Friday, May 21, 2010

BS.Tôn Thất Sang


Đi nhận xác Thầy

Lần giở những trang trân trọng đầu tiên của cuốn luận án y khoa, nhìn tên, tước vị của các Giáo Sư người Đức, bỗng nhiên tôi thấy lòng bồi hồi dâng lên niềm đau xót vô vàn với những tiếc nuối khôn nguôi,...những thương yêu, kính mến, với biết bao kỷ niệm và lòng tri ân đối với các vị, đã vì thiện tâm, chấp nhận hy sinh, xa gia đình, xa bạn bè, xa tổ quốc thân yêu, để đem sở học và nguyện ước của mình đi truyền rao và khai hóa tận một xứ sở kém mở mang, xa xôi hẻo lánh, đầy rẫy hiểm nguy với chiến tranh tàn khốc, ở tận bên kia bờ Đại Dương. Ước nguyện thật dễ thương và hiền hòa, làm sao tạo dựng những bác sĩ y khoa tài năng, để phục vụ xứ sở họ, phục vụ tình thương, phục vụ con người....

Thế nhưng, những hy sinh cao quý từ những con người nhân ái đó, đã phải trả một giá quá đắt - bằng chính mạng sống của họ - bởi một chính quyền, gọi là phát xuất từ nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân - chính quyền Cộng Sản - đã lạnh lùng thủ tiêu họ, không chút tiếc thương, trong cái gọi là trận “Toàn dân nổi dậy tổng công kích” trong dịp Tết Mậu Thân, vào cố đô Huế?!!!

Trung tuần tháng 2 năm 1968. Khoảng gần một tháng, sau Tết Mậu Thân, cố đô Huế đã được quân lực VNCH tái chiếm. Huế, sau những ngày bị bọn quỷ đỏ tràn ngập, đã nhuốm màu máu đào và nước mắt! Không có phường nào, xã nào, không có xóm nào, không có gia đình nào là không có người thân ngã gục, cha xa con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn, hoặc bằng con dao, hoặc bằng cán cuốc! Hoặc chôn sống hàng loạt, sau khi cột thành từng “chùm dây người”, nối kết lại bằng dây dừa, dây điện thoại.

- Nào Phú Thứ oán khí ngất trời, với tiếng khóc và màu tang phủ trắng cánh đồng! Nào trung học Gia Hội, với hầm chôn tập thể, nơi mà bọn “phản sư, diệt tổ” Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân... đã triệt để vâng lời “Bác Hồ dạy”: “Trăm năm trồng người”, để biến học đường thành nghĩa địa! Nào Khe Đá Mài, nào Bãi Dâu, nào Tây Lộc..., mà mỗi địa danh là mỗi âm vang của loài quỷ đỏ!!!

Huế tang thương, lầy lội.
Huế rách như xơ mướp!
Huế tiêu điều với tường xiêu, mái đổ.
Huế với thép gai giăng mắc, mà kinh thành như kẻ bị đậu mùa!
Huế với B40, với AK, với CKC báng đỏ.
Huế đầy nước mắt với khăn tang,
Máu đỏ tanh hôi chảy ngập đàng,
Hoa cúc, mai vàng sao chẳng thấy?
Chỉ còn hoang lạnh với ly tan!

Trong cái cảnh hỗn mang ấy, tôi đi giữa thành phố tang thương, đổ vỡ, lạc lõng và bơ vơ. Tôi đi, mà lòng ngậm ngùi thương tiếc, như vừa đánh mất người yêu. Tôi đi, nhìn, như lạc trong ác mộng! Bỗng tiếng Vespa rít lên, đồng thời, với cái vỗ vai, làm tôi giật bắn người:

- Đã biết tin gì chưa?

Tôi nhìn lên, thấy Đặng Ngọc Hồ, vừa dừng xe, vừa hỏi.

- Tin gì? Tôi vội hỏi.

- Tìm thấy xác của các thầy Krainick, Discher, Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!

- Trời ơi! có chắc không? ở đâu?

- Nghe đâu trên chùa Tường Vân, phía trên dốc Nam Giao!

Rồi Hồ nói luôn:
- Nghe dân nói, ban đầu họ tưởng Mỹ, họ báo với Tiểu Khu. Tiểu Khu và chính quyền check lại với Lãnh Sự Mỹ, thì biết Mỹ chết thì nhiều, nhưng không có mất tích, chỉ có một Đại tá Mỹ bị bắt mà thôi. Sau nghe Viện Đại Học mình và Lãnh Sự Đức loan báo có 4 người Đức mất tích, 3 ông, 1 bà. Bây giờ thì trùng khớp.

Tôi chưa kịp định thần, thì trong tiếng còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hữu Út xuất hiện, lạng và thắng xe nhanh như chớp. Tôi và Hồ vội nói cho Út biết, thì đằng xa, lại thấy Lê Đình Thiềng chở Nguyễn Quang trờ tới. Bọn tôi vội làm một cuộc họp “bỏ túi” trên lề đường Trần Hưng Đạo, gần Chi Thông Tin ở chân múi cầu Trường Tiền, giờ đây đã gãy một nhịp - một vết ô nhục mà đoàn cán binh Bắc Việt để lại cho tâm hồn người dân Huế đô. Khi đó, vào khoảng 11 giờ sáng, nhưng cái lạnh của những ngày đầu xuân còn len lén như dao cắt vào da thịt và cái nắng quái của ngày xuân, sao mà khác thường, nó nhợt nhạt, vàng vàng, tai tái như da của một xác chết, nó tuồng như bàng bạc mùi tử khí của một thành phố đang ung mủ, đang trải qua lắm đau thương! Bọn tôi bàng hoàng xót xa, thương các thầy quá là thương!

Tôi đề nghị anh Hồ qua Tiểu Khu hỏi lại tình hình an ninh vùng đó đã ổn chưa, còn chúng tôi, chở nhau, nhắm vùng Nam Giao trực chỉ. Một hồi sau, Tiểu Khu cho một xe Dodge, chở một tiểu đội, với vũ khí đầy đủ, lên mở đường vào hướng chùa Tường Vân và bảo bọn tôi chờ ở ngả rẽ đường Nam Giao, chờ họ báo tin. Khoảng nửa giờ sau, viên sĩ quan chỉ huy tiểu đội đến, tin cho biết tình hình khu vực an toàn, vừa ra không có mìn bẫy và hiện tiểu đội ông còn bám sát địa bàn. Ông lắc đầu, buồn bã tiếp theo:

- Quân tôi đang cùng một ít dân trong xóm, đang đào đất lên và đã thấy 4 đầu tóc nhô lên, tóc người ngoại quốc, trong đó có một mái tóc màu bạch kim.

Bọn tôi nhìn nhau thở dài:

- Chắc thầy Discher rồi!

Mái tóc bạch kim hơi dợn sóng, đầy nghệ sĩ của thầy thân yêu không ngừng ám ảnh và làm tôi xót xa. Bọn tôi cám ơn ông và tất cả vội vã lên xe, nhắm hướng chùa Tường Vân trực chỉ.

Chùa Tường Vân nằm về hướng Tây Nam núi Ngự Bình (hướng Nam Giao, đi từ phố lên), đi quá chùa Sư Nữ một khoảng xa, thì rẽ phải, vào một con đường mòn đất đỏ thoai thoải dốc, với nhiều ổ gà và nhiều bụi rậm. Ngôi chùa, với mái ngói rêu phong cổ kính, chung quanh mấy khóm trúc là đà với ngọn giả sơn ngư, tiều, canh, độc. Xa xa là hàng tre bao phủ, xanh ngắt một màu, chen lác đác mấy ngọn tre la ngà, màu vàng sọc xanh dịu dàng trước gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không còn lòng dạ nào thưởng ngoạn. Bọn tôi vừa xuống xe tại sân chùa, đã thấy vài người lính và một số dân địa phương đang xúm xít tận hào tre, cách sân chùa khoảng 150 mét. Bọn tôi vội vàng chạy lại.

Tiếng một quân nhân:

- Tội quá, các anh ơi! 3 ông, 1 bà đều bị bắn một cách giống nhau! Tụi Việt Cộng quá vô nhân đạo!

Tôi vội nhìn xuống chỗ tay anh quân nhân đang chỉ, thì thấy 3 quân nhân đang cùng vài người dân, tay cuốc, tay xẻng, đang nhẹ nhàng xúc đất và cát, lên từ một chiếc hầm đào vội, bề dài khoảng 2,5 m, bề ngang khoảng 0,7 m và chiều cao khoảng 0,9 m, trong dó có 4 người, đều bị trói thúc ké (hai tay quặt ra sau lưng), bằng dây điện thoại truyền tin, người này trói dính với người kia và tất cả đều ở tư thế quỳ thẳng đứng, ở thái dương trái là lỗ đạn vào và thái dương phải là lỗ đạn ra, to hơn và tàn phá hơn! Tôi vội dụi mắt - vì nước mắt đã lưng tròng - nhìn kỹ những khuôn mặt của quý Thầy thân yêu, giờ đây đã đổi dạng, mắt lồi hẳn ra ngoài thái dương và hàm toang hoác, vì đường đạn đi ngọt xớt của kẻ thù vốn từng rêu rao chỉ lấy lượng khoan hồng và nhân đạo làm nền tảng!! Tôi không thể tưởng tượng được đám đồ tể của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng, lại đi “giải phóng” những người chỉ biết đem tình thương và lòng nhân ái ra cứu chữa cho nhân dân!

Sau đó, bọn tôi phụ giúp các anh em quân nhân và một ít dân chúng, chở xác các thầy bằng xe của Tiểu Khu về nhà xác bệnh viện Trung Ương Huế.

Cả bệnh viện xôn xao. Cả thành phố Huế xôn xao. Nhiều người đã khóc nức nở. Có nhiều tiếng nấc thầm lặng hơn từ các khu nội thương, khu truyền nhiễm, khu nhi đồng.

Ôi, còn đâu nữa, vị Bác Sĩ trưởng đoàn, lớn tuổi, thân yêu, đã luôn tận tụy trong bài giảng, trong chức nghiệp, suốt đêm ngày khám nghiệm ở khu nhi đồng, thân mật với sinh viên, xem sinh viên như con, mà chúng tôi âu yếm gọi là Bon Papa. (bỏ một đoạn)

Ôi, còn đâu nữa, những giây phút kỷ niệm êm đềm bên người Thầy yêu quý. Xin vĩnh biệt Thầy và cầu chúc Thầy cùng phu nhân thanh bình trong cõi vĩnh hằng, ở nơi không hận thù, ở nơi mà bọn quỷ đỏ phải lánh xa.

Ôi, còn đâu nữa Giáo sư Discher, người Thầy tận tâm, yêu mến học trò, người Thầy đầy nhân ái, nghiêm khắc nhưng độ lượng. Kính chúc Thầy mãi mãi bình yên ở cõi thiên đàng.

Ôi, còn đâu nữa Bác sĩ Alterkoster, người bác sĩ trẻ tuổi, đẹp trai, vui tính và tận tâm ở khu truyền nhiễm, mà tương lai đang rực sáng, ngờ đâu lại đứt gánh giữa đường. Xin cầu chúc linh hồn bác sĩ được về với nước Chúa.

Tối hôm đó, chúng tôi, hầu như rất đông các bạn từ Đại Học xá Nam Giao, Trung tâm Xavier, các bạn ở mọi nơi trong thành phố, lần lượt biết tin, đến phòng trực bệnh viện Trung Ương, để phân công trực xác quý Thầy, đang để tạm ở nhà xác.

Sáng hôm sau, quan tài của quý Thầy được quàng tại Tòa Viện Trưởng. Chúng tôi, quần sẫm, áo trắng, cravatte đen, nghiêm trang đứng thành 2 hàng, vòng tay trực bên quan tài quý Thầy. Những tràng hoa phúng điếu của các Tòa Lãnh Sự, các Hội Đoàn, các Đoàn Thể, các Phân Khoa bạn.

Đức Tổng Giám Mục địa phận Huế - Nguyễn Kim Điền - chủ tế. Không khí lắng đọng cảm xúc và trang nghiêm. Mọi người rưng rưng, tiếng máy quay phim đều đều, buồn như lời nguyện cầu. Đột nhiên, có tiếng thổn thức ở cửa chính, mọi người xôn xao nhìn ra, nhiều ống kính hướng theo. Ánh sáng lập lòe, một thiếu nữ, trong bộ đồ đen tuyền, khăn tang trắng bịt ngang đầu, đang nức nở, lảo đảo tiến vào, hai tay ôm vòng Couronne mortuaire kết cườm đen, băng tím, chữ trắng “To you with all my sacred and humble love...” Đức Tổng Giám Mục lặng lẽ nhìn, nét mặt Ngài dịu đi, mọi người xúc động, bàng hoàng. Ai đây? Người thiếu nữ đặt nhẹ vòng hoa trước linh cửu của BS Alterkoster, phủ phục và ôm quan tài khóc sướt mướt.

Mắt tôi nhòe đi, cảm xúc đến lặng người. Tôi nhìn người thiếu nữ, không còn trẻ lắm, với nét mặt thùy mị, đoan trang và kín đáo, kín đáo như trong tình yêu thiêng liêng của chị, thắm thiết và buồn như màu tím của vành Couronne mortuaire và những giọt nước mắt, mà chị đang gởi theo cùng tâm hồn, cho người mình yêu, vừa ngã gục xuống, trên mảnh đất của quê hương, đã lấy máu đào làm thắm đượm quê hương mình!

Tình yêu của hai người kín đáo và thầm lặng như giòng Hương Giang, chỉ một số người rất thân với cả hai người, mới biết thôi. Ở đây, tôi xin phép chị Thảo - vâng, người ấy chính là chị - (Quản thủ Thư viện Y khoa thời gian đó) cho tôi viết ra điều này, phải chăng đó là những kỷ niệm cao quý nhất và thiêng liêng nhất của cả cuộc đời chị, mà tôi tin rằng, nếu mọi người biết được, cũng sẽ làm tâm hồn họ thăng hoa trong bâng khuâng và xúc động, như khi họ khám phá ra được một góc trời kỳ diệu mong manh nhưng dễ vỡ và họ sẽ trân trọng giữ gìn...

Sáng hôm sau, 2 chiếc máy bay màu trắng bạc “Air America” đưa 4 quan tài vào phi trường Tân Sơn Nhất, ở đó, đã có phái đoàn của sinh viên Đại Học Y Khoa Sài Gòn chờ đón, với vòng hoa phân ưu và biểu ngữ lên án bọn quỷ đỏ, đã thảm sát những người, suốt đời chỉ biết phụng sự khoa học, phục vụ nhân loại.

Sau đó, quan tài của quý vị đã được đưa về Tây Đức an táng.

Vĩnh biệt từ nay bóng dáng Thầy!
Tình sư, nghĩa phụ thoáng trời mây.
Thương người viễn xứ thân tan nát,
Lưu lại danh thơm với tháng ngày.


Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991
BS.Tôn Thất Sang
Nguồn quanvan.net