thức những kỷ niệm trong tôi về thời gian đi học trường Y, những kỷ niệm với thầy cũ trường xưa đổ về như “để tưởng nhớ một mùi hương” ( Mai Thảo ) nhưng mùi thơm của tập sách đã gợi về hai mùi hương thời gian khác biệt, một mùi thơm của ngôi trường Y Nha Khoa mới, kiến trúc mới ở đường Hồng Bàng Chợ Lớn với mùi gạch mới, tường vôi mới, gỗ mới, khuôn viên mới, được xây lên năm 1962 do Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ, được Giáo Sư Phạm Biểu Tâm khánh thành cùng với Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và một mùi “đặc biệt” của bệnh viện Bình Dân Sài Gòn nằm trên đường Phan Thanh Giản gần góc đường Cao Thắng quận ba, do nhiều mùi khác nhau từ những khu bệnh giải phẫu, chỉnh trực, ung thư, ngoài da, tai mũi họng, mắt, răng hàm mặt, tiết niệu, quang tuyến hòa lẫn, bệnh viện với Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm làm giám đốc năm 1954 sau ngày di cư, hậu thân của bệnh viện Phủ Doãn Hà Nội.

Hình ảnh thầy Phạm Biểu Tâm luôn có mặt trong những bài viết của tôi về các thầy cũ, Giáo Sư Ðào Ðức Hoành, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, cùng những kỷ niệm về Bệnh Viện Bình Dân mặc dầu tôi không phải là học trò của thầy như các bạn cùng lớp với tôi, Phan Thượng Hải, Nguyễn Nho Ðức, Nguyễn Quảng Ðức, Soma Ganesan, Trần Ðông Giang nội trú khu ngoại khoa tổng quát.

Trong đời tôi có những cơ duyên với những người thầy đáng kính. Tôi biết Giáo Sư Phạm Biểu Tâm và Giáo Sư Trần Quang Ðệ trước khi tôi vào học y khoa năm 1968. Hai người thầy, đại Giáo Sư phẫu thuật tổng quát của trường Y Khoa Sài Gòn, là hai khác biệt. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm sinh tại Huế, từ trường tiểu học Huế lên học trung học ở Vinh khi cha ông làm quan Bố Chính tỉnh Thanh Hóa, sáng lập “lò” giải phẫu Bình Dân, còn Giáo Sư Trần Quang Ðệ người Nam, cựu viện trưởng viện đại học Sài Gòn, sáng lập “lò” giải phẫu Chợ Rẫy. Bình Dân đa số gốc Bắc, Chợ Rẫy đa số gốc Nam. Giáo Sư Tâm nhỏ người ăn nói nhỏ nhẹ, Giáo Sư Ðệ cao lớn ăn nói giọng oai vệ, khi tôi mới gặp, hai ông đều nói tiếng Tây, tôi chỉ nể mà không hiểu hai ông bác sĩ nói gì. Năm tôi năm tuổi, trước khi đi học, cha tôi đem tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy để cắt ngón tay thừa bên cạnh ngón tay cái bàn tay phải, ngón tay vướng víu khi cầm viết. Bạn của cha tôi là ông y tá Huệ, phụ tá số một của Bác Sĩ Trần Quang Ðệ trong phòng mổ, (bác Huệ là ba của Nguyễn Hoàng Tuấn bạn học y khoa cùng lớp với tôi) đã đem tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy. Hồi năm tuổi tôi không biết là cậu nhỏ được vinh dự giải phẫu bởi đại giáo sư giải phẫu sau khi nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy hai ngày. Những năm học tiểu học, vào những ngày cuối tuần, tôi hay theo cha mẹ tôi đi dự hội Trung Việt Ái Hữu ở ngã ba Ông Tạ. Cha tôi trong ban quản trị, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm trong thành phần cố vấn của hội. Tôi biết ông qua cặp mắt kính nể của cha tôi và các chú bác trong hội mặc dù ông kém cha tôi mười tuổi. Ông là một hãnh diện của hội, một cựu học sinh trường Vinh, cha làm quan ở Thanh Hóa, là một dân chính gốc Thanh Nghệ Tĩnh! Ông đã làm vẻ vang dân Trung vì đậu trường thuốc ở Hà Nội và đậu thạc sĩ y khoa ở Pháp năm 1948. Ở những năm 1950, bác sĩ y khoa hiếm và được quý trọng trong xã hội. Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm , về sau khi tôi lớn lên mới hiểu hết, được các chú các bác bạn cha tôi trong hội quý trọng là vì nhân cách của ông ngoài nghề y khoa. Cứ mỗi năm, hội Trung Việt Ái Hữu tổ chức cây mùa Xuân và phát phần thưởng cho con em học giỏi. Năm lớp nhất, tôi được sắp hàng trong đám học sinh trường tiểu học Phan Ðình Phùng vào Dinh Ðộc Lập để nhận phần thưởng từ tay Tổng Thống Ngô Ðình Diệm (mặc dù thất vọng, năm ấy tổng thống bận phải để Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ thay mặt) sau đó ngày chúa nhật ở hội Trung Việt Ái Hữu, tôi được nhận phần thưởng từ tay Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm. Giọng nói nhẹ nhàng từ con người nhỏ nhắn của Bác Sĩ Tâm ngày tôi mười một tuổi gây khiến tôi kính phục.|

Bảy năm sau tôi vào y khoa. Năm 1968 Mậu Thân là một năm lịch sử. Vào trường y khoa sau cái Tết biến động, thế hệ chúng tôi được xem là thế hệ y khoa do Hoa Kỳ đào tạo. Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, người thầy y khoa nhiều thế hệ, đối với chúng tôi cao vời vợi và khoảng cách giữa thầy và chúng tôi như cha và con. Năm 1968 đem đến nhiều thay đổi nhưng đối với người thầy của chúng tôi năm 1967 trước đó đã đánh dấu khúc quanh của cuộc đời người thầy tận tâm cho y học. Sau khi đậu Thạc Sĩ Y Khoa Pháp năm 1948, ông dạy Y Khoa Ðại Học Hà Nội từ 1949 đến 1954, đồng thời kiêm nhiệm giám đốc Bệnh Viện Yersin Hà Nội (nhà thương Phủ Doãn). Vào Nam sau di cư ông vẫn tiếp tục được cử làm Khoa Trưởng Ðại Học Y Dược và giám đốc Bệnh Viện Bình Dân. Nhưng năm 1967, chính phủ “cách mạng” của chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm một cuộc đảo chính, lật đổ Khoa Trưởng Phạm Biểu Tâm, lập hội đồng khoa mới, lý do là các thầy theo hệ thống Pháp không chịu chuyển ngữ dạy tiếng Việt. Thiếu tướng cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan theo lệnh ông Nguyễn Cao Kỳ làm cuộc đảo chính đưa quân vào trường trái với tinh thần tự trị của viện đại học. Số phận của giáo sư y khoa Phạm Biểu Tâm may mắn hơn là số phận của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.

Bốn mươi bảy năm sau nhìn lại thì cuộc “cách mạng” của ông Kỳ là cuộc cách mạng có tính cách “biểu diễn.” Tài liệu qua nhiều nhân vật trong tập san y sĩ kỳ này cho thấy các thầy thuộc thế hệ được đào tạo thời Pháp đang chuẩn bị một sự thay đổi từ từ như chấp nhận kỳ thi trắc nghiệm và giảng dậy bằng tiếng Việt. Cách mạng của ông Kỳ cũng như cách mạng cộng sản của Hồ Chí Minh là một cuộc “chiến tranh vô ích.” Những cuộc cách mạng đập phá ấy khác với tinh thần của Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ khi ông nói trước nhân viên bệnh viên Phủ Doãn sau khi cộng sản nắm chính quyền năm 1954: “Cách mạng có nghĩa là phải làm việc nhiều và tốt hơn nữa.”

Sinh viên y khoa lớp chúng tôi chỉ bắt đầu gặp Giáo Sư Pham Biểu Tâm vào năm thứ hai, sau năm dự bị và năm thứ nhất, khi được đi thực tập lâm sàng và được thầy giảng môn triệu chứng học trong giảng đường. Ông giản dị, từ tốn, giọng nhỏ nhẹ nhưng thâm thúy, người ông trông không có gì hấp dẫn khi mới tiếp xúc, người ốm, mặt gầy, tóc quăn (Bác Sĩ Nguyễn Chấn Hùng nói những người tóc quăn thông minh, đàn anh của tôi cũng tóc quăn!) dạy trong giảng đường chừng mực, cái vẽ thông thái của ông khác với vẽ thông thái của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh.

Ở bệnh viện Bình Dân, chúng tôi chỉ được gặp ông sau khi đi qua các giảng nghiệm viên khu giải phẫu tổng quát, Bác Sĩ Nguyễn Khắc Lân, Bác Sĩ Nguyễn Minh Tuyến, Tôi còn nhớ ông dạy lâm sàng, dặn dò phải “xem bệnh nhân như người nhà, nếu bệnh nhân lớn tuổi xem họ như cha mẹ.” Ông đã dạy chúng tôi cách khám bệnh “nghe, sờ, gõ,” xin phép bệnh nhân được cởi áo trước khi khám bệnh. “Phút đầu gặp gỡ ấy” với bệnh nhân phòng 8 bệnh viện Bình Dân bên cạnh người thầy là những giây phút không quên trong đời. Cách khám bệnh nhân ấy rất nhân bản. Ông kính trọng bệnh nhân, thực hành những lời ông đã dặn học trò, và ông đã săn sóc bệnh nhân với tấm lòng nhân ái, có lẽ vì bản thân ông cũng đã là một bài học cho chính ông. Năm 2000, Giáo Sư Nguyễn Khắc Minh có ghé nhà tôi ở Galveston, ông đã được mẹ vợ tôi, “chị Vân Anh” y tá trưởng phòng dụng cụ lâu đời ở bệnh viện Phủ Doãn và Bình Dân, kể lại câu chuyện thầy Phạm Biểu Tâm đau ruột dư để lâu ngày mới mổ, khi đánh thuốc mê áp huyết bị xuống thấp và gần ngưng thở phải được cấp cứu bằng phương pháp Sylvester. Năm ngoái, sau bài viết về Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, tôi qua California được thầy Ninh và sau đó cũng được Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại kể lại thầy Tâm đã khóc sau khi con thầy mất vì bệnh lao màng óc, một căn bệnh ngặt nghèo không chữa được bằng thuốc Steptomycin chích bởi tay Giáo Sư Ninh.

Năm thứ nhất y khoa, tôi vào bệnh viện Bình Dân đi theo các anh nội trú Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Lương Truyền, Ðặng Phú Ân, Nguyễn Văn Quang để học mổ và phụ mổ, sống và thức khuya để học như những con chuột cống trực gác trong nhà thương buổi tối. Tôi đã chứng kiến những cái nhìn kính trọng của các anh nội trú với thầy, chưa được thấy thầy mổ nhưng bà mẹ vợ tương lai cũng đã khuyên tôi “nếu muốn theo ngành giải phẫu con nên theo thầy Tâm, ông mổ cẩn thận.” Cách mổ của các học trò ruột của thầy vào lúc ấy như Bác Sĩ Nghiêm Ðạo Ðại (sau 1975 là Giáo Sư giải phẫu đại học Pittsburgh) Bác Sĩ Lê Quang Dũng, Bác Sĩ Nguyễn Khắc Lân, Bác Sĩ Nguyễn Minh Tuyến, Bác Sĩ Văn Kỳ Chương cho thấy đức tính cẩn thận của thầy đã truyền cho học trò. Ông luôn luôn nhắc nhở các nội trú bệnh viện Bình Dân không nên ham mổ. Năm 1975, tôi đã tận mắt nhìn thấy kinh nghiêm giảng dạy của thầy. Một đêm tháng sáu năm 1975 tôi đưa cha tôi vào bệnh viện Bình Dân sau khi ông lên cơn đau bụng. Khoảng thời gian này là những năm tháng cuối của cha tôi. Ông bị nhiều chứng bệnh nặng. Bác Sĩ Phan Văn Tường hôm ấy trực đã khám cho cha tôi, định bệnh viêm ruột dư định đưa lên bàn mổ nhưng vẫn phải đợi thầy Tâm vào xem lại. Mười giờ đêm thầy Tâm vào thăm bệnh cho cha tôi, sau khi khám lại kỹ lưỡng ông nói với tôi: “Anh nên hội chẩn với Hồ Hội, tôi nghĩ ông cụ đau bụng vì bệnh nội thương.” Bác Sĩ Hồ Hội (trên tôi một năm) đã chuyển cha tôi về bệnh viện Chợ Quán để chữa bệnh gan. Hình ảnh và giọng nói của thầy Phạm Biểu Tâm đứng cạnh cha tôi trên giường bệnh đúng 39 năm sau vẫn không phai mờ trong ký ức tôi.

Năm thứ năm y khoa, tôi đậu kỳ thi nội trú các bệnh viện, về làm nội trú khu ung thư với Giáo Sư Ðào Ðức Hoành (đáng lẽ tôi phải chọn làm nội trú khu giải phẫu tổng quát trước khi làm nội trú khu ung thư mới đúng con đường giải phẫu). Vì vậy cái duyên giữa tôi với thầy cũng chỉ là cái duyên “Kính nhi viễn chi” cho đến ngày ba mươi tháng 4 năm 1975, cái ngày đổi đời của cả đất nước thì tôi mới có duyên gần gũi với thầy.

Ngày 1 tháng 5, trước khi ủy ban quân quản tiếp thu bệnh viện Bình Dân, Giáo Sư Phạm Biểu Tâm tập hợp nội trú vá các bác sĩ điều trị, ông thay Giáo Sư Ðào Ðức Hoành giám đốc bệnh viện đã di tản, bằng giọng nói nhỏ nhẹ ông kết luận bài nói chuyện ngắn bằng câu cay đắng: “ Nay cách mạng thành công, trong đây có anh đã đạt được mục đích, nếu thấy tôi có lỗi cứ lên đây tát tai tôi.” Tôi không hiểu ông muốn ám chỉ ai lúc đó, trong số bác sĩ và nhân viên bệnh viện không ai là cán bộ nằm vùng, về sau chỉ một số theo ngọn gió 30 tháng 4 đổi chiều quay lại đạp những giá trị cũ để tiến lên, hay là vì ông đã có nhiều kinh nghiệm trong đời ngay cả trước khi Việt cộng vào Sài Gòn. Năm 1967 ông bị đảo chính vì bị xem là thành phần thủ cựu thân Pháp nhưng cộng sản vào ông có thể bị kết tội thân Mỹ vì ông đã mời Giáo Sư Henry Bahnson đại học Pittsburg cộng tác chương trình hậu đại học phẫu khoa ở Bệnh Viện Bình Dân từ năm 1972. Ông đã phải đối đầu với sinh viên, những sinh viên quá khích, như năm 1972 sinh viên chống chương trình nội trú, đòi bỏ chế độ nội trú như Pháp để có một chương trình nội trú cho tất cả sinh viên như ở Hoa Kỳ. Sinh viên Bùi Trọng Hậu (em ruột Bác Sĩ Bùi Mộng Hùng học trò giải phẫu của ông) đã bước lên sân khấu cầm micro chỉ mặt ông đang ngồi hàng đầu la mắng ông là người không biết cải thiện. Năm đó sinh viên chống thi nội trú một phần cũng vì chống giáo sư Khoa Trưởng Ðặng Văn Chiếu. Ông đã điềm đạm cầm micro đáp lại anh Hậu “sở dĩ chưa có chương trình nội trú cho mọi người vì ngân khoản bộ y tế hạn hẹp chưa có thể thực hiện được.” Một lần khác, vào đêm thứ năm ở Bệnh Viện Bình Dân, đêm học hỏi với những trường hợp bệnh lý, bàn thảo giữa các sinh viên, giáo sư và giảng nghiệm viên. Ðêm hôm đó một lần nữa, ông lại bị nội trú nội khoa Nguyễn Xuân Ngãi, một sinh viên xuất sắc chuyên về ngành nội khoa cầm micro dạy cho giáo sư giải phẫu nổi tiếng Phạm Biểu Tâm một bài học: “Thầy là người cổ lỗ sĩ, không học cái mới, thủng ruột vì sốt thương hàn bây giờ Mỹ không mổ chỉ cho trụ sinh và đặt ống hút.” Ông trả lời nhã nhặn “chúng tôi đã già nếu có gì mới các anh xin chỉ bảo.” Ðêm hôm ấy bạn tôi Soma Ganesan nổi nóng nói với tôi “mày chặn cửa sau, tao chặn cửa hông cho thằng Ngãi một bài học” chuyện đánh nhau không xảy ra nhưng tôi cố đọc sách và qua Mỹ củng cố hỏi các bác sĩ giải phẫu mà không tìm ra câu trả lời chữa nội khoa cho bệnh thủng ruột do biến chứng bệnh sốt thương hàn.


Việt Nguyên

Tuesday, June 17, 2014

HS-TS

Sau khi đá hóa đảo trái phép Trường Sa,
Trung Quốc sẽ đòi 200 hải lý

Có lẽ một động cơ nguy hiểm hơn nữa là sau khi tạo ra các đảo mới, Trung Quốc sẽ (đơn phương) tuyên bố họ có một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý.
(Hoạt động cải tạo đắp nền bất hợp pháp mới nhất Trung Quốc đang tiến hành ngoài đá Gạc Ma nhằm biến thành 1 đảo nhân tạo.)

The New York Times ngày 16/6 đưa tin, việc Trung Quốc tiến hành xây dựng (bất hợp pháp) trên một số bãi đá và rặng san hô ở Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) là một trong những nỗ lực mới nhất mở rộng sự hiện diện của họ ở Biển Đông, sau khi tạo ra những đảo nhân tạo chúng sẽ mọc lên những công trình kiên cố làm nơi đồn trú và lắp đặt các thiết bị giám sát, bao gồm radar.
Hoạt động xây dựng đảo nhân tạo mà phía Trung Quốc đang triển khai là hồi còi báo động Việt Nam, Philippines và các bên yêu sách chủ quyền khác ở Trường Sa. Từ tháng 4 Philippines đã phản đối Trung Quốc cải tạo trái phép 2 bãi đá, tháng này Tổng thống Aquino tiếp tục chỉ trích các dấu hiệu di chuyển khác của Trung Quốc trên 2 bãi đá nữa.

Hành động của Trung Quốc cũng khiến các quan chức cấp cao của Mỹ lo ngại. Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel đã nhắc đến động thái thay đổi hiện trạng trên Biển Đông từ phía Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-la vừa qua.

Một số nhà phân tích cho rằng quân đội Trung Quốc đang nhắm tới 1 điểm cắm chân trong quần đảo Trường Sa làm điểm tựa chiến lược dài hạn triển khai sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương.

Có lẽ một động cơ nguy hiểm hơn nữa là sau khi tạo ra các đảo mới, Trung Quốc sẽ (đơn phương) tuyên bố họ có một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý đối với mỗi "đảo" này bằng cách (cố tình giải thích, áp dụng sai) viện dẫn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Philippines đã lập luận tại tòa án quốc tế rằng, Trung Quốc chỉ chiếm đóng (trái phép) các bãi đá và rặng san hô, không thể đủ tiêu chuẩn tuyên bố 1 vùng đặc quyền kinh tế.

"Bằng cách tạo ra sự xuất hiện của một hòn đảo, Trung Quốc có thể đang tìm cách tăng cường giá trị cho tuyên bố của họ", Taylor Fravel, một nhà khoa học chính trị Viện Công nghệ Massachusetts cho biết.
Bắc Kinh đã (ngang nhiên, thách thức) công khai thừa nhận hoạt động này "vì nó là lãnh thổ Trung Quốc"?! Cánh quan chức nước này lý sự rằng Việt Nam và Philippines đã xây dựng các cấu trúc ở quần đảo Trường Sa nhiều hơn phía Trung Quốc nên họ có quyền tự do theo đuổi các dự án của mình?!

The New York Times cho biết, các nhà phân tích đã lưu ý rằng những bên còn lại trên Biển Đông đã không xây dựng đảo, các cấu trúc họ xây dựng ở Trường Sa đều diễn ra trước năm 2002 khi Trung Quốc và ASEAN ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông DOC. Trong đó có điều khoản quy định các bên yêu sách ở Biển Đông cần kiềm chế không tiến hành các hoạt động leo thang căng thẳng, không làm thay đổi hiện trạng khu vực này.(Lính Trung Quốc đồn trú bất hợp pháp trên đá Chữ Thập sau khi xâm lược của Việt Nam và xây dựng công sự nhà nổi trái phép từ năm 1988. Nhiều khả năng Trung Quốc âm mưu biến Chữ Thập thành 1 căn cứ quân sự mạnh ở Trường Sa để tìm cách thực hiện tham vọng lưỡi bò.)

Trung Quốc đã thay đổi hiện trạng và nó chỉ có thể làm tăng căng thẳng, giáo sư Carl Thayer từ Úc nhận xét. Những động thái Trung Quốc đang làm trên Biển Đông không phải hoạt động đơn lẻ mà là một kế hoạch hoàn chỉnh nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền (vô lý) của họ, nhưng hiện chưa có phản ứng đồng thời đủ mạnh.

Kể từ tháng Giêng năm nay, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng 3 hoặc 4 đảo nhân tạo ở Trường Sa với diện tích ước chừng 20 - 40 mẫu Anh, trong đó có ít nhất 1 đảo nhân tạo được Trung Quốc dành riêng cho mục đích quân sự, các đảo nhân tạo còn lại sẽ sử dụng làm nơi neo đậu, cung cấp hậu cần tàu thuyền, một quan chức phương Tây giấu tên nói với The New York Times.

So với vụ Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam thì vụ đảo hóa các bãi đá ở Trường Sa (sau khi Trung Quốc xâm lược, chiếm đóng trái phép từ năm 1988 đến nay) nguy hiểm hơn nhiều. Giàn khoan họ sẽ rút, nhưng đảo nhân tạo thì sẽ còn đó, quan chức này bình luận.

Và đá Gạc Ma (mà Trung Quốc xâm lược của Việt Nam năm 1988 cùng với Chữ Thập, Gaven, Su Bi, Tư Nghĩa, Châu Viên) rồi sẽ không còn là đá, mà sẽ trở thành đảo, quan chức này lưu ý.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình hôm qua cho biết Việt Nam đã chính thức phản đối các hoạt động bất hợp pháp ngoài đá Gạc Ma và các bãi đá khác ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút tàu thuyền khỏi khu vực này.

Hồng Thủy

Sunday, June 15, 2014

Đáp lời sông núi

Nói Với Người Cộng Sản
(Chuyên mục của đài phát thanh Đáp lời sông núi)

Kính chào quí thính giả, quí vị đảng viên cộng sản lâu năm và các bạn công an, bộ đội,
Chúng tôi tin rằng trong suốt một tuần qua tất cả quí vị, quí bạn – những người đã theo dõi chuyên mục "Nói với người cộng sản" tuần trước – đều rất trăn trở với câu hỏi: "Nếu đảng cộng sản Việt Nam lại đứng ra phát động nhân dân cầm súng ra trận chiến đấu chống Trung Cộng để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải hành động thế nào?"

 
Chúng tôi cũng thế, đó thực là một câu hỏi không dễ trả lời bởi, một bên, tất cả chúng ta đều sẵn sàng lên đường chiến đấu để giữ nước, nhưng phía bên kia, chúng ta đã thấy quá rõ những sự thật phản trắc của đảng cộng sản Việt Nam. Có ba sự thật chúng ta cần cùng nhau ôn lại ở đây:'

 + Một, chính đảng cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước ta trở lại vòng lệ thuộc phương Bắc và đã công nhận hoặc nhượng bằng văn bản rất nhiều lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta cho Trung Cộng.
+ Hai, đảng cộng sản Việt Nam đã luôn dùng lá cờ chống ngoại xâm để giành lấy quyền lực độc đoán cho nó. Nói cách khác, những lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam đã luôn dùng máu xương chống ngoại xâm của dân ta để xây thành ngai vàng cho chúng trị vì.
+ Ba, suốt những năm qua đảng cộng sản Việt Nam đã liên tục trấn áp, đánh đập, bỏ tù rất nhiều người yêu nước chống Trung Cộng xâm lấn, điển hình là nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải-Điếu Cày – hiện vẫn đang ở trong tù.
 

Thưa quí vị, quí bạn, từ những sự thật này, chúng ta cần đi đến một kết luận dứt khoát rằng: chính đảng cộng sản Việt Nam và Trung Cộng là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng lâm nguy hiện nay của đất nước Việt Nam. Nói cách khác, chúng ta phải xác định rõ kẻ thù của dân tộc Việt Nam hiện nay gồm hai thành phần trong ngoài: trong nước là đảng cộng sản Việt Nam và ngoài nước là Trung Cộng.
 

Giả thiết chúng ta chỉ nhằm và thành công trong việc ngăn chặn Trung Cộng xâm lấn, còn bản chất của đảng cộng sản Việt Nam vẫn là độc tài, thì chúng ta vẫn tiếp tục phải chịu đựng sự nô dịch của đảng cộng sản Việt Nam và nguy cơ đảng cộng sản Việt Nam đem nước dâng cho Trung Cộng, như đã xảy ra, lại sẽ xảy ra.
 

Hoặc giả thiết chúng ta chống được đảng cộng sản Việt Nam bằng cách giải thể hoặc loại bỏ khỏi chính trường hoặc biến đảng này thành đảng chính trị chấp nhận cơ chế dân chủ thì hệ quả tự nhiên sẽ là tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Cộng sẽ mất ngay chỗ dựa trong nội tình Việt Nam và các công hàm hay thỏa thuận bán nước trước đây của đảng cộng sản Việt Nam sẽ không còn giá trị để Trung Cộng viện cớ xâm lấn nữa.
 

Vậy muốn cứu nước chúng ta bắt buộc phải giải quyết được hai kẻ thù, hai nguyên nhân này, trong đó nguyên nhân bên trong "đảng cộng sản Việt Nam" là cơ bản, nguy hiểm hơn và cũng khó hơn nguyên nhân bên ngoài là "Trung Cộng".
 

Việc "giải quyết" suy đến tận cùng là làm cho các tác nhân gây hại thành vô hại, làm cho kẻ ngoại xâm phải từ bõ dã tâm xâm lược và làm cho đất nước không còn kẻ nội thù áp bức dân, tiếp tay cho ngoại xâm. Như vậy cách giải quyết thù trong, giặc ngoài của dân tộc Việt Nam hiện nay có thể phải dùng đến biện pháp võ lực nhằm tiêu diệt, loại bỏ ý chí thù địch của cả hai tác nhân gây hại hoặc có thể chỉ cần dùng đến các biện pháp ôn hòa (phi chiến tranh) nhưng vẫn gây bất hoạt được hai tác nhân đó. Trong đó việc giải quyết "đảng cộng sản Việt Nam" cần phải được đặt lên hàng đầu và phải được coi là vấn đề có tính nền tảng xuyên suốt trong công cuộc cứu nước, chống Trung Cộng ngày nay.
 

Chúng ta cũng cần lưu ý khi đảng cộng sản Việt Nam đứng lên lãnh đạo một cuộc chiến đấu mới chống Trung Cộng, ngoài việc họ sẽ đạt được nhiều lợi thế cho quyền lực độc tài của họ, như chúng ta đã đề cập trong chuyên mục trước, họ còn sẽ không mất gì cả. Vì khi chiến tranh xảy ra, chỉ có nhân dân phải đăng lính, cầm súng ra trận, chỉ có người dân phải gánh chịu hy sinh và các tổn phí chiến tranh khổng lồ, còn bản thân các lãnh đạo cộng sản và con cái của họ sẽ được hưởng những ưu đãi đặc biệt của "cán bộ cao cấp". Họ sẽ sống trong những hầm ngầm kiên cố với đầy đủ tiện nghi và khi cần sẽ có phi cơ đặc chủng đưa họ ra nước ngoài sống tại những dinh thự sang trọng họ đã chuẩn bị từ nhiều năm qua.
 

Thưa quí vị, quí bạn, như vậy điều kiện tiên quyết để chúng ta hưởng ứng tham gia lời kêu gọi ra trận (có thể có) của đảng cộng sản Việt Nam phải là đảng cộng sản Việt Nam đã phải chuyển đổi hẳn thành một đảng chấp nhận dân chủ.


Chúng ta cũng cần nhớ lại, trước khi qua đời không lâu, cố Trung Tướng Trần Độ, một công thần lớn của đảng cộng sản Việt Nam, đã phải viết rằng:
"Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả một dân tộc... Nó đang làm hại cả một nòi giống."

Chuyên mục tuần sau chúng ta sẽ cùng nhau xem những dấu chỉ nào cho biết đảng cộng sản Việt Nam thực sự chia tay bản chất chuyên chính độc tài. Còn giả thuyết Trung Cộng chủ động tấn công Việt Nam một cách ồ ạt sẽ được đề cập trong các chuyên mục tiếp theo.
Hải Nguyên và Tiến Văn xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại quí vị, quí bạn vào giờ này tuần tới.

Tiến Văn
15/6/2014

Dân oan miền Nam

Dân oan miền Nam chính thức đổi tên
  và tuyên bố mở rộng ý nghĩa đấu tranh


Ngày 10 tháng 6 vừa qua, khối Dân oan miền Nam đã chính thức đổi tên cho mình và mở rộng ý nghĩa tranh đấu. Giờ đây, ngoài việc đấu tranh tố cáo tội ác cướp đất đai của chính quyền, Dân oan miền Nam sẽ còn góp tiếng nói cho công cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, bên cạnh các tổ chức xã hội dân sự khác.

Khối Dân oan miền Nam hiện có đại diện là chị Trần Ngọc Anh, một trong những thành viện đấu tranh kiên trì và cũng bị công an CSVN đánh đập dã man nhiều lần. Hiện nay, tên gọi chính thức của khối Dân oan miền Nam là Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu VN, tức mối quan tâm của phong trào sẽ trãi rộng cả nước chứ không dừng ở miền Nam. 

Trong Hội luận và cam kết với bên ngoài, Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu VN cho biết trong mọi trường hợp đi biểu tình, các thành viên của phong trào sẽ không bao giờ mang theo Cờ Đỏ Sao Vàng vì dân oan xem đó là lá cờ gây nhiều tội ác, bán nước, nô lệ và tàn hại nhân dân! Việc tuyên bố này cũng nhằm làm rõ việc xuống đường, không trùng lẫn với các nhóm biểu tình chống Trung Quốc mang cờ mái, được Nhà nước CSVN trả tiền nhằm cứu vãn danh dự cho chế độ.
Vừa qua, một nhóm dân oan dưới sự điều phối của chị Trần Ngọc Anh đã tổ chức biểu tình nhanh trước Tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon. 

Trong cuộc biểu tình, Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu VN đã hô to các khẩu hiệu đả đảo đảng Cộng Sản Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh tinh thần hy sinh bảo vệ đạo pháp của cụ bà Lê Thị Tuyết Mai, phật tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Cụ bà đã hy sinh để phản đối Trung Cộng, phản đối việc Nhà nước CSVN đàn áp lòng yêu nước của dân chúng, cũng như nguyện cầu cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, vốn bị CSVN đàn áp không thương tiếc từ sau 1975 đến nay.
Được biết trước khi là Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu VN, các phong trào đấu tranh của khối dân oan đã luôn cái gai trong mắt chế độ CSVN. Dù tức giận và đàn áp, CSVN vẫn không sao ngăn chận được, cho dù thành viên của Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu VN đa số chỉ là phụ nữ.

Việc tuyên bố tôn chỉ và tên gọi của Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu VN, một lần nữa làm cho công an CSVN lo sợ, vì phong trào đấu tranh này ngày càng vững mạng, liên kết chặt chẽ và có chính nghĩa.

Trước ngày 10 tháng 6, tại Hà Nội, hơn 2000 dân oan cũng đã bí mật hẹn nhau đổ về ngập tràn Hà Nội để đòi giải quyết những vụ cướp đất mà chính quyền đã cố ý làm lơ từ nhiều năm nay. (N. Khanh)