Năm sự kiện chưa được biết về Khe Sanh
Trận Khe Sanh là một điển hình của cuộc đối đầu, là một phép thử của khát
vọng trong chiến tranh Việt Nam, nơi có 6.000 thủy quân lục chiến Mỹ chống cự
lại 20.000 quân đội Cộng sản Bắc Việt, kéo dài 77 ngày đêm vào những tháng đầu
năm 1968.
Bóng ma của Điện Biên Phủ 1954 vẫn còn lởn vởn. Lực lượng cộng sản Việt Nam
đã bao vây và cuối cùng là tiêu diệt gọn một căn cứ quân sự mạnh của Pháp. Nhưng
không giống người Pháp ở Điện Biên Phủ, người Mỹ đã duy trì một đường tiếp vận
hàng không đến với Khe Sanh, đã chống trả ngoan cường trước những trận pháo kích
và những đợt tấn công trực diện. Cuối cùng, quân đội Mỹ đã phá vỡ được vòng vây
vào tháng Tư. Nhưng chỉ khoảng ba tháng sau đó thì Mỹ đã tự hủy bỏ toàn bộ căn
cứ quân sự kiên cố này.
1- Trận Khe Sanh không làm thay đổi cục diện của cuộc chiến, nhưng nó thúc
đẩy những kỹ thuật phát triển quân sự rất đáng ghi nhận. Lần đâu tiên những cảm
ứng điện tử được sử dụng để thả xuống những khu rừng rậm xung quanh Khe Sanh. Nó
cung cấp những thông tin quân sự quan trọng cho việc phòng vệ. Lần đầu tiên
trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã đối diện với xe tăng của Bắc Việt.
Nhưng hình ảnh đáng ghi nhớ hơn cả là Chiến dịch Niagara với pháo đài bay B-52
cùng với máy bay tiêm kích đã rót xuống đây 100.000 tấn bom. Pháo binh bắn ra
158.000 quả đại bác. Một hợp đồng tác chiến vĩ đại nhất trong chiến tranh Việt
Nam giữa hai lực lượng pháo binh và không quân để tiêu diệt gần như toàn bộ lực
lượng Bắc Việt đang bao vây, muốn lật úp Khe Sanh.
2- Tổng thống Lyndon Johnson và Tướng William Westmoreland đã đưa ra kế hoạch
sử dụng vũ khí nguyên tử cấp chiến thuật và vũ khí hoá học để bảo vệ căn cứ Khe
Sanh. Trong một loạt những cuộc điện đàm, Tướng Westmoreland thông báo cho Tổng
thống Johnson rằng vũ khí nguyên tử và hóa học là chưa cần thiết để dùng cho Khe
Sanh, nhưng sẽ là một lựa chọn cuối cùng để chặn đứng lực lượng Bắc Việt đang
vượt qua khu phi quân sự tiến về Khe Sanh.
3- Phe chủ chiến thường buộc tội Lyndon Johnson đã không làm tất cả những gì
mà ông có khả năng để giành chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam. Nhưng nội các
của tổng thống thì phủ nhận. Những cố vấn quân sự muốn cố thủ Khe Sanh, trong đó
có tướng liên quân đã hồi hưu Maxwell Taylor. Bằng thư và đàm thoại, ông vận
động ráo riết tổng thống cố thủ Khe Sanh. Tổng thống Johnson đã xem xét cẩn thận
những lời khuyên của Taylor, nhưng cuối cùng thì ông trở lại với kế hoạch của
Westmoreland là chỉ giáng một đòn quyết định vào lực lượng Bắc Việt tại Khe
Sanh.
4- Hậu cần của Mỹ vượt xa khả năng hậu cần của cộng sản
trong cả cuộc chiến, nhưng những điều này lại không đúng trong những tuần lễ đầu
tại Khe Sanh. Ở những ngọn đồi cứ điểm xung quanh Khe Sanh, nạn thiếu thực phẩm
và nước uống đã trở nên nghiêm trọng. Cơn đói khát giày vò, cảnh rách rưới của
những người lính Mỹ bảo vệ Đồi 881 và 861 gợi ra một hình ảnh của những người bị
bỏ rơi trên hoang đảo. Một chiến dịch táo bạo được biết đến với tên “Super
Gaggle” đã chấm dứt cuộc khủng hoảng trên bằng cuộc trải thảm bom, bom napal,
khói cay mắt, sương mù vào những vị trí của lực lượng Bắc Việt, để trực thăng
đáp xuống tiếp trợ thực phẩm cho những ngọn đồi cứ điểm tiền tiêu.
5- Khe Sanh là một chiến thắng quân sự của Hoa Kỳ, những người lính dũng cảm,
thành công bảo vệ cứ điểm trong suốt 77 ngày đêm vây hãm. Nhưng rồi những nhận
thức này bị lu mờ vào tháng 7 – 1968 bởi quyết định hủy bỏ căn cứ này. Khe Sanh
trở nên thứ acid bào mòn những tâm tưởng của bao nhiêu người Mỹ về một biểu
tượng của lòng hy sinh không có mục đích, chiến thuật lộn xộn. Những điều này đã
dẫn đến số phận cuối cùng của những cố gắng của người Mỹ ở Việt Nam. Phán quyết
của lịch sử về Khe Sanh cho là Mỹ đã thua, và buộc tội Tướng Westmoreland hơn là
công nhận một sự thực về bản hùng ca đã bảo vệ được cả quốc gia đứng vững trong
thời gian tổng công kích từ tháng Giêng đến tháng Tư năm 1968.
(Dịch từ: “5 Things you dit not know about Khe Sanh” của Thomas E. Ricks,
FP, May 5, 2014; điểm cuốn “Last Stand at Khe Sanh” của Gregg Jones)
Trần Hồng Tâm
@ Đàn Chim Việt
@ Đàn Chim Việt