Sunday, August 9, 2015

R.I.P
Nhà thơ NGUYỄN BẮC SƠN

bac son 1


2- NGUYỄN BẮC SƠN: BI KỊCH BỐ CON TÔI

Nhà thơ Nguyễn bắc Sơn sinh tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, tên thật là Nguyễn văn Hải. Thuở nhỏ học hành dang dở vì hoàn cảnh gia đình chỉ có mẹ, còn người cha tập kết ra Bắc năm 1954. Chính cái bút hiệu Nguyễn bắc Sơn, theo sự thố lộ của đương sự, là để nhớ về người cha Việt Cộng đang phục vụ tại rừng núi Bắc Sơn, Bắc Việt. Một lý do khác khiến Hải bỏ học sớm, vì sức khỏe yếu, tinh thần bạc nhược khác đời, điên điên, tỉnh tỉnh bất thường. Ðây cũng là cái phần phúc của trời ban, cho nên chỉ trong một sớm một chiều, khi bài thơ ‘chiến tranh Việt Nam và tôi‘ được Bách Khoa đăng vào đầu thập niên 1960, đã đưa Nguyễn bắc Sơn lên đài danh vọng, về mặt làm thơ phản chiến và thiền vị. Sau năm 1975, người cha tập kết trở về, ngoài cái già nua của một phần đời sống bằng tem phiếu, còn đeo theo gia tài của đảng ban phát qua cuộc hôn nhân xả nghĩa. Cũng kể từ đó, nhà thơ mới chịu mở mắt, qua tiếng khóc nức nở nghẹn ngào của mẹ, một đời, khóa chặt hồn xuân để làm sương phụ, nuôi con, đợi chồng ngoài quan tái và nhức nhối là cái chết của người cha VC bị VC thanh toán nội bộ qua một tai nạn lưu thông được dàn dựng tại Ngả Ba Bình Tuy Phan Thiết.


‘…bố tôi qua đời đúng năm năm,
tôi viết bài thơ này
để tâm sự một người khuất núi
thuở sinh tiền
ông rất thương tôi
đúng là hai người đàn ông có bề ngoài lãnh đạm
bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
…cùng bạn bè đi làm cách mạng
ông làm cách mạng chừng nào
thì loài người càng thêm sặc máu…’
(thơ NBS-2002)

Vì lý do sức khỏe nên nhà thơ không bị đi lính như bạn bè cùng lứa tuổi nhưng không biết trong một phút ngẫu hứng nào đó lại vào làm thông dịch viên cho toán A lực lượng đặc biệt đang hoạt động tại trại Phi Hổ. Bởi vậy trong suốt dòng thơ viết về lính, tác giả chỉ nói tới mật khu Lê hồng Phong của VC ở Lương Sơn, Bình Thuận mà thôi. Sau khi trại LLDB giải tán, Nguyễn bắc Sơn cũng giã từ vũ khí cho tới tháng 4/1975.

Trại Phi Hổ, đơn vị của Nguyễn bắc Sơn, nằm sát quốc lộ 1, tại xã Chợ Lầu (Hòa Ða), cách Sông Mao chừng 4 km và liền với mật khu Lê Hồng Phong. Nơi này trước là doanh trại của Trung đoàn 42, SD 22 BB, đã di chuyển lên cao nguyên. Tháng 2/1962 toán B3 của đại úy Trịnh văn Viễn về tiếp thu trại trên, thì tình hình toàn vùng rất tồi tệ, ban đêm VC thường kéo về các xã quanh vùng tổ chức biểu tình, diễn kịch, trong lúc đó DPQ Hòa Da, cũng như TTHL/DPQ-NQ Sông Mao phớt lờ vì không muốn biết tới chuyện bên ngoài. Ðể đáp ứng nhu cầu chiến trường, trại Phi Hổ được phép tuyển mộ tân binh, thành lập một tiểu đoàn dân sự chiến đấu (loại lính ăn lương Mỹ, không có số quân), dưới quyền chỉ huy của LLDB gồm Mỹ và Việt, Nguyễn bắc Sơn làm thông dịch viên cho cố vấn Mỹ. Từ đó, trại luôn luôn tổ chức các cuộc hành quân vào sâu trong mật khu, tiểu đoàn DSCD/LLDB được mang danh hiệu là TD 10 nhảy dù, do đại úy Viễn chỉ huy, dĩ nhiên Sơn cũng phải theo cố vấn Mỹ trong các cuộc hành quân trên:

‘…khi tao đi lấy khẩu phần
mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
chúng mình nhậu để trừ hao
bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng…’
(chiến tranh VN và tôi-NBS 1962)

Ngoài ra, LLDB còn phối họp với Tiểu khu trưởng Bình Thuận lúc đó là Trung tá Nguyễn quốc Hoàng, lập các trung đội DPQ tại các ấp chiến lược ở các quận Phan Lý Chàm, Hòa Ða, Hải Ninh, để bảo vệ làng xóm của họ. Năm 1962, bộ trưởng QP Hoa kỳ là Mc Namara đã tới tận xã Lương Sơn thăm LLDB và rất hài lòng về việc trại Phi Hổ diệt được nguồn nước trong mật khu tại Bầu Sen, Bầu Trắng, khiến gần như toàn bộ VC trong mật khu phải rút đi nơi khác vì không đủ nước ngọt để ăn uống, chỉ để lại các toán du kích nhỏ quấy rối mà thôi:

‘tướng giỏi cầm quân trăm trận thắng
còn ngại hành quân động Thái An
cát lún bãi mìn rừng lưới nhện
mùa khô thiếu nước lính hoang mang.
Ðêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe sóng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nổi buồn sương khói của mùa thu…’
(mật thư Lê hồng Phong – NBS-1962).

Lực lượng VC bây giờ còn trụ lại tại Lê hồng Phong chừng hai đại đội do Ích Reo, người thượng chỉ huy:

‘buổi chiều uống nước dòng Ma hý
thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh
hỡi ôi sống chết là mưa nắng
gió tối mưa đêm chớ lạnh mình…’
(thảo khấu – NBS-1962)

Ðể khai tử cái huyền thoại chiến khu LHP, một cuộc hành quân qui mô hỗn hợp giữa LLBC trại Phi Hổ, TD 10 nhảy dù (DSCD Lương Sơn) cùng tiểu khu Bình Thuận, hai mặt tấn công và san bằng mật khu. Dân chúng trong vùng bị VC kềm kẹp lâu ngày, nay mới được giải thoát và được định cư tại Lương Sơn, Long Thạnh.

‘đoàn quân anh đi, những bóng cọp vằn
gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
dừng quân đây nói chuyện tiếu lâm chơi…
(chiến tranh VN và tôi – NBS-1962)

Ngày 15-3-1964, trại Phi Hổ đóng cửa, bàn giao lại cho tiểu khu Bình Thuận, tiểu đoàn dân sự chiến đấu cũng được cãi thành lực lượng DPQ tỉnh, và Nguyễn bắc Sơn cũng giã từ nghề thông dịch viên cho Mỹ từ đó, để:

‘…ngày vui đời lính vô cùng ngắn
mặt trời thoắt đã ở phương tây
nếu ta lở chết vì say rượu
linh hồn ta chắc sẽ thành mây bay
(mật khu Lê hồng Phong – NBS-1962).

Ðây không phải là một bài viết để phê bình thơ, nên không nói tới chuyện hay dở, phương chi Nguyễn bắc Sơn trước năm 1975, đã là một ngôi sao bắc đẩu trong dòng thơ miền Nam của thời kỳ 1960-1975. Thật vậy, khi đề cập tới phong trào thơ mới ở ngoài Bắc, nhà thơ Trần Huyền Trân được coi như tiền phong đóng góp trong việc canh tân thể thơ lục bát, sau đó có Bùi Giáng, Viên Linh và Du tử Lê nhưng chính Nguyễn bắc Sơn trong cái khùng diên, mê tỉnh, cái giọng hào sảng ngang tàng đã thổi một luồng gió mới trong thơ. Ngoài ra khi bàn về cái riêng và cái chung trong hồn thơ Nguyễn bắc Sơn, các nhà phê bình thơ đã đặt vấn đề vì sao trước năm 1975 và sau này ở hải ngoại, vẫn có nhiều người còn ưa thích đọc thơ ông? Ðây cũng là nét đặc dị của người Phan Thiết, cái ngông nghênh của người lính VNCH thuở nào, và trên hết là cái bình dân của người Việt Nam. Ðã mất hết rồi, thì thôi hãy góp nhặt lại cái âm vang sầu lắng của một thời làm lính nghênh ngang nơi vạn nẽo đường đất nước, mà Nguyễn bắc Sơn phô bày trong khi say tỉnh, hư thực:

‘…kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình
ăn muối đá và hăng say chiến đấu
ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
xem chiến cuộc như tại trời ách nước
(thơ NBS)

Ngoài ra giữa cái dối gian nhân thế, nhiều tên ác tặc đã đội lớp tu hành làm hoen ố chốn thanh tịnh, những người lính như Tô thùy Yên, Nguyễn bắc Sơn, Nguyễn đức Sơn (Sao trên rừng, người Phan Rang), cũng mang cái hương thiền tỏa rộng trong thế giới thi ca bằng thái độ ngất ngưởng trong cuộc sống hằng ngày, coi đời như có như không, đời đã không có ta hiện hữu thì vướng vấn làm gì.

bac son 2
Mới dây, Nguyễn bắc Sơn từ Phan Thiết có gởi ra mấy bài thơ được nhóm thư quán đăng tải gồm có ba bài: giai nhân và sách vở, tâm hồn trẻ thơ và chuyện hai bố con tôi. Ðọc thơ của người lính ngẫu hứng năm nào, đã cho ta thấy ngay hai hình ảnh bi thảm nhất của con người nơi xã nghĩa: tuyệt vọng và lầm đường. Cái nổi ăn không ngồi rồi của đám giang hồ nơi quán cà phê, khi tác giả mang tiền đi hớt tóc, sao mà thê thảm quá, dường như đâu cũng đìu hiu đất Hán-Hồ, với gió thu phong, ải Nhạn Môn, hồn tứ xứ, đám phù bình, mộng Hoàng Lương. Ôi thôi toàn là những cảnh đoạn trường với bát cơm tân khổ trong tù ngục, câu chuyện năm năm khiến giật mình. Ðọc thơ mới thấy não lòng, vì trước đây, Nguyễn bắc Sơn giống như bố ước mơ làm cho loài người sung sướng, cho cõi đời tốt đẹp, nên trong thơ không hề có cái hiện tượng lạc lầm khi ta câu con đú, người câu đến hoặc tuyệt vọng trong cái thiên đàng mà lúc nào ngày cũng muốn tàn, trời cứ nhá nhem và đêm đen bít lối về. Tất cả dường như chỉ là tiếng thở dài héo hắt của một kiếp người, giờ không cần phải che đậy, làm dáng như một số người trong cuộc:


‘khi gã Yêu Ly đâm Khánh Kỵ
là đâm trúng phải trái tim mình
sông Mường Mán không dung hào kiệt
muôn đời bóng núi đứng chênh vênh

Tóm lại Nguyễn bắc Sơn buổi trước từng là nhà thơ lớn, dù bị xếp trong một hàng ngũ nào chăng nữa, thơ ông tự nó đã là một nhân chứng, vô tâm hay hửu tâm đứng về phía những người lính quốc gia chống cộng sản bảo vệ quê hương miền Nam, trong suốt hai mươi năm (1955-1975) khói lửa. Ðấy cũng là một phần thưởng vô giá dành cho thi nhân, qua những câu thơ bình dị viết về lính, lại âm vang sâu lắng mãi trong lòng người. Cho nên những người lính già hôm nay, hay nói về Tô thùy Yên, Nguyễn bắc Sơn, Phan Lạc Tiếp. Phan Nhật Nam… là họ muốn nhớ lại chính mình của một thời tuổi trẻ, gươm đàn nữa gánh, giang sơn một vùng… thế nhưng chỉ qua một cuộc đổi đời, đã tàn phai héo lụn thảm thê:

‘ta về cuối mái đầu sương điểm
nghe nặng từ tâm lượng đất trời
cảm ơn hoa đã vì ta nở
thế giới vui từ một lẽ loi…’
(thơ Tô thùy Yên)

Trong ta, tự dưng buồn quá đổi, nghe xót xa đời khi được tin Nguyễn Bắc Sơn đã vĩnh viển bỏ Phan Thiết mà đi thật sự. Bốn mươi năm qua rồi, nhìn lại không thấy gì mới mẻ trong tâm hồn nguòi VN ngoài nỗi buồn nhược tiểu và thân phận đói nghèo. Ðất nước may mắn không còn chiến tranh và được thống nhất nhưng người dân vẫn không có tự do để sống theo cuộc sống tối thiểu của kiếp người. Cho nên đừng trách những người văn nghệ sĩ trong nước luôn sợ mở miệng mắt quai, khi sáng tạo. Nếu có trách là trách những người đang sống tự do nơi những nẻo đường hải ngoại, qua thời gian viễn xứ nhưng chỉ vì tiền và chút danh hẻo mà không dám mở miệng hay vẫn cứ uốn cong ngòi bút để ca tụng HCM, vì sợ mắt quai cọng sản, thì làm sao bán buôn các sản phẩm hay thung thăng trở về hưởng thụ.

Ðó mới chính là nổi bi thảm của kiếp người VN -/-

Viết từ Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 8/2015
MƯỜNG GIANG


Đọc thêm :
 Nhà thơ NGUYỄN BẮC SƠN