Sự khác biệt giữa chủ nghĩa Cộng sản Châu Âu và Châu Á
Trong năm 1989, hai sự kiện rất quan trọng và rất khác nhau đã diễn ra tại hai địa đầu của thế giới. Tại Đức, bức tường Berlin sụp đổ. Cộng sản, một hệ thống cầm quyền, bị sụp đổ ở Đức và phần còn lại của Đông Âu.(Hình phải Giáo sư Jerry Livingston Voorhis)
Tuy nhiên ở Trung Quốc, một điều rất khác xa đã xảy ra. Những hy vọng của thế giới cho một nước Trung Quốc tự do, dân chủ đã tiêu tan khi xe tăng và quân đội từ nông thôn tiến vào Thiên An Môn và tàn sát hàng trăm trong số hàng ngàn sinh viên, những người đã biểu tình đòi dân chủ tại Bắc Kinh trong nhiều tháng.
Dân chủ, một nền kinh tế thị trường và việc tự do phát biểu quan điểm chính trị và văn hóa đã chiến thắng chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và thậm chí cả ở Nga, trong khi, ở Trung Quốc và trong khu vực kiểm soát Cộng sản ở Á Châu, những ảnh hưởng này đã bi đè bẹp bởi các Chính phủ Cộng sản Trung Quốc, Việt Nam, Lào và đặc biệt là, Campuchia và Bắc Triều Tiên.
Chúng ta phải đặt câu hỏi: Tại sao kết quả của phong trào hòa bình và dân chủ lại quá khác nhau giữa Âu Châu và Á Châu?
Có nhiều lý do cho những kết quả khác nhau này và một trong những lý do đầu tiên và quan trọng nhất là loại Cộng sản đặc thù ở khu vực Á Châu hoàn toàn trái ngược với loại Cộng sản ở Châu Âu.
Tại Châu Âu, ngay từ nguyên thủy, chủ nghĩa Cộng sản là một hiện tượng đô thị. Công nhân đô thị, nhất những người làm việc trong các ngành công nghiệp quy mô lớn, được coi như giai cấp vô sản, những người tiên phong của cách mạng. Cùng với các đảng Cộng sản và lãnh tụ của họ, nhiều công nhân trong các nghiệp đoàn chặt chẽ và những khu vực công nghiệp cao như Saxony hoặc lưu vực sông Ruhr ở Đức sẽ bầu cho Cộng sản hoặc ít nhất là Xã hội Chủ nghĩa với số lượng lớn. Trên khắp vùng quê, và ở các thị trấn nhỏ hay vùng ngoại ô ở Châu Âu, các cử tri bầu cho các đảng bảo thủ hay các đảng chính trị trung dung, nhưng không bao giờ bầu cho những người Cộng sản.
Nông dân Nga đã tham gia và ủng hộ Đảng Cách mạng Xã hội không phải là Cộng sản mà sau đó được gọi là những người Bolsheviks trong suốt thời gian của cuộc cách mạng. Cả trước và sau Thế Chiến Thứ Hai, những khu vực nông thôn ở Đông Âu, và đặc biệt là những nông dân giàu có đã cực lực chống lại và phá hoại các nỗ lực lập nông trường tập thể tại Ukraine, Ba Lan, Nam Tư Rumania, Đông Đức và những nơi khác. Đối với Cộng sản Châu Âu, thành phố là cơ sở hỗ trợ và phải chinh phục hoặc đánh thắng các vùng nông thôn.
Điều này thực tế đã có một tác động rất lớn vào những gì đã xảy ra với các chế độ Cộng sản trong các thập niên 1980 và 1990 tại Đông Âu, kể cả Nga. Một khi các thành phố đã lật đổ chế độ Cộng sản và thay thế nó với một chính phủ dân chủ không Cộng sản và thay thế nền kinh tế hỗn hợp với một khu vực tư nhân lớn, chủ nghĩa Cộng sản đã bị tiêu diệt. Sau cùng, các vùng nông thôn luôn chống Cộng sản!
Ở Á Châu, người ta thấy một tình hình hoàn toàn trái ngược. Khắp Á Châu cũng như Cuba, chủ nghĩa Cộng sản lan từ nông thôn vào thành phố. Trung tâm sức mạnh chính của Mao Trạch Đông, trong Thế chiến II và cuộc nội chiến tiếp theo sau đó, nằm ở nông thôn, vùng nông nghiệp tương đối thưa thớt dân cư ở Tây Bắc Trung Quốc, từ đó Cộng sản Trung Quốc lan tràn đến Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Châu và các trung tâm đô thị khác . Một khi Cộng sản của Mao đã chiếm được các thành phố nơi Quốc Dân Đảng hoặc những người quốc gia tương đối mạnh, thì coi như họ đã chinh phục tất cả Trung Quốc. Phong trào Pol Pot Khmer Đỏ là ở nông thôn và nông dân có khuynh hướng gần như cuồng tín. Nó nghiêm trị các cư dân của Nam Vang (Phnom Penh) và các trung tâm đô thị khác, giết chết hàng trăm ngàn nếu không phải hàng triệu người, và buộc những người sống sót đi làm nông dân lao động ở nông thôn.
Tuy nhiên ở Trung Quốc, một điều rất khác xa đã xảy ra. Những hy vọng của thế giới cho một nước Trung Quốc tự do, dân chủ đã tiêu tan khi xe tăng và quân đội từ nông thôn tiến vào Thiên An Môn và tàn sát hàng trăm trong số hàng ngàn sinh viên, những người đã biểu tình đòi dân chủ tại Bắc Kinh trong nhiều tháng.
Dân chủ, một nền kinh tế thị trường và việc tự do phát biểu quan điểm chính trị và văn hóa đã chiến thắng chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và thậm chí cả ở Nga, trong khi, ở Trung Quốc và trong khu vực kiểm soát Cộng sản ở Á Châu, những ảnh hưởng này đã bi đè bẹp bởi các Chính phủ Cộng sản Trung Quốc, Việt Nam, Lào và đặc biệt là, Campuchia và Bắc Triều Tiên.
Chúng ta phải đặt câu hỏi: Tại sao kết quả của phong trào hòa bình và dân chủ lại quá khác nhau giữa Âu Châu và Á Châu?
Có nhiều lý do cho những kết quả khác nhau này và một trong những lý do đầu tiên và quan trọng nhất là loại Cộng sản đặc thù ở khu vực Á Châu hoàn toàn trái ngược với loại Cộng sản ở Châu Âu.
Tại Châu Âu, ngay từ nguyên thủy, chủ nghĩa Cộng sản là một hiện tượng đô thị. Công nhân đô thị, nhất những người làm việc trong các ngành công nghiệp quy mô lớn, được coi như giai cấp vô sản, những người tiên phong của cách mạng. Cùng với các đảng Cộng sản và lãnh tụ của họ, nhiều công nhân trong các nghiệp đoàn chặt chẽ và những khu vực công nghiệp cao như Saxony hoặc lưu vực sông Ruhr ở Đức sẽ bầu cho Cộng sản hoặc ít nhất là Xã hội Chủ nghĩa với số lượng lớn. Trên khắp vùng quê, và ở các thị trấn nhỏ hay vùng ngoại ô ở Châu Âu, các cử tri bầu cho các đảng bảo thủ hay các đảng chính trị trung dung, nhưng không bao giờ bầu cho những người Cộng sản.
Nông dân Nga đã tham gia và ủng hộ Đảng Cách mạng Xã hội không phải là Cộng sản mà sau đó được gọi là những người Bolsheviks trong suốt thời gian của cuộc cách mạng. Cả trước và sau Thế Chiến Thứ Hai, những khu vực nông thôn ở Đông Âu, và đặc biệt là những nông dân giàu có đã cực lực chống lại và phá hoại các nỗ lực lập nông trường tập thể tại Ukraine, Ba Lan, Nam Tư Rumania, Đông Đức và những nơi khác. Đối với Cộng sản Châu Âu, thành phố là cơ sở hỗ trợ và phải chinh phục hoặc đánh thắng các vùng nông thôn.
Điều này thực tế đã có một tác động rất lớn vào những gì đã xảy ra với các chế độ Cộng sản trong các thập niên 1980 và 1990 tại Đông Âu, kể cả Nga. Một khi các thành phố đã lật đổ chế độ Cộng sản và thay thế nó với một chính phủ dân chủ không Cộng sản và thay thế nền kinh tế hỗn hợp với một khu vực tư nhân lớn, chủ nghĩa Cộng sản đã bị tiêu diệt. Sau cùng, các vùng nông thôn luôn chống Cộng sản!
Ở Á Châu, người ta thấy một tình hình hoàn toàn trái ngược. Khắp Á Châu cũng như Cuba, chủ nghĩa Cộng sản lan từ nông thôn vào thành phố. Trung tâm sức mạnh chính của Mao Trạch Đông, trong Thế chiến II và cuộc nội chiến tiếp theo sau đó, nằm ở nông thôn, vùng nông nghiệp tương đối thưa thớt dân cư ở Tây Bắc Trung Quốc, từ đó Cộng sản Trung Quốc lan tràn đến Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Châu và các trung tâm đô thị khác . Một khi Cộng sản của Mao đã chiếm được các thành phố nơi Quốc Dân Đảng hoặc những người quốc gia tương đối mạnh, thì coi như họ đã chinh phục tất cả Trung Quốc. Phong trào Pol Pot Khmer Đỏ là ở nông thôn và nông dân có khuynh hướng gần như cuồng tín. Nó nghiêm trị các cư dân của Nam Vang (Phnom Penh) và các trung tâm đô thị khác, giết chết hàng trăm ngàn nếu không phải hàng triệu người, và buộc những người sống sót đi làm nông dân lao động ở nông thôn.
Sau cùng, phong trào Cộng sản Hồ Chí Minh đã bắt đầu như là một lực lượng chính trong vùng đồi núi phía Bắc và phía Tây của Hà Nội. Cộng sản đã không kiểm soát được các thành phố như Hà Nội cho đến khi Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ. Cũng thế trong miền Nam Việt Nam, các thành phố Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn đã kiên trì chống lại Cộng sản cho đến ngày tàn cuộc bi thương. Hỗ trợ cho Việt Cộng chủ yếu là ở nông thôn hẻo lánh như các khu vực trong đồng bằng sông Cửu Long.
Theo kết quả của dữ kiện này, những chống đối ở đô thị trong các nước Cộng sản Á Châu đã không có hiệu quả như ở Châu Âu. Chính phủ Cộng sản ở Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia luôn luôn có thể dựa vào hỗ trợ từ nông thôn. Các vùng nông thôn Á Châu đã ủng hộ cho Cộng sản nhiều hơn so với các đối tác bên châu Âu.
Một yếu tố thứ hai góp phần vào sự bền vững của chế độ Cộng sản ở Á Châu là tương đối thiếu ảnh hưởng của việc chống Cộng từ bên ngoài so với tình hình mà Cộng sản Đông Âu phải đối đầu. Trong suốt những năm 1950, 1960, 1970 và 1980, Đông Âu đã bị tấn công tới tấp với chương trình phát sóng chống Cộng sản từ Radio Free Europe, một hệ thống chống Cộng tư nhân, Voice Of America, và BBC. Tây Berlin , một vùng đất chống Cộng sản nằm sâu trong lãnh thổ Cộng sản, được dùng như một cái loa để phát tán các bài phát biểu chống Cộng sản của Tổng thống John Kennedy và của Tổng thống Ronald Reagan: “Gorbachev (ich bin ein Berliner) hãy phá đổ bức tường này đi”. Lời tuyên bố này đã có một tác động rất lớn trên những người sống phía sau Bức Màn Sắt.
Dân số rất lớn từ Đông Âu (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Đức, vv) đã đến sống tại Hoa Kỳ vào lúc này. Sự hiện diện và ảnh hưởng chính trị của họ đã dẫn đến những hoạt động đặc biệt tại Hoa Kỳ như “Tháng hay Tuần lễ “các Quốc gia bị Lệ thuộc” (Captive Nations). Quốc gia bị Lệ thuộc muốn ám chỉ các quốc gia ở Âu Châu đã bị rơi vào tay Cộng sản và do đó, nằm dưới ngôi mộ hay sự thống trị của Liên Xô. Những sự kiện như thế đã dẫn đến các cuộc mít tinh và biểu tình chính trị để dồn sự chú ý liên lục của nước Mỹ và Quốc tế vào hoàn cảnh của các nước Đông Âu.
Đơn giản là các nước Á Châu nằm dưới sự cai trị cộng sản đã không có được cùng một loại thông cảm và sự quan tâm này. Cộng đồng người Hoa ở Mỹ là một nhóm nhỏ hơn nhiều so với cộng đồng Ba Lan, Đức và Hung Gia Lợi . Những cộng đồng người Mỹ thiểu số thiểu số khác, có gốc từ Đông Âu, người tị nạn Việt Nam, Campuchia và Hàn Quốc thậm chí còn nhỏ hơn. Sau hết, người Mỹ gốc Hoa và những người Mỹ chống Cộng đã tập trung sự quan tâm của họ vào Đài Loan và củng cố Chính phủ Quốc Dân Đảng ở đó hơn là giải phóng hay là dân chủ hóa Hoa lục.
Cuối cùng, Đông Âu đã là nơi diễn ra cuộc nổi dậy chống Cộng sản đầu tiên, hay cách mạng. Năm 1952, công nhân Đông Đức ở Berlin và các thành phố khác nổi dậy chống lại Chính quyền Cộng sản Đông Đức, một chính phủ áp bức hơn bất cứ ở nơi nào khác. Cuộc nổi dậy của họ đã bị dập tắt với xe tăng Liên Xô và quân đội. Trong năm 1956 và 1957, Hung Gia Lợi tiến hành một cuộc nổi dậy không thành công nhưng anh hùng nhằm lật đổ một chính phủ tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, và trong số những đòi hỏi khác, hợp pháp hóa các đảng chính trị không Cộng sản, ủng hộ một nền kinh tế hỗn hợp với một khu vực tư nhân và chủ trương giữ Hung Gia Lợi trung lập trong Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây. Các cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi đã bị dẹp tan, nhưng chỉ sau khi Liên Xô can thiệp mạnh, làm nhiều người thiệt mạng. Hậu quả của cuộc nổi dậy là có trên 100.000 người Hung Gia Lợi đi tị nạn và họ đã trở thành một lực lượng chính trị mạnh ghê gớm, hoạt động chống lại chủ nghĩa Cộng sản ở Châu Âu. Cuối cùng nhưng không kém quan trọng, trong khi cuộc cách mạng Hung Gia Lợi đang diễn ra, Cộng sản Ba Lan đã thi hành một loạt các cải cách chống lại đường lối chủ nghĩa Cộng sản cứng rắn. Trong số những việc đáng kể, Chính phủ Ba Lan đã chấm dứt việc thành lập các nông trường tập thể ở nông thôn, và cho phép nông dân Ba Lan được giữ đất đai của họ. Chính phủ cũng cho phép dạy giáo lý Công giáo La Mã trong các trường công, và chính phủ cũng cho phép lập một đại học tư nhân duy nhất trên thế giới trong một quốc gia Cộng sản, Đại học Công giáo Lublin.
Ở Á Châu đã hầu như hoàn toàn không có một cuộc nổi loạn chống lại chế độ Cộng sản trên quy mô của những gì đã xảy ra ở Đông Âu. Các cuộc nổi dậy của Tây Tạng vào cuối những năm 1950 là để chống Trung Quốc hơn là chống Cộng sản. Ngoài ra, có một số ổ kháng cự cuối cùng chống lại chế độ Cộng sản ở Tây Nam Trung Quốc, dọc theo biên giới Miến Điện và tại Việt Nam sau khi Sài Gòn thất thủ, nhưng không phải là những cuộc nổi loạn mới như cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi năm 1956. Sau hết, người dân sống trong các nước Cộng sản kiểm soát như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Triều Tiên, bị cô lập nhiều hơn hoặc bị cắt liên lạc với thế giới phi cộng sản. Hiện không có một Tây Berlin ở Á Châu Cộng sản.
Một yếu tố khác nhấn mạnh sự khác biệt giữa Á Châu và Âu Châu là yếu tố lãnh đạo. Ngoại trừ ở Nga dưới thời Stalin, Nam Tư dưới Tito, Rumania dưới Ceauşescu và Enhver Hoxha ở Albania, tất cả các nhà lãnh đạo Cộng sản Đông Âu đều là các lãnh tụ vô danh, các sĩ quan quân đội không có gì hấp dẫn hoặc những cán bộ Cộng sản không có sức lôi cuốn. Những lãnh tụ này bị dân chúng mà họ cai trị coi như là những bù nhìn của Liên Xô. Mặt khác, hai nhà lãnh đạo nổi tiếng và có sức lôi cuốn nhất trong nước Cộng sản Ba Lan là Lech Walesa, lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, một phong trào lao động chống Cộng sản, và giáo hoàng John Paul II.
Các nhà lãnh đạo Cộng sản lớn và có sức lôi cuốn ở Đông Âu – Tito tại Nam Tư, Ceauşescu ở Rumania và Enhver Hoxha ở Albania – là những lãnh tụ đã chống Xô viết và thường xuyên chỉ trích hiệp ước Warsaw. Tito đã chấp nhận một khu vực tư nhân lớn trong nền kinh tế Nam Tư, và ông đã từ chối tham gia hiệp ước Warsaw, thay vào đó, thích đi theo một chính sách trung lập. Ceauşescu thương lượng với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, thách thức lại Liên Xô, và quan trọng nhất, ông tiếp tục công nhận Do Thái sau cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967 khi tất cả các nước Cộng sản Đông Âu khác đã chấm dứt quan hệ với Do Thái và kịch liệt thân khối Á Rập. Cuối cùng, Hoxha đã mạnh mẽ lên án cả Liên Xô và Trung Quốc. Albania rút ra khỏi hiệp ước Warsaw vào đầu thập niên 1960.
Cuối cùng, có thể cho rằng, với ngoại lệ của Lenin, lãnh đạo có uy tín và thực sự mạnh mẽ của Liên Xô là Joseph Stalin, ngẫu nhiên, không phải là người Âu. Stalin đến từ nước Cộng hoà Georgia thuộc Á Châu và vì thực tế này, ông đã cai trị nước Nga giống như một nhà lãnh đạo Cộng sản Á Châu hơn là một người Châu Âu. Chẳng có nhà lãnh đạo Liên Xô nào sau Stalin có có sức lôi cuốn gần như siêu nhiên của ông ta. Nikita Khrushchev, người kế tiếp Stalin, giống như là một chú hề, và các chính sách đối nội và đối ngoại của ông ta đã thất bại thảm thuơng. Leonid Brezhnev, người sau Khrushchev, là một hành chính viên không ai biết mặt, đã vụng về đưa Liên Xô vào một cuộc chiến tranh vô vọng ở Afghanistan . Những người kế vị Brezhnev thậm chí còn kém thành công hơn nữa, trong đó có Mikhail Gorbachev, người đã bất đắc dĩ phải chủ trì sự sụp đổ, “cái chết” của Liên Xô.
Cũng như Liên Xô bắt đầu tan rã, chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ tại Nam Tư sau cái chết của Tito, ở Rumania sau khi hành quyết Ceauşescu, và tại Albania sau cái chết của Hoxha.
Cuối cùng, các nhà lãnh đạo Cộng sản Âu Châu đã bị phỉ báng và bị khước từ sau cái chết của họ và ảnh hưởng của họ tan biến. Điều này đã đúng ngay cả cho Stalin.
Các nhà lãnh đạo Cộng sản Á Châu đã tạo ra một sự tương phản rò ràng so với các đối tác Âu Châu của họ. Điều này cũng áp dụng vào trường hợp Fidel Castro và Che Guevara. Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot, Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) và Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) đã được tôn thờ như Chúa hoặc Hoàng đế bởi những người theo Cộng sản của họ. Thậm chí ngày nay, ở Trung Quốc, mặc dù nhiều chính sách của Mao đã thay đổi, Mao đã không bị tấn công. Ở Trung Quốc đã tuyệt đối không có vần đề bài Mao như đã bài Stalin ở Liên Sô. Ngược lại Mao đã và đang là một hoàng đế đầy quyền lực chẳng khác gì Tần Thuỷ Hoàng hay vua Càn Long vậy. Ảnh hưởng của ông còn dài dài sau khi ông chết. Kim Nhật Thành là quốc trưởng chính thức của nhà nước Bắc Triều Tiên, dù ông ta đã chết hai thập kỷ trước đây. Đại sứ nước ngoài phải xuất trình Giấy chứng nhận của họ cho vị lãnh tụ vĩ đại này, không phải cho vị quốc trưởng đương nhiệm của nhà nước là Kim Chính Nhật, “Vị lãnh tụ kính yêu”.
Theo kết quả của dữ kiện này, những chống đối ở đô thị trong các nước Cộng sản Á Châu đã không có hiệu quả như ở Châu Âu. Chính phủ Cộng sản ở Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia luôn luôn có thể dựa vào hỗ trợ từ nông thôn. Các vùng nông thôn Á Châu đã ủng hộ cho Cộng sản nhiều hơn so với các đối tác bên châu Âu.
Một yếu tố thứ hai góp phần vào sự bền vững của chế độ Cộng sản ở Á Châu là tương đối thiếu ảnh hưởng của việc chống Cộng từ bên ngoài so với tình hình mà Cộng sản Đông Âu phải đối đầu. Trong suốt những năm 1950, 1960, 1970 và 1980, Đông Âu đã bị tấn công tới tấp với chương trình phát sóng chống Cộng sản từ Radio Free Europe, một hệ thống chống Cộng tư nhân, Voice Of America, và BBC. Tây Berlin , một vùng đất chống Cộng sản nằm sâu trong lãnh thổ Cộng sản, được dùng như một cái loa để phát tán các bài phát biểu chống Cộng sản của Tổng thống John Kennedy và của Tổng thống Ronald Reagan: “Gorbachev (ich bin ein Berliner) hãy phá đổ bức tường này đi”. Lời tuyên bố này đã có một tác động rất lớn trên những người sống phía sau Bức Màn Sắt.
Dân số rất lớn từ Đông Âu (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Đức, vv) đã đến sống tại Hoa Kỳ vào lúc này. Sự hiện diện và ảnh hưởng chính trị của họ đã dẫn đến những hoạt động đặc biệt tại Hoa Kỳ như “Tháng hay Tuần lễ “các Quốc gia bị Lệ thuộc” (Captive Nations). Quốc gia bị Lệ thuộc muốn ám chỉ các quốc gia ở Âu Châu đã bị rơi vào tay Cộng sản và do đó, nằm dưới ngôi mộ hay sự thống trị của Liên Xô. Những sự kiện như thế đã dẫn đến các cuộc mít tinh và biểu tình chính trị để dồn sự chú ý liên lục của nước Mỹ và Quốc tế vào hoàn cảnh của các nước Đông Âu.
Đơn giản là các nước Á Châu nằm dưới sự cai trị cộng sản đã không có được cùng một loại thông cảm và sự quan tâm này. Cộng đồng người Hoa ở Mỹ là một nhóm nhỏ hơn nhiều so với cộng đồng Ba Lan, Đức và Hung Gia Lợi . Những cộng đồng người Mỹ thiểu số thiểu số khác, có gốc từ Đông Âu, người tị nạn Việt Nam, Campuchia và Hàn Quốc thậm chí còn nhỏ hơn. Sau hết, người Mỹ gốc Hoa và những người Mỹ chống Cộng đã tập trung sự quan tâm của họ vào Đài Loan và củng cố Chính phủ Quốc Dân Đảng ở đó hơn là giải phóng hay là dân chủ hóa Hoa lục.
Cuối cùng, Đông Âu đã là nơi diễn ra cuộc nổi dậy chống Cộng sản đầu tiên, hay cách mạng. Năm 1952, công nhân Đông Đức ở Berlin và các thành phố khác nổi dậy chống lại Chính quyền Cộng sản Đông Đức, một chính phủ áp bức hơn bất cứ ở nơi nào khác. Cuộc nổi dậy của họ đã bị dập tắt với xe tăng Liên Xô và quân đội. Trong năm 1956 và 1957, Hung Gia Lợi tiến hành một cuộc nổi dậy không thành công nhưng anh hùng nhằm lật đổ một chính phủ tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, và trong số những đòi hỏi khác, hợp pháp hóa các đảng chính trị không Cộng sản, ủng hộ một nền kinh tế hỗn hợp với một khu vực tư nhân và chủ trương giữ Hung Gia Lợi trung lập trong Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây. Các cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi đã bị dẹp tan, nhưng chỉ sau khi Liên Xô can thiệp mạnh, làm nhiều người thiệt mạng. Hậu quả của cuộc nổi dậy là có trên 100.000 người Hung Gia Lợi đi tị nạn và họ đã trở thành một lực lượng chính trị mạnh ghê gớm, hoạt động chống lại chủ nghĩa Cộng sản ở Châu Âu. Cuối cùng nhưng không kém quan trọng, trong khi cuộc cách mạng Hung Gia Lợi đang diễn ra, Cộng sản Ba Lan đã thi hành một loạt các cải cách chống lại đường lối chủ nghĩa Cộng sản cứng rắn. Trong số những việc đáng kể, Chính phủ Ba Lan đã chấm dứt việc thành lập các nông trường tập thể ở nông thôn, và cho phép nông dân Ba Lan được giữ đất đai của họ. Chính phủ cũng cho phép dạy giáo lý Công giáo La Mã trong các trường công, và chính phủ cũng cho phép lập một đại học tư nhân duy nhất trên thế giới trong một quốc gia Cộng sản, Đại học Công giáo Lublin.
Ở Á Châu đã hầu như hoàn toàn không có một cuộc nổi loạn chống lại chế độ Cộng sản trên quy mô của những gì đã xảy ra ở Đông Âu. Các cuộc nổi dậy của Tây Tạng vào cuối những năm 1950 là để chống Trung Quốc hơn là chống Cộng sản. Ngoài ra, có một số ổ kháng cự cuối cùng chống lại chế độ Cộng sản ở Tây Nam Trung Quốc, dọc theo biên giới Miến Điện và tại Việt Nam sau khi Sài Gòn thất thủ, nhưng không phải là những cuộc nổi loạn mới như cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi năm 1956. Sau hết, người dân sống trong các nước Cộng sản kiểm soát như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Triều Tiên, bị cô lập nhiều hơn hoặc bị cắt liên lạc với thế giới phi cộng sản. Hiện không có một Tây Berlin ở Á Châu Cộng sản.
Một yếu tố khác nhấn mạnh sự khác biệt giữa Á Châu và Âu Châu là yếu tố lãnh đạo. Ngoại trừ ở Nga dưới thời Stalin, Nam Tư dưới Tito, Rumania dưới Ceauşescu và Enhver Hoxha ở Albania, tất cả các nhà lãnh đạo Cộng sản Đông Âu đều là các lãnh tụ vô danh, các sĩ quan quân đội không có gì hấp dẫn hoặc những cán bộ Cộng sản không có sức lôi cuốn. Những lãnh tụ này bị dân chúng mà họ cai trị coi như là những bù nhìn của Liên Xô. Mặt khác, hai nhà lãnh đạo nổi tiếng và có sức lôi cuốn nhất trong nước Cộng sản Ba Lan là Lech Walesa, lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, một phong trào lao động chống Cộng sản, và giáo hoàng John Paul II.
Các nhà lãnh đạo Cộng sản lớn và có sức lôi cuốn ở Đông Âu – Tito tại Nam Tư, Ceauşescu ở Rumania và Enhver Hoxha ở Albania – là những lãnh tụ đã chống Xô viết và thường xuyên chỉ trích hiệp ước Warsaw. Tito đã chấp nhận một khu vực tư nhân lớn trong nền kinh tế Nam Tư, và ông đã từ chối tham gia hiệp ước Warsaw, thay vào đó, thích đi theo một chính sách trung lập. Ceauşescu thương lượng với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, thách thức lại Liên Xô, và quan trọng nhất, ông tiếp tục công nhận Do Thái sau cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967 khi tất cả các nước Cộng sản Đông Âu khác đã chấm dứt quan hệ với Do Thái và kịch liệt thân khối Á Rập. Cuối cùng, Hoxha đã mạnh mẽ lên án cả Liên Xô và Trung Quốc. Albania rút ra khỏi hiệp ước Warsaw vào đầu thập niên 1960.
Cuối cùng, có thể cho rằng, với ngoại lệ của Lenin, lãnh đạo có uy tín và thực sự mạnh mẽ của Liên Xô là Joseph Stalin, ngẫu nhiên, không phải là người Âu. Stalin đến từ nước Cộng hoà Georgia thuộc Á Châu và vì thực tế này, ông đã cai trị nước Nga giống như một nhà lãnh đạo Cộng sản Á Châu hơn là một người Châu Âu. Chẳng có nhà lãnh đạo Liên Xô nào sau Stalin có có sức lôi cuốn gần như siêu nhiên của ông ta. Nikita Khrushchev, người kế tiếp Stalin, giống như là một chú hề, và các chính sách đối nội và đối ngoại của ông ta đã thất bại thảm thuơng. Leonid Brezhnev, người sau Khrushchev, là một hành chính viên không ai biết mặt, đã vụng về đưa Liên Xô vào một cuộc chiến tranh vô vọng ở Afghanistan . Những người kế vị Brezhnev thậm chí còn kém thành công hơn nữa, trong đó có Mikhail Gorbachev, người đã bất đắc dĩ phải chủ trì sự sụp đổ, “cái chết” của Liên Xô.
Cũng như Liên Xô bắt đầu tan rã, chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ tại Nam Tư sau cái chết của Tito, ở Rumania sau khi hành quyết Ceauşescu, và tại Albania sau cái chết của Hoxha.
Cuối cùng, các nhà lãnh đạo Cộng sản Âu Châu đã bị phỉ báng và bị khước từ sau cái chết của họ và ảnh hưởng của họ tan biến. Điều này đã đúng ngay cả cho Stalin.
Các nhà lãnh đạo Cộng sản Á Châu đã tạo ra một sự tương phản rò ràng so với các đối tác Âu Châu của họ. Điều này cũng áp dụng vào trường hợp Fidel Castro và Che Guevara. Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot, Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) và Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) đã được tôn thờ như Chúa hoặc Hoàng đế bởi những người theo Cộng sản của họ. Thậm chí ngày nay, ở Trung Quốc, mặc dù nhiều chính sách của Mao đã thay đổi, Mao đã không bị tấn công. Ở Trung Quốc đã tuyệt đối không có vần đề bài Mao như đã bài Stalin ở Liên Sô. Ngược lại Mao đã và đang là một hoàng đế đầy quyền lực chẳng khác gì Tần Thuỷ Hoàng hay vua Càn Long vậy. Ảnh hưởng của ông còn dài dài sau khi ông chết. Kim Nhật Thành là quốc trưởng chính thức của nhà nước Bắc Triều Tiên, dù ông ta đã chết hai thập kỷ trước đây. Đại sứ nước ngoài phải xuất trình Giấy chứng nhận của họ cho vị lãnh tụ vĩ đại này, không phải cho vị quốc trưởng đương nhiệm của nhà nước là Kim Chính Nhật, “Vị lãnh tụ kính yêu”.
Rồi sau đó có Hồ Chí Minh, một vị hoàng đế đỏ khác, người có quyền lực kéo dài từ cõi chết. Điều khác biệt giữa sự kính sợ và tôn trọng dành cho các nhà lãnh đạo Cộng sản Á Châu trái ngược với đối tác Âu Châu ít được thần phục hơn có thể giải thích tại sao Cộng sản không thành công ở Châu Âu, nhưng vẫn tiếp tục ở Á Châu.
Cũng cần thiết phải nói về hai cường quốc Cộng sản Trung Quốc và Nga, và để thảo luận về tác động khác nhau của hai nước này đối các nước láng giềng Cộng sản của họ.
Vị trí của nước Nga nằm ở phía Đông của Châu Âu. Trong quá khứ, xét vể phương diện lịch sử, nước này đã từng bị các nước láng giềng tại Âu Châu xem thường và khinh miệt. Ba Lan xâm lấn Nga trong những năm 1600 và chiếm đóng Moscow. Quân đội đế quốc Pháp của Napoleon cũng đã xâm chiếm Nga trong thời gian đầu thế kỷ 18. Cuối cùng, Đức đã xâm chiếm và tàn phá nước Nga hai lần trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất và Thứ Hai.
Nga đã có một ảnh hưởng văn hóa rất hạn chế ở Châu Âu. Bảng chữ cái Cyrillic của Nga không được sử dụng bởi bất kỳ quốc gia Âu Châu nào trước đây là Cộng sản, ngoại trừ Serbia, Macedonia, Montenegro, Bosnia, Ukraine và Belarus. Ngoài ra còn có một khoảng cách tôn giáo lớn giữa Nga và các láng giềng Đông Âu. Các nước vùng Baltic, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Croatia, Slovenia và Đông Đức hoặc theo Cơ Đốc Giáo hệ phái Luther hoặc theo đạo Công giáo La Mã, và họ sử dụng bảng chữ cái Latin. Người Nga theo Chính Thống Giáo Đông Phương, một hình thức của Kitô giáo. Các nước Cộng sản Đông Âu theo Chính Thống Giáo Đông Phương có những Giáo Hội Chính Thống quốc gia riêng, khác nhau về một số điểm với Giáo hội Chính thống Nga.
Ngôn ngữ tiếng Nga hoặc các biến thể của nó chỉ được nói ở Nga, Ukraine và Belarus. Tiếng Đức, Lithuania, Estonia, Latvia, Hung Gia Lợi, và Rumani hoàn toàn khác tiếng Nga, và thậm chí cả trong trường hợp của ngôn ngữ Slav khác như Ba Lan, tiếng Serbi-Croatia hoặc Czech, có sự khác biệt đáng kể giữa họ và Nga.
Ngày lễ của Nga, y phục, ẩm thực, thái độ đối với cuộc sống rất khác với các nước Cộng sản Đông Âu, ngoại trừ có thể có ngoại lệ là Ukraine và Belarus . Ngay cả huyền thoại người Nga và văn hóa dân gian cũng khác với các nước Đông Âu khác.
Cuối cùng, hơn một nửa đất đai của Nga thuộc Á Châu (Siberia). Nga đã trở nên Á và ít Âu hơn sau khi Ukraine và Belarus đã trở thành độc lập. Dân số của Nga cũng đang giảm. Chỉ có 140 triệu người sống trong những gì bây giờ là Nga. Âu Châu đã coi Nga là một lãnh thổ biên cương hoang dã, không văn minh, một nửa Á Châu, dã man. Tất cả các điều này có thể không đúng, nhưng người ta tin rằng nhiều người Châu Âu, đặc biệt là những người sống ở Đông Âu nghĩ như vậy (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Lithuania, v.v.)
Mối quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng Cộng sản và không Cộng sản hoàn toàn khác với Nga. Các nước láng giềng có thể bực bội hoặc thậm chí ghét Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không bao giờ bị coi như là man rợ, thiếu văn minh hoặc kém văn hóa. Không giống như Nga, các nước lân cận vừa tôn trọng và cũng vừa sợ Trung Quốc.
Nền văn minh Nga hiện có khoảng 1.500 năm tuổi. Nền văn minh Trung Quốc (lâu đời nhất trên trái đất) thì ít nhất đã 5.000 năm tuổi. Trung Quốc là nước lớn thứ ba trên thế giới, và dân số của nước này là một tỷ năm trăm triệu, lớn hơn so với bất kỳ nước nào khác. Trung Quốc là một nước rất to lớn, hoàn toàn thống trị bản đồ Đông Á. So với Trung Quốc về địa lý, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam và Lào là những mãnh đất vụn nhỏ, so với anh khổng lồ Trung Quốc. Cuối cùng, người Hoa thiểu số ở Indonesia, Malaysia , Nepal , Ấn Độ và Á Châu khác thường là hang ổ của Chủ nghĩa Mao. Ngược lại, người Nga thiểu số sống ở các nước ngoài nước Nga, thường đa số chống Cộng. Rất khó lật đổ chế độ Cộng sản ở Lào, Việt Nam hoặc Bắc Triều Tiên khi Trung Quốc vẫn còn là Cộng sản.
Một yếu tố cuối cùng, phải được xem xét khi nói về các đường lối khác nhau đã được thực hiện bởi Cộng Sản Âu Châu so với Cộng sản Á Châu, đó là việc chống chủ nghĩa đế quốc. Tại Cuba, Trung Quốc, Lào, Cộng sản đã có thể lợi dụng sự phẫn uất tự nhiên với đế quốc Pháp, Anh, Nhật hay Mỹ. Họ có thể đóng vai người yêu nước đấu tranh để đánh đuổi ra khỏi nước nhà cầm quyền nước ngoài đã bị dân chúng chán ghét. Tại Châu Âu, một lần nữa, sự thật là ngược lại. Cộng sản Âu Châu đã chống lại người quốc gia, và chống đế quốc. Nhưng Âu Châu là cái nôi của chủ nghĩa đế quốc. Chống lại chủ nghĩa đế quốc ở Anh, Pháp hoặc Hoà Lan bị coi là không yêu nước và phá hoại. Cộng sản ở Âu Châu hát bài “Quốc Tế Ca” và chủ trương đấu tranh giai cấp toàn bộ với chủ nghĩa tư bản và người Anh, Pháp, Hà Lan và các Đế quốc khác. Điều này đặt Cộng sản Âu Châu vào cuộc xung đột trực tiếp với các dân tộc Anh, Pháp hoặc Đức.
Để kết luận, có thể nói rằng mặc dù có thể mất một khoảng thời gian lâu hơn ở Á Châu hơn là ở Châu Âu, chủ nghĩa Cộng sản ở Á Châu vẫn có thể bị lật đổ hoặc thay thế. Ví dụ, các tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa (Paracel islands) và Trường Sa (Spratly islands) đã đặt người Việt quốc gia và Cộng sản vào một cuộc xung đột trực tiếp với nhau.
Khi đô thị hóa phát triển tại Việt Nam và các nước Á Châu khác, và con số nông dân giảm đi, ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản ở Á Châu sẽ suy giảm. Ngoài ra, việc đô thị hóa sẽ làm cho người ta phụ thuộc lớn hơn vào công nghệ và kinh tế toàn cầu. Điều này sẽ tăng cường thêm mối liên hệ với thế giới không Cộng sản và tiếp tục làm suy yếu chủ nghĩa Cộng sản. Với một mức độ giáo dục cao hơn, số lượng trí thức chống Cộng sẽ tăng lên.
Cuối cùng, sự bành trướng và mối quan tâm đến tôn giáo lên cao hơn ở khắp các nước Cộng sản Á Châu sẽ tiếp tục làm suy yếu quyền lực của chế độ Cộng sản. Tất cả những yếu tố này cộng với một khu vực tư nhân mạnh mẽ hơn trong nền kinh tế sẽ dần dần tạo ra một Á Châu dân chủ, không Cộng sản.
Cước chú của người dịch: Quý Ông Phạm Sứ Mạnh ở San Jose, CA, Ông Nguyễn Long Giáp ở Úc, và Ông Trần Ngọc Dụng ở Anaheim, CA, đã đóng góp rất nhiều vào việc sửa chữa bản dịch này. Tuy nhiên, những thiếu sót, hay sai lạc là trách nhiệm người của người dịch. Rất cám ơn.
Tuấn Vũ
Nguồn:danchimviet.com