Monday, December 15, 2014

Ðồng Nai

Xóm dân chài bên cầu Ðồng Nai


 Khi đi trên quốc lộ 1 từ Sài Gòn qua cầu Ðồng Nai, đến ngã ba Vũng Tàu, nhìn cảnh chen chúc làm ăn của các tập đoàn tư bản nội địa và ngoại quốc bên các cảng sông cao ngất các thùng container... không ai nghĩ có nhánh sông gần cầu Ðồng Nai vẫn còn một xóm dân chài nghèo xơ xác.


Cảnh nhà một dân chài trên sông Ðồng Nai mỗi chiều về.



Theo đường vào nhà thờ Bến Gỗ, quẹo vào một con hẻm hẹp, qua ngôi chợ trưa lưa thưa người bán, chúng tôi càng vào sâu càng không nghĩ sẽ được ra một cửa sông thoáng mát, mà chỉ mong con hẻm chỉ vừa đủ hai chiếc xe gắn máy tránh nhau này sẽ không dài hơn nữa.
Vòng ra phía sau nhà thờ Bến Gỗ, tiếng nhạc đám ma của người vừa khuất là âm thanh duy nhất khuấy động buổi trưa vắng lặng.
Ði qua xóm nhà thu mua cá với con mương nước đen chảy rỉ rả, chúng tôi ra được bến ghe. Bến ghe này chỉ là một trong nhiều bến ghe của xóm chài, đưa người xuống những nhà chòi cất trên nền các thùng nhựa neo trên mặt sông và những bè cá cũ nát. Bến ghe này cũng là nơi đưa người dân từ bờ Bến Gỗ qua cù lao Năm C.


Bà rước cháu từ nhà trẻ về xóm chài. Ðược gởi con ở nhà trẻ trên bờ là mơ ước của nhiều dân chài nghèo Xóm Bắc.

Nắng trưa tháng 12 dịu mát, bên dưới bến ghe là hai chiếc xuồng cũ mục. Nhà nhiếp ảnh Trần Việt Ðức cất giọng hỏi người đàn bà đang ngồi trên xuồng, “Chị ơi, có thể đưa chúng tôi đi vài vòng xóm chài không?” Người đàn bà trả lời đang bận chờ người thân. Anh Trần Việt Ðức quay sang hỏi chàng trai ở trần, đang ngồi trên xuồng với một con chó. Chàng trai có vẻ ngại nhưng rồi anh gật đầu.
Chúng tôi xuống xuồng, chiếc xuồng cũ chở thêm người nên mạch nước từ be xuồng rỉ ra thành dòng. Chàng trai hỏi chúng tôi là nhà báo hay đoàn làm phim. Khi được biết là dân chụp ảnh tài tử, anh có vẻ yên tâm. Anh nói, “Thấy mấy chú có máy ảnh, tưởng người nhà nước đi chụp ảnh để giải tỏa xóm chài này.”
Chàng trai như mọi người dân ở nơi đây vẫn giữ thói quen chèo xuồng bằng hai chân như ông bà từ thời 1954 di cư vào Nam. Tên thường gọi của xóm chài này là Xóm Bắc. Cả Xóm Bắc này có khoảng vài trăm nóc nhà trên sông và trên bờ, gần như chỉ làm mỗi một nghề đánh bắt cá và nuôi cá bè.


Xuồng là phương tiện duy nhất đưa người bên Xóm Bắc qua cù lao Năm C.

Nghề nuôi cá bè ở đây khác với những làng cá bè ở miền Tây hay ở thượng nguồn sông Ðồng Nai vì không nuôi cá xuất khẩu, bè cá chỉ là nơi để rộng những loài cá sông mà họ đánh bắt được chờ có giá hay chờ cá lớn mà bán cho lái cá quanh các chợ nhỏ.
Một ngư dân trung niên cho biết. Mùa cá rộ quanh các khúc sông Ðồng Nai này vào tháng 5, còn quanh năm đều có đủ loại cá nước ngọt dù so với thời ông bà trước lượng cá không còn nhiều.
Chàng trai chèo xuồng nói, “Lúc này đang mùa cá cơm. Mấy chú muốn mua về ăn không?” Rồi anh giải thích cá cơm nước ngọt nhỏ nhưng thịt thơm ngon lắm. Vào mùa cá cơm, dân chài Xóm Bắc đi đánh lưới cá cơm vào lúc trời sập tối. Nếu trúng thì kiếm được vài trăm ngàn mỗi ngày, riêng những mùa còn lại trong năm thì vướng lưới con gì cũng bắt hết để có miếng ăn.


Người ngư phủ trẻ trên sông Ðồng Nai.

Chiếc xuồng cũ nát đưa chúng tôi quanh quanh các nhà chòi trên sông. Cảnh người nhà nghèo bám vào mặt nước để sống thì khắp Việt Nam nơi nào cũng giống nhau. Khi nói rằng đời người kiếm sống theo sông nước là đời tạm bợ, nhưng nhìn lại thì khoảng thời gian gọi là tạm bợ của họ đã kéo dài từ thế hệ này qua đến thế hệ khác.
Chàng trai chèo xuồng kể, “Nghề này bố mẹ cháu nối tiếp từ ông bà, mãi đến khi bố mất, nhà cháu mới có được hai anh chị lên bờ làm công ty, cháu học đến lớp ba thì nghỉ và theo mẹ làm nghề.” Chúng tôi hỏi, nếu chính quyền giải tỏa xóm chài thì anh định làm nghề gì. Anh cười nói, “Còn cá dưới sông thì giải tỏa thế nào được.”
Khi đi qua chỗ có một nhà bè làm nghề giữ trẻ. Nhà nhiếp ảnh Trần Việt Ðức cho biết, anh có nghe qua những trường hợp có gia đình neo đơn không người trông con nít nên nhốt con trong cái chuồng trên nhà bè mỗi khi đi đánh bắt cá. Anh chàng chèo xuồng nói, “Từ trước đến giờ ai cũng làm thế mà, nghèo, tiền đâu mà gởi con.”


Chỉ một nhánh sông hẹp Ðồng Nai mà có hơn trăm nóc nhà dân chài nghèo.

Chiều tắt nắng, anh chèo xuồng đưa chúng tôi quay lại bến ghe để kịp đi đánh lưới đêm. Khi chúng tôi lên bờ cũng là lúc mẹ anh chuẩn bị bước xuống ghe để hai mẹ con cùng đi đánh lưới. Bà mẹ mời chúng tôi đi cùng cho biết, rồi như bà đoán được chúng tôi sợ đi trên chiếc xuồng mục nát. Chỉ vào chiếc ghe to hơn có gắn máy đang neo gần đó bà nói, “Hôm khác các anh muốn đi cho biết thì đi trên chiếc ghe đó, không phải sợ.” Ðúng là chiếc ghe bà chỉ, có lớn hơn nhưng dù tiếng máy dầu nổ nghe giòn tai cũng có vẻ chấp vá, bấp bênh vẫn không khác chiếc xuồng là mấy.
Nhìn chiếc ghe của hai mẹ con xuôi dòng nhá nhem tối, phía xa là chóp đỉnh ngất ngưởng của các tòa cao ốc và ánh đèn điện cầu Ðồng Nai.
Ðâu ai có thể tiên đoán được rằng, liệu chàng trai chèo xuồng và những người con Xóm Bắc có tìm thấy bến bờ an cư, nghề nghiệp mới ổn định cho thế hệ con cháu tiếp theo của gia đình mình hay lại chạy giải tỏa mà tìm đến khúc sông khác, tiếp tục sống đời bập bềnh trên sông, đặt nguồn sống vào những loài cá nước ngọt đang dần cạn kiệt.

Trần Tiến Dũng