Những anh hùng của một thời oanh liệt
Polei Kleng là tên của một ngọn đồi lớn nằm về phía Tây Bắc của thành phố
Kontum khoảng 22 cây số. Chung quanh Polei Kleng có những đồi thông nhỏ khác
nằm rải rác, tạo nên một khung cảnh thật mơ mộng. Trên đồi Polei Kleng, có căn
cứ hỏa lực do quân đội Mỹ thiết lập rất kiên cố. Doanh trại của căn cứ xây theo
hình tam giác, hệ thống giao thông hào chìm, nổi 13 lô cốt bao chung quanh
trại, từ trên máy bay nhìn xuống rất đẹp. Căn cứ này cũng mang tên là Polei
Kleng, và tên Việt là Lệ Khánh.
Sau
khi quân đội Hoa Kỳ rút về nước, căn cứ này giao lại cho Việt Nam và hiện do
Tiểu Đoàn 62 Biệt Động Quân Biên Phòng trấn giữ. Phía Tây Bắc của Lệ Khánh, có
một làng thượng chừng 100 nóc nhà, và hầu hết những đàn ông Thượng trong làng
này đều là lính của Tiểu Đoàn 62 Biệt Động Quân. Có thể nói hết hai phần ba
quân số của Tiểu Đoàn là người Thượng. Đại đội I là đại đội nòng cốt của tiểu
đoàn do Thiếu Úy Kchong làm Đại Đội Trưởng. Thiếu Úy Kchong từ lực lượng Dân Sự
Chiến Đấu do Hoa Kỳ thành lập và huấn luyện, sau chuyển qua Tiểu Đoàn 62 Biệt
Động Quân Biên Phòng. Kchong mới 22 tuổi, anh là một sĩ quan can trường và hành
quân rất giỏi.
Lệ
Khánh được tổ chức như một làng nhỏ, có bệnh xá khám bệnh cho các gia đình
Thượng ở chung quanh trại. Có trường học, thầy giáo là người Thượng. Có trại
gia binh, không phải nhà, mà là những căn hầm như công sự phòng thủ, nhưng rộng
rãi cho vợ con của một số quân nhân Thượng. Trại cũng có những vườn rau xanh,
có câu lạc bộ nằm trên đồi rất thơ mộng, người trong trại gọi là câu lạc bộ Mây
Trên Đồi.
Trong
những ngày làm phóng sự chiến trường ở Cao Nguyên, hôm qua tôi xin tháp tùng
theo một chuyến bay nào đó để nhảy xuống Lệ Khánh nhưng bị từ chối. Lý do từ
chối là vì sau khi bị đẩy lui trong một cuộc tấn công đẫm máu vào Lệ Khánh,
Cộng quân nhất định muốn san bằng căn cứ này, nên mỗi ngày tiếp tục pháo vào từ
3 đến 4 ngàn quả đạn đủ loại. Bởi vậy, trực thăng khó có thể đáp xuống được.
Tôi
xin thẳng với Trung Tướng Ngô Dzu, đương kim Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhưng ông
cũng từ chối và hứa đợi đến lúc nào tình hình khả quan hơn. Tôi cảm ơn hảo ý
của ông và trong lòng tự hứa, không đến được hôm nay, thì cũng sẽ đến một ngày
nào đó để gặp và viết về những người chiến sĩ đã đánh những trận đánh để đời
trong Quân Sử Việt Nam Cộng Hòa.
Cộng
quân đã pháo vào trại Lệ Khánh suốt tuần nay với hàng ngàn đạn 82 ly và hỏa
tiễn 122 ly. Vào lúc 20 giờ 15 phút ngày 7 tháng 5, sau một đợt pháo dữ dội hơn
những ngày vừa qua và kéo dài đến nửa đêm, liền sau đó Cộng quân đã ào ạt xung
phong vào ba mặt: Đông, Đông Bắc và Đông Nam.
Ngay
lúc trận chiến khởi đầu, Đại Tá Nguyễn Văn Đương, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân
của Quân Khu II bay trực thăng vòng vòng trên trời, vừa đề quan sát trận đánh
vừa để khích lệ tinh thần binh sĩ. Sau khi liên lạc với Tướng Ngô Dzu, Đại Tá
Đương gọi máy cho Đại Úy Bửu Chuyển, Chỉ Huy Trưởng trại Lệ Khánh, đang chỉ huy
trận đánh bên dưới:
-
Tất cả Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đang theo dõi sự chiến đấu của anh em. Kể từ giờ
phút này, anh đã được Quân Đoàn thăng cấp Thiếu Tá.
Suốt
đêm đó, Tướng Dzu, Đại Tá Lê Quang Bình, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II và ông
John Paul Vann, Cố Vấn Trường Quân Đoàn II bay trực thăng trên căn cứ để quan
sát những diễn biến của trận đánh.
Từ
nửa đêm cho đến 6 giờ sáng, Cộng quân xung phong trên 10 lần, quyết tâm tràn
ngập căn cứ này, nhưng cuối cùng phải rút lui, bỏ lại hơn 300 xác rải rác trên
khắp các hàng rào phòng thủ. Đến 7 giờ sáng, Cộng quân dội tiếp vào một trận
mưa pháo kéo dài hơn một tiếng đồng hồ để mở đầu cho đợt xung phong lần thứ
hai. Lần này có 20 chiến xa T54 dẫn đầu tràn vào các công sự phòng thủ của
những chiến sĩ Biệt Động Quân Biên Phòng đang anh dũng chống trả từ lúc nửa đêm
đến giờ chưa một giây ngừng nghỉ.
Một
toán 5 chiếc T54 tiến vào từ hướng Tây Bắc đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa.
Cuối cùng, đợt tấn công thứ hai này, Cộng quân cũng bị thiệt hại nặng nề nên
phải rút lui. Và theo những tài liệu tịch thu được tại chiến trường, Cộng quân
đã chọn Lệ Khánh để đánh chiếm làm quà kỷ niệm cho ngày chiến thắng Điện Biên
Phủ. Bởi vậy một tuần trước đây, địch quân đã gia tăng áp lực chung quanh căn
cứ này một cách rõ rệt.
Buổi
chiều cùng ngày, lúc 18 giờ 20 phút, Trung Tướng Ngô Dzu bay trực thăng trên
trại Lệ Khánh để “gắn lon” cho Đại Úy Bửu Chuyển, Chỉ Huy Trưởng trại Lệ Khánh.
Cặp lon Thiếu Tá mới toanh và hai chai rượu champagne được thả từ phi cơ xuống.
Trung Úy Phan Thái Bình, Tiểu Đoàn Phó cùng 20 chiến sĩ Biệt Động Quân Biên
Phòng khác cũng được thăng cấp và tưởng thưởng tại mặt trận.
Tôi
nghĩ rằng trong lịch sử chiến tranh của nhiều quốc gia, chắc chưa bao giờ có
một cảnh “gắn lon” độc đáo như vậy. Hai bông mai bạc từ trên trời rơi xuống,
xuyên qua làn mưa pháo của địch quân, nở trên vai áo của người hùng biên trấn
Tây Nguyên. Ông John Paul Vann là cố vấn quân sự Hoa Kỳ của Quân Đoàn II. Ông
mang cấp bậc Đại Tá, nhưng vì giữ chức vụ cố vấn bên cạnh Tư Lệnh Quân Đoàn,
nên Bộ Quốc Phòng Mỹ cho ông giải ngũ để khỏi trở ngại về vấn đề cấp bậc. Ông
Vann là một cố vấn quân sự có một vị thế và cuộc sống riêng tư rất đặc biệt.
Người ta đồn rằng ông là bạn thân của Tổng Thống Nixon, có uy tín ngang hàng
với Kissinger, cho nên ông là cố vấn quân sự có nhiều quyền hạn đặc biệt trong
những quyết định về sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ.
Nhưng
miền Nam Việt Nam và cả Hoa Kỳ nói nhiều đến ông, không phải vì chức vụ cố vấn,
mà vì đời sống tình cảm riêng tư của ông nhiều hơn. Trong thời gian ở Cao
Nguyên này, một người con gái má đỏ, môi hồng đã thay đổi cuộc đời của ông.
Sóng gió của mối tình muộn và đầy ngang trái này đã âm hưởng mạnh mẽ tận Hoa
Thịnh Đốn, vì ông là nhân vật quyền thế đương thời.
Và
một ngày, giữa lúc Cao Nguyên khói lửa ngút trời, ông Vann đã nói lên tâm sự
của mình, sự thổ lộ cũng xem như là một chọn lựa:
-
Sau khi tình hình ở Cao Nguyên sáng sủa, tôi sẽ làm đám cưới với nàng. Tôi sẽ ở
đây với nàng cho hết cuộc đời, và Việt Nam sẽ là quê hương thứ hai của tôi.
Bởi
vậy, bạn bè của ông thường nói rằng, ông đang phục vụ một cách hăng say cho quê
hương Việt Nam của ông, chứ không phải đang làm cố vấn cho một quốc gia bạn.Tôi
gặp ông John Paul Vann trong một buổi sáng tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II khi đến
đây cùng với một ký giả người Anh của tờ Sunday Times để xin phương tiện ra
chiến trường.
Ông
Vann khoản chừng 50 tuổi, dáng người cao lớn, ông không nói tiếng Việt nhưng
hình như hiểu tiếng Việt, bởi vì khi nghe một sĩ quan của Phòng Báo Chí nói với
tôi sáng nay không còn chiếc trực thăng nào cho báo chí, ông Vann đã vui vẻ hỏi
tôi có muốn dùng chiếc trực thăng của ông không. Ông vẫn được tiếng là người
rất niềm nở với giới ký giả. Tôi đã có lần nhìn thấy chiếc trực thăng riêng của
ông Vann trên bãi đáp. Chiếc trực thăng này sơn màu trắng, mũi nhọn, thân dài,
có hình dạng khác hẳn với những chiếc trực thăng của quân đội thường dùng. Chưa
quen biết nhiều, nên tôi không muốn nhận sự giúp đỡ của ông, cũng một phần tôi
nghĩ rằng, một chiếc máy bay đặc biệt như vậy, chắc súng và hỏa tiễn phòng
không của địch thích nhắm vào để lập chiến công.
Sau
này, một lần về Sài Gòn, ông có đến tòa soạn báo Hòa Bình thăm tôi, nhưng lúc
đó tôi đang về làm phóng sự ở miền Tây. Ông Vann trước là cố vấn quân sự của
Vùng IV, nên ông gọi điện thoại về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV để nhờ những người
quen tìm đến gặp và chuyển lời thăm tôi. Một thời gian sau, tôi nghe tin ông tử
nạn vì máy bay bị bắn trong lúc bay thị sát mặt trận ở Cao Nguyên.
Trại
Lệ Khánh vẫn anh dũng chống trả trước bao nhiêu đợt tấn công của địch quân ròng
rã gần một tháng trời. Lần lượt Charlie, Tân Cảnh rồi Dakto thất thủ. Muốn tiến
vào Kontum, địch quân phải san bằng Lệ Khánh. Khi mở đầu cuộc tổng công kích
vào toàn vùng Cao Nguyên, giai đoạn đầu tiên là một chiến dịch mà Cộng quân đặt
tên có tính cách kích động tâm lý là chiến dịch “Poko dậy sóng”. Poko là một
dòng sông nằm phía Tây Quốc Lộ 14, cách Lệ Khánh khoảng 7 cây số vả cách Kontum
chừng 20 cây số. “Poko Dậy Sóng” là chiến dịch đánh chiếm một loạt các căn cứ
trong vùng Tam Biên, mà Lệ Khánh là điểm cuối cùng.
Một
buổi sáng, khi nắng ban mai chưa đủ ấm để làm tan hết sương mù của miền rừng
núi, trại Lệ Khánh lại một lần nữa rung chuyển vừa bởi đạn pháo, vừa bởi tiếng
động cơ của một đoàn chiến xa T54 của địch quân. Pháo phủ đầu rồi khinh binh
của địch theo chiến xa tiến và như thác lũ. Địch quân dùng cả những đại pháo
cùa ta mà chúng lấy được ở Dakto như đại bác 105 ly, 155 ly đề bắn vào Lệ Khánh.
Thiếu
Tá Bửu Chuyển và tất cả chiến sĩ của Tiểu Đoàn 62 Biệt Động Quân không hề nao
núng. Đã đội lên đầu chiếc Mũ Nâu, mặc bộ đồ trận màu ho rừng là đã sẵn sang
chờ đợi những giây phút như ngày hôm nay. Và tiểu đoàn đã anh dũng chiến đấu,
chiến đấu cho đến giây phút mà người chiến sĩ còn có thể chiến đấu.
Những
ngày mở đầu, địch chỉ pháo từ 500 đến 1000 quả 82 ly và 105 ly. Những ngày về
sau, cường độ pháo kích tăng lên đến mức khủng khiếp, từ 10 ngàn đến 15 ngàn
quả, Đại Tá Nguyễn Văn Đương, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân của Quân Khu II,
Đại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tỉnh Trưởng Kontum và Tướng Lý Bá Tòng, Tư Lệnh Sư Đoàn
22 Bộ Binh đã thường xuyên bay trên Lệ Khánh, cố gắng đáp xuống nhưng không thể
nào thực hiện được. Nhất là Đại Tá Đương, ông lo lắng cho các binh sĩ của mình
đang ngày đêm chịu đựng từng đợt tấn công nặng nề của địch.
Ngày
thứ 20, tính từ ngày đẩy lui địch quân đợt đầu, pháo của địch dội vào tới mức
không thể đếm được nữa. Kho đạn đã bị cháy. Trung Tâm Hành Quân bị đạn 155 ly
phá sập. Đạn dược, lương thực và nước chỉ dự trữ đủ dùng trong 3 tháng. Lệ
Khánh hoàn toàn bị cô lập. Không tiếp tế, không tải thương được. Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn hỏi trên máy:
-
Các anh còn chịu được không?
Thiếu
Tá Chuyển trả lời:
-
Chúng tôi vẫn chiến đấu.
Mấy
ngày sau, toán cố vấn quân sự liên lạc khẩn về Kontum. Một cuộc oanh kích dữ
dội do máy bay của Không Quân Mỹ đảm trách để dọn một bãi đáp cấp thời ngay
trong trại. Hai chiếc trực thăng loại nhỏ, từ bên ngoài luồng vào Lệ Khánh với
một độ bay thật thấp để tránh pháo, và không một lời giã từ, toán cố vấn Mỹ vội
vã lên trực thăng bay ra khỏi trại an toàn.
Tiểu
Đoàn 62 Biệt Động Quân vẫn tiếp tục chiến đấu. Những người bị thương nặng thì
nằm ở bệnh xá. Những người bị thương nhẹ được băng bó rồi tiếp tục cầm súng trở
lại phòng tuyến của mình. Vợ con của các binh sĩ cũng được phát súng, phụ giúp
quan sát, canh phòng, trải đạn, tải thương…
Có
thể nói gần một tháng trời, Lệ Khánh không có ban đêm. Mỗi ngày khi mặt trời
khuất bóng, những trái hỏa châu được máy bay thả xuống liên tục soi sáng cả một
vùng chung quanh trại. Tướng Lý Tòng Bá đưa một tiểu đoàn Pháo Binh nằm tại
hướng Đông Lệ Khánh, bên kia sông Poki, để yểm trợ cho căn cứ này.
Pháo
yểm trợ bắn trùm chỉ cách quân trú phòng có 20 thước. Xác của địch quân rải đầy
chung quanh hàng rào phòng thủ đã hơn 20 ngày nay. Thây người chết sình thối và
mùi thuốc súng pha trộn với nhau làm cho Lệ Khánh đầy đặc cả tử khí.
Từ
ngày thứ 20 về sau, Quân Đoàn II cho lệnh Lệ Khánh được xử trí tùy theo tình
hình. Liên lạc truyền tin khó khăn vì ăng ten dù không căng lên được. Các cao
điểm chung quanh Lệ Khánh đã bị chiếm và đặt súng lớn. Ăng ten dù căn lên là bị
pháo trúng ngay.
Ngày
thứ 25, Thiếu Tá Bửu Chuyển và Đại Úy Phan Thái Bình bàn thảo với nhau. Cuối
cùng Thiếu Tá Chuyển quyết định rút. Đại Úy Bình đồng ý nhưng cảnh giác:
-
Ra là đụng nặng lắm.
Trong
suốt thời gian này, Đại Úy Bình đã nhận xét kỹ và thấy rằng, trong 13 lô cốt
chung quanh trại, chỉ có lô cốt số 13 là khu vực tương đối ít bị pháo nhất. Bởi
vậy anh đề nghị, nếu có ra, nên ra hướng này.
Một
hạ sĩ quan thủ kho đạn dược được lệnh kiểm xem còn có bao nhiêu đoạn Bangalo.
Còn đúng 13 đoạn. Tất cả tiểu đoàn được lệnh chuẩn bị sẵn sàng, kể cả gia đình
binh sĩ. Hành trang gọn và nhẹ, chủ yếu là súng đạn. Tất cả những tài liệu cần
thiết đều được hủy.
Đúng
4 giờ sáng, 3 đoạn Bangalo nối thành một ống dài xuyên qua những lớp hàng rào
kẽm gai chằng chịt ở hướng lô cốt số 3. Địch vẫn pháo như mưa vào trại.
Thiếu
Tá Chuyển ra lệnh. Tiếng nổ của Bangalo chìm mất trong tiếng pháo ầm ầm của
địch. Một ánh lửa xanh biếc chói mắt bừng lên, cả chục lớp hàng rào kẻm gai đã
bị Bangalo xé ra một đường dài.
-
Nam Bình, anh ở đâu trả lời.
Đại
Úy Bình:
-
Tôi vừa ra khỏi trại.
Máy
bay L19:
-
Tăng địch đã vào trại, đông như kiến.
Đại
Úy Bình hét lên:
-
Cho bom dập xuống.
Máy
bay L19:
-
Nhận rõ. Chờ xem.
Từng
chiếc phản lực theo nhau bay đến. Lượn trên cao vì phòng không của địch như đan
lưới. Những cánh chim bằng của Không Đoàn Biên Trấn đã từng vào sanh ra tử nên
biết bao kinh nghiệm. Những chiếc phản lực nối đuôi nhau chúi xuống. Những
tiếng nổ rung chuyển cả một vùng đồi núi. Lệ Khánh chìm trong biển lửa.
Đại
Úy Bình gọi L19 nhờ dẫn đường. Không nghe trả lời, nhìn lên, thấy máy bay đã
trúng đạn đang bốc cháy. Một cánh dù bung ra. Cầu cho anh đừng rơi vào tay
địch. Ngày hôm sau, khoảng 4 giờ chiều, cánh của Thiếu Tá Chuyển và cánh của
Đại Úy Bình gặp nhau. Họ mới rời Lệ Khánh được chừng 5 cây số. Địch bám theo
sát, vừa đi vừa đánh. Đàn bà và trẻ con di chuyển rất chậm. Trẻ con khóc to nên
bị địch theo hoài. Còn chừng hai cây số nửa mới đến sông Poko. Thiếu Tá Chuyển
ra lệnh đi tiếp và nói với Đại Úy Bình:
-
Anh vẫn theo hướng Bắc và giữ mặt Bắc cho tôi.
Hai
cánh chia tay. Vừa đi chừng 500 thước thì Đại Úy Bình nghe bên cánh của Thiếu
Tá Chuyển có tiếng súng nổ rền. Đại Úy Bình chụp máy hỏi:
-
Anh đụng nặng không?
Thiếu
Tá Chuyển:
-
Tôi bị tụi nó vây rồi.
Đại
Úy Bình:
-
Cần tôi tiếp không?
Thiếu
Tá Chuyển:
-
Không. Dẫn anh em đi đi.
Sau
đó Đại Úy Bình không còn liên lạc được với Thiếu Tá Chuyển nữa. Và bây giờ cánh
của anh bị chận đánh. Hình như ở đâu cũng có địch. Anh dàn quân, vừa đánh vừa
di chuyển. Ra tới bờ sông Poko, gặp lúc mùa khô, nước cạn ngang ngực. Cả đoàn
người cố băng qua sông. Đại Úy Bình cùng với một toán còn đứng lại trên bờ đánh
cản hậu. Một người đàn bà Thượng đai đứa con trước ngực trúng đạn nằm chết bên
bờ sông, đứa bé vẫn còn ngậm vú mẹ mà bú sữa. Cái hình ảnh đó làm cho người
chiến sĩ kiên cường như Đại Úy Phan Thái Bình cũng thấy tim mình se lại. Anh ra
lệnh cho một người lính Thượng ẵm đứa bé đưa qua sông, tìm cách gửi vào một
làng Thượng gần đó. Địch đuổi tới, dàn súng cối 61 ly trên bờ bắn như mưa xuống
đoàn người đang vượt qua. Sông Poko không dậy sóng, mà nước sông Poko chỉ nhuộm
đỏ bởi máu của đàn bà và trẻ con vô tội.
Bờ
bên kia có căn cứ của Liên Đội 385 Địa Phương Quân. Đơn vị này yểm trợ cho đoàn
người qua sông. Khi ra đi, cánh của Đại Úy Bình gồm có 360 người. Qua khỏi sông
Poko, chỉ còn 97 người. Phần thất lạc, phần chết, phần bị địch bắt. Đại Tá
Đương, Đại Tá Thìn và Tướng Bá đã đợi sẵn. Đại Tá Đương ôm chầm Đại Úy Bình an
ủi và ngạc nhiên khi thấy anh vẫn mang lon Trung Úy. Đại Úy Bình giải thích:
-
Cặp lon rơi giữa hàng rào nên không lấy ra được.
Đại
Tá Thìn đích thân mở một lon nước ngọt cho Đại Úy Bình, và mọi người vào Trung
Tâm Hành Quân nghe Đại Úy Bình thuyết trình diễn tiến trận đánh Lệ Khánh, cùng
chỉ rõ những đường nào mà chiến xa của địch có thể tiến vào Kontum. Sau đó Đại
Tá Đương gắn lon cho Đại Úy Bình và ra lệnh cho xe đưa 97 người về Kontum,
nhưng Đại Úy Bình thỉnh cầu:
-
Tôi và các anh em xin ở lại đây vài hôm nữa để chờ đón những người thất lạc.
Tôi tin tưởng thế nào cũng có người trở về được.
Những ngày kế đó, bên bờ sông Poko, từ sang
khi trời còn mờ sương cho đến tối khi sương mù lại xuống dày đặc, một người
đứng bên này nhìn qua bờ bên kia để mong ngóng, mặc cho pháo của địch từ bên
kia bắn qua. Đại Úy Phan Thái Bình vẫn kiên nhẫn đứng chờ trong sương lạnh. Đã
ba ngày qua, nhưng anh tin rằng thế nào cũng đón được anh em. Khi bóng đêm
buông xuống, Đại Úy Bình nghe có tiếng nước khua động, có người đang lội qua
sông. Một, hai, rồi ba, rồi bốn… Đại Úy Bình nép mình sau gốc cây, chờ cho mấy
bóng người vừa lên bờ, hỏi nhỏ:
-
Biệt Động Quân?
Mấy cây súng châu lại định bắn, nhưng tiếng
nói quen qua, một người hỏi lại:
-
Đại Úy hả?
Đại Úy Bình bước ra. Hai bên chạy ào đến ôm
nhau. Một người với giọng còn xúc động:
- Em tưởng Đại Úy chết rồi. Núp trong rừng, nghe
tụi nó đi ngang nói chuyện với nhau: “Đã giết được tiểu đoàn trưởng và tiểu
đoàn phó ác ôn rồi”.
Người này là hạ sĩ quan Truyền Tin của
Thiếu Tá Bửu Chuyển. Anh kể:
- Thiếu Tá bị thương. Chúng bắt dẫn đi, ông không
chịu đi, bị chúng bắn chết tại chỗ.
Khi địch lục ba lô trên xác một người lính,
thấy bộ đồ trận có gắn lon và bảng tên của Đại Úy Bình và khuôn dấu của tiểu
đoàn, nên tưởng tiểu đoàn phó cũng đã tử thương.
Gọi báo tin cho Đại Tá Đương ở Kontum, Đại
Úy Bình nghẹn ngào:
-
Bửu Chuyển chết rồi.
Đại Tá Đương sững sờ, ông hy vọng Bửu
Chuyển sẽ về. Nhưng bây giờ ông biết, ông đã mất đi một sĩ quan ưu tú, gan lì
nhất trong binh chủng.
Tháng 4 năm 1975, Đại Tá Nguyễn Văn Đương
chung số phận với những đồng đội của mình. Sau 13 năm tù cải tạo, ông cùng gia
đình đến Hoa Kỳ ngày 26 tháng 5 năm 1992 trong đợt HO10, hai tuần trước ngày
tác phẩm “Dai Uy” đưa đến nhà in. “Dai Uy” là cuốn hồi ký dày gần 300 trang của
Trung Tá hồi hưu James E. Behnke, viết về cuộc chiến đấu anh dũng của Tiểu Đoàn
33 Biệt Động Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà hồi đó, Đại Úy Nguyễn Văn
Đương là Tiểu Đoàn Trưởng, và Đại Úy James E. Behnke là cố vấn của tiểu đoàn.
Cho đến năm 1992, hai người bạn cũ mới gặp lại nhau, hai người vẫn gọi nhau một
cách thân mật là Đại Úy như ngày nào còn bên nhau, cùng vào sinh ra tử.
Kiều Mỹ Duyên
@internet