Monday, June 29, 2015

Red China

Chết bởi con rồng đỏ Trung Cộng


Chết Bởi Con Rồng Đế Quốc:

Trong một cuộc di dân vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, Tàu đang biến cải toàn thể Phi Châu thành một thuộc địa mới. Tương tự như tây Phương đã làm trong thế kỷ 18 và 19—nhưng quyết liệt và với tầm cỡ lớn hơn nhiều—các lãnh đạo Tàu muốn Phi Châu là “chư hầu” ở xa, để vừa giải quyết vấn nạn dân số quá đông, và vừa lấy được tài nguyên. - Daily Mail Online.

Trong khi các  hãng xưởng của Mỹ tiếp tục đóng bụi, trong khi các chính khách Mỹ và các nhà lãnh đạo quân sự chỉ chăm chú vào Trung Đông, và trong khi các chính trị gia ở Washington mê ngủ, Tàu cứ tiến tới. Một triệu quân Tàu di chuyển không ngừng ngang dọc Phi Châu và Nam Mỹ để chiếm các nguyên liệu chiến lược, và chiếm các thị trường mới nổi, không cho Mỹ, Âu Châu, Nhật, và các xứ khác vào. Đây là một cái đinh nữa đóng vào nắp quan tài của ngành sản xuất của Mỹ và của thế giới. Thế giới cần phải coi chừng cái đế quốc đang vươn lên này.

Con Rồng Đế Quốc Tàu là đứa con hoang của Con Rồng Sản Xuất vô độ—tiêu thụ nửa số lượng xi măng và gần nửa số thép của thế giới, một phần ba đồng của Tàu, một phần tư aluminum, và những số lượng vĩ đại các thứ khác như antimony, chromium, cobalt, lithium, zinc, và gỗ. Chính những tài nguyên này và các thứ khác từ nhiều nơi trên thế giới góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế và mức sống của mọi quốc gia.

Bauxite và sắt từ những nước như Guinea và Tanzania được dùng để chế biến thành aluminum và thép mà chúng ta cần để sản xuất máy bay ở Seattle, Wahington và để đóng tàu ở Bath, Maine. Đồng từ Chile để làm dây điện, cobalt từ Congo dùng trong các xưởng cơ khí ở Michigan, và niobium từ Brazil dùng trong nhiều thứ từ máy hỏa tiễn cho quốc phòng đến lò điện nguyên tử dân sự.

Lithium từ Bolivia và Nambia dùng trong bình điện xe hơi lai (hybrid), manganese từ Gabon dùng để sản xuất bình nước uống bằng nhựa, và titanium từ những nơi như Mozambique, Madagascar, và Paraguay để sản xuất thép tốt dùng trong việc chế tạo máy bay tuyệt vời Boeing 787 Dreamliner hoặc đầu gối và hông nhân tạo của Johnson & Johnson.

Nhưng Tàu muốn tất cả những tài nguyên thiên nhiên ở tất cả các nước này là của Tàu, dành riêng cho ngành sản xuất của Tàu và để tạo việc làm trong nước Tàu. Nếu chúng ta thụ động đứng nhìn để Tàu tự tung tự tác, thì chúng nên tự đào hố chôn nền kinh tế của chúng ta bằng cái xẻng mạ vàng làm ở Thượng Hải. Nhưng nếu muốn trực diện đế quốc đang lên này để bảo vệ nền kinh tế và an ninh quốc gia, chúng ta cần hiểu rõ trò “nhử mồi” của Bắc Kinh.

Trò Nhử Mồi của Đế Quốc Rồng

Dân của lục địa đẹp mê hồn này cần sự tiến bộ. Nhưng Tàu đến đây không phải để giúp, mà là để cướp. - Daily Mail Online

Kế hoạch nhử mồi của Tàu luôn luôn bắt đầu bằng cùng một cách: Chủ tịch nước, hoặc thủ tướng, hoặc bộ trưởng thương mại đến thủ đô của một xứ xa xôi như Djibouti hay Niger hay Somalia, mà nhiều người Mỹ chẳng biết mấy chỗ này ở đâu trên bản đồ thế giới. Ông ta giơ cao vẫy vẫy một tấm chi phiếu to và hứa hẹn cho vay rộng rãi với lãi suất thấp để xây dựng hạ tầng cơ sở như đường xá, cầu cống, hải cảng, xa lộ; hoặc phí phạm như dinh tổng thống tráng lệ, hoặc AK47 để các lãnh tụ độc tài chà đạp người dân.

Đổi lại, thuộc địa mới chỉ cần chấp nhận hai điều kiện.

Đầu tiên, muốn nhận tiền thì phải giao nộp các tài nguyên thiên nhiên—như vậy Tàu có thể chiếm trọn cho riêng mình tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa.

Thứ nhì, phải mở cửa cho hàng đã thành phẩm từ các xưởng sản xuất của Tàu tràn vào thị trường thuộc địa—như vậy Tàu chiếm luôn thị trường mới nổi này.

Phương pháp để có tài nguyên của Tàu khác rất xa phương pháp của hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, trong đó mọi người dựa vào thị trường toàn cầu để điều phối năng lượng và nguyên vật liêu qua hệ
thống giá cả. Phương pháp phân phối tài nguyên bằng thị trường tự do là cốt lõi của nền kinh tế thế giới để mọi người cùng có lợi. Nhưng thay vì hợp tác kiểu tư bản, đế quốc tư bản Bắc Kinh lại chỉ muốn làm
đế quốc.

Cái kiểu nhử mồi của con Rồng đang được áp dụng ở Phi Châu, Nam Mỹ, và phần lớn Trung Á, là định nghĩa chính xác cho chủ nghĩa đế quốc: Cướp tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa mà những tài nguyên này là tài sản duy nhất của thuộc địa. Mang những tài nguyên này về Tàu thay vì sử dụng tại chỗ để giúp phát triển thuộc địa. Rồi sau đó chuyển ngược những tài nguyên này lại thuộc địa dưới dạng hàng đã thành phẩm.

Phương pháp này tạo việc làm nơi đế quốc, giúp các công ty đế quốc kiếm tiền, và dĩ nhiên khiến số người thất nghiệp ở thuộc địa càng nhiềuthêm.

  Phần thuộc địa được hưởng là những việc khai thác nguy hiểm lương thấp, trong khi các việc sản xuất được đưa về Quảng Châu hay Thành Đô (Chengdu) hay Thượng Hải. Tốt Tàu hưởng, xấu thuộc địa chịu.

Ngoại Giao Bằng Tiền Kiểu Tàu

Khi quan sát thực tế tại chỗ, chúng tôi tưởng như Tàu đã chiếm Phi Châu.—Ngoại Trưởng Musa Kusa của Libya.

Thực ra trò nhử mồi của Tàu đang xảy ra khắp nơi trên địa cầu.

 Angola đã trả nợ cho Tàu số lượng dầu trị giá 10 tỉ đô la và vẫn còn tiếp tục.

Cộng Hòa Dân Chủ Congo đến nay đã trả cho Tàu số lượng tài nguyên tương đương nhiều tỉ đô la.

Ghana đang trả bằng hạt ca cao, Nigeria trả bằng khí đốt, và Sudan lấy vũ khí và trả Tàu bằng dầu. Không một nước nào có lợi trong cuộc trao đổi với Tàu.

Trong khi đó ở Peru, Tàu đang làm chủ cả một ngọn núi đồng; và để mua núi Toromacho của Peru, Tàu đã học từ một câu nói nổi tiếng của W. C.

Field, “Không bao giờ cho kẻ khờ một cơ hội.” Thực tế là Tàu đã mua được kho đồng quý giá này chỉ với 3 tỉ đô la, kể cả tiền hối lộ, và giờ đang lời tới mức 2,000 %. Trong khi đó các vấn nạn đói khát, mù
chữ, nghèo khó, tai nạn lao động, và môi trường ô nhiễm thì dân Peru lãnh đủ.

Trường hợp Peru đã tệ, việc Bắc Kinh trao đổi với lãnh tụ giết người

Robert Mugabe của xứ Zimbabwe còn tệ hơn. Bạo chúa già nua run rẩy này đang cai trị một trong các xứ nhiều tài nguyên thiên nhất và cũng có ít việc làm nhất của thế giới, đã bán số lượng dự trữ platinum của Zimbabwe trị giá 40 tỉ đô la cho Tàu với giá chỉ 5 tỉ, rồi hắn dùng tiền này để xây lâu đài mới, sắm trực thăng vũ trang, chiến đấu cơ phản lực, và súng ống để đè đầu cưỡi cổ dân Zimbabwe.

Chỉ có Tàu mới có khả năng làm vụ kỳ thị và đàn áp người da đen (Apartheid) trước kia trở nên chuyện nhỏ khi so sánh với tình trạng hiện nay.

“Rồi sao?” Có thể bạn hỏi vậy. Tàu cũng phải được hưởng tài nguyên như Mỹ hay Âu Châu hay Nhật chứ! Và tại sao người Mỹ cần phải để ý khi Tàu bóc lột mấy xứ Phi Châu tham nhũng thối nát, hoặc mấy xứ nghèo mạt ở Nam Mỹ? Nếu lãnh đạo của mấy cái xứ tồi tệ này ngu quá hay tham quá để Tàu lừa gạt, thì kệ họ chứ! Làm sao mà chuyện này ảnh hưởng được đến mấy người làm cho các hãng cơ khí sản xuất đồ bằng graphite ở Bensenville, Illinois, kính màu cho nhà thờ ở Kokomo, Indiana, hoặc bàn ghế gỗ ở Asheboro, North Carolina? Và làm sao trò nhử tiền của Tàu lại ảnh hưởng được đến hy vọng tìm việc của những người trẻ tốt nghiệp đại học UC Berkeley với bằng hóa học, hoặc tốt nghiệp Georgia
Tech với bằng kỹ sư?… Rồi, ít ra sau đây là một câu trả lời.

Bằng cách thiết lập các thuộc địa ở Phi Châu, Á Châu, và sân sau của Hoa Kỳ là Nam Mỹ, Tàu càng ngày thâu tóm càng nhiều tài nguyên của thế giới. Kế hoạch này cho Tàu ở vị thế độc quyền về tài nguyên với giá thấp nhất—và như vậy Tàu có lợi thế cạnh tranh với Mỹ và với cả thế giới.

Thực ra kế hoạch thâu tóm tài nguyên thế giới của Tàu cũng tương đương với việc cấm vận tài nguyên đối với các quốc gia khác trên thế giới. Vì khi Tàu kiểm soát bauxite ở Brazil, Equatorial Guinea, và Malawi; đồng ở Congo, Kazakhstan, và Nambia; sắt ở Liberia và Somalia; manganese ở Burkina Fasco, Cam Bốt, và Gabon; chì ở Cuba và Tanzania; zinc ở Algeria, Kennya, Nigeria, và Zambia, thì đâu còn gì cho các xưởng ở Cincinnati và Memphis và Pittsburgh—và Munich và Yokohama và Seoul.

Chuyện Tàu “cấm vận” khiến xe hơi tương lai sẽ được sản xuất ở Lan Châu (Lanzhou) và Vu Hồ (Wuhu) thay vì ở Detroit và Huntsville; máy bay tương lai sẽ được sản xuất ở Binzhou và Thẩm Dương (Shenyang) thay vì ở Seattle và Wichita; chíp máy vi tính tương lai sẽ được làm tại Đại Liên (Dalian) và Thiên Tân (Tianjin) thay vì tại Silicon Valley; và thép của thế kỷ 21 sẽ được sản xuất ngày càng nhiều hơn ở Đường Sơn (Tangshan) và Vũ Hán (Wuhan) thay vì ở Birmingham, Alabama, và Granite City, Illinois.

Đây chắc chắn không phải là cách thị trường tự do và sự hợp tác thương mại quốc tế hoạt động. Và tất cả chúng ta đáng lẽ phải nổi nóng vớichuyện đang xảy ra này. Nhưng trong các phòng họp chính trị ở Berlin, Tokyo, và Washington, thái độ của các chính khách có vẻ ngày càng giống như Rhett Butler trong phim Cuốn Theo Chiều Gió: “Anh nói thiệt cưng nghe, anh chẳng  thèm để ý.”

Dân Con Rồng Tràn Ngập Đại Lục Đen

Không cần biết Tàu nói gì, thực tế rõ ràng là không phải chỉ có kỹ sư và khoa học gia Tàu đến Phi Châu. Nông dân cũng đến luôn. Đúng là thực dân kiểu mới. Hoàn toàn không có đạo đức, không có giá trị gì
cả.—Mustafa al-Gindi, Thành viên Nghị Viện Ai Cập

Trong khi Tàu phát triển và các nước sản xuất khác có nguy cơ xuống dốc, các thuộc địa mới của Tàu như Angola và Zimbabwe vẫn trong tình trạng đói nghèo, và thường bị nội chiến. Mặc dù các thuộc địa này có nhiều tài nguyên thiên nhiên, sự đói nghèo và xung đột ở Phi Châu là kết quả trực tiếp do sự tráo trở của Tàu. Lúc đầu Tàu hứa hẹn cho vay tiền để xây dựng hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân địa phương. Nhưng khi khởi công thì Tàu lại xuất cảng đội quân cả triệu công nhân qua để làm. Thay vì thuê kiến trúc sư, kỹ sư, công nhân, xe tải, tại địa phương, Tàu đưa dân Tàu qua tối đa, chỉ thuê dân địa phương ở mức tối thiểu.

Tác giả của quyển sách Safari Của Tàu (China Safari) mô tả tình trạng ở Sudan như sau:
Người Tàu khoan dầu và bơm dầu vào ống dẫn của Tàu đưa lên tàu của Tàu để chở về Tàu dưới sự bảo vệ của nhân viên Tàu. Công nhân Tàu làm đường làm cầu và xây đập nước khổng lồ khiến nhiều chục ngàn dân địa phương và nhiều ngàn điền chủ phải di tản. Nông dân Tàu tự sản xuất thực phẩm cung cấp cho đội quân lao động Tàu, hoặc nhập cảng các thực phẩm khác từ Tàu. Tàu cũng trang bị vũ khí cho các lãnh tụ tồi tệ địa phương để phạm tội ác với con người, và bảo vệ cái chế độ đó trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Và đây là âm mưu của Tàu mà ít ai để ý. Ngoài mục đích thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường mới, Bắc Kinh còn có kế hoạch xuất cảng nhiều triệu dân Tàu qua các xứ thuộc địa ở Phi Châu và Nam Mỹ để giảm sức ép do dân số quá đông ở Tàu. Trong quyển China Safari, một khoa học gia Tàu đã giải thích kế hoạch đổ bộ dân Tàu như sau:
Chúng tôi có 600 con sông ở Tàu mà hết 400 sông kể như chết vì ô nhiễm trầm trọng… Chúng tôi phải dời ít nhất 300 triệu dân qua Phi Châu thì may ra mới giải quyết được tình trạng.

Và đây là một thí dụ nhỏ về việc Tàu chơi ép để xuất cảng dân qua Đại Lục Đen: Khi Nambia không thể trả nợ, mấy tay cho vay cắt cổ ở Bắc Kinh ép Nambia phải nhận nhiều ngàn gia đình Tàu qua định cư. Bí mật này được tiết lộ bởi WikiLeaks; và không cần nói cũng biết là khi tin này xì ra, dân Nambia vô cùng phẫn nộ.

Có thể bạn cũng nổi điên nếu Tàu cũng ép Mỹ phải nhận di dân như vậy.

Thử nghĩ xem, nếu vài tỉ đô la có thể khiến Tàu đưa được vài ngàn gia đình qua định cư ở Nambia, thì nước Mỹ phải nhận bao nhiêu trăm ngàn dân Tàu để trừ số nợ hai ngàn tỉ? Các tiểu bang như Montana và Wyoming còn rộng lắm mà phải không?

Sau đây là sự mô tả của nhà báo có tiếng Andrew Malone về kế hoạch biến Phi Châu thành của Tàu:
Một cách âm thầm, bẩy trăm năm chục ngàn dân Tàu đã định cư ở Phi Châu trong một thập niên qua. Và vẫn còn tiếp tục. Kế hoạch này đã được các giới chức Tàu tính toán cẩn thận. Một chuyên gia ước tính là Tàu cần phải đưa ba trăm triệu dân qua Phi Châu để giải quyết nạn nhân mãn và ô nhiễm.

Kế hoạch có vẻ như đang tiến hành tốt đẹp. Cờ Tàu đang bay khắp nơi ở Phi Châu. Những hợp đồng béo bở đang được ký kết để mua các thương phẩm như dầu, platinum, vàng, và khoáng chất. Các tòa đại sứ mới đang được xây và các đường bay đang được thành lập. Thành phần thượng lưu Tàu ở Phi Châu hiện diện khắp nơi, đi mua sắm ở những cửa hàng đắt tiền, lái xe Mercedes và BMW, cho con học  trường tư riêng biệt…

Ở khắp nơi trên đại lục đẹp đẽ này, dân Tàu đang tràn vào như cơn nước lũ… Các khu đô thị biệt lập có hàng rào bao bọc đang mọc lên khắp nơi.

Người da đen không được bén mảng. Ngay cả những quần áo đặc thù Phi Châu bày ở tiệm cũng được nhập cảng từ Tàu, mang nhãn “Made in China.”

Từ lời nhận xét gay gắt trên của Malone, bạn có thể thấy được phần nào rằng Tàu không chỉ xuất cảng công nhân xây dựng qua Phi Châu, Á Châu, và Nam Mỹ, mà Tàu còn đưa qua nông dân, thương nhân, và cả gái điếm!

Để dễ cảm nhận được sự xâm chiếm đất đai của Tàu, ta hãy giả sử rằng chính phủ Mỹ tịch thu vài triệu mẫu đất canh tác tốt ở Iowa và Nebraska đem cho Tàu, đuổi nông dân ở đó đi chỗ khác chơi, rồi phân
chia vùng cho Tàu ở riêng, ăn uống riêng. Bạn thử nghĩ xem dân Mỹ sẽ phẫn nộ lên tới mức nào? Đó chính là điều đang xảy ra ở Phi Châu, nơi đã có hơn một triệu nông dân Tàu. Đúng vậy, hơn một triệu nông dân Tàu đang cày đất Phi Châu sản xuất thực phẩm để xuất cảng ngược về Tàu nuôi dân Tàu—ngay trong khi dân địa phương đang đói nghèo.

Đây là một sự thực cay đắng trong việc chiếm đất Phi Châu của Tàu:
Theo tuần báo The Economist, Tàu đã chiếm hơn 7 triệu mẫu dầu cọ (palm oil) tốt của Congo để làm xăng hữu cơ.

Ở Zambia các nông trại Tàu đã sản xuất một phần tư số trứng được tiêu thụ ở thủ đô Lusaka. Ở Zimbabwe, theo báo Weekly Standard thì chế độ của Mugabe đã cho không Tàu những trang trại trước kia của người da trắng. Trong khi đó Con Ngựa Thành Troy mang cái tên mai mỉa “Nông Trại Hữu Nghị” đang được xử dụng ở các xứ như Gabon, Ghana, Guinea, Mali, Mauritania, và Tanzania để chiếm những khu nhỏ hơn hầu tránh bị để ý.

Chiếm Thị Trường Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh

Cùng với cơn lũ nông dân Tàu, nhiều đợt con buôn Tàu cũng tràn vào Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Một số mang theo cơn lũ hàng Tàu vào các thành phố lớn như Kinshasa, Kampala, Lagos, Lima, và Santiago. Một số khác mạo hiểm hơn, đến lập nghiệp ở các nơi xa xôi đang có các công trình xây cất của Tàu khắp Phi Châu và Nam Mỹ.

Về chuyện gái điếm Tàu thì, giống như các công ty Tàu hạ giá thật thấp để tiêu diệt đối phương, các cô sống về đêm ở các quán rượu và nhà chứa cũng dùng cách rẻ tiền để loại đối thủ cạnh tranh. Các tác giả
của quyển China Safari mô tả về tình trạng ở xứ nhiều gỗ Cameroon như sau:

“Gái điếm Tàu chỉ đòi có 2,000 CFA (4.25 đô la) trong khi các cô địa phương thì phải trên 5,000 mới chịu lên giường.”

Và đây lại thêm một chi tiết buồn cười nữa về lý do kinh tế khiến dân Tàu bỏ xứ ra đi: Khi cảnh sát giải thoát được một nhóm các cô do các tay buôn người đưa vào Congo-Brazzaville để làm điếm, những cô này lại nhất định đòi ở lại. Lý do là các cô kiếm được khá tiền hơn và được đối xử tốt hơn khi ở quê nhà Tứ Xuyên (Sichuan). Thì ra làm điếm ở xứ Congo xa xôi còn khá hơn làm ruộng ở quê Rồng.

Tàu Xuất Cảng Sàn Gỗ Giết Người và Rác Độc Hại

Các công ty Tàu trả lương công nhân rất thấp và bắt họ làm việc nhiều giờ; làm sao đòi hỏi họ làm tốt hơn ở nước ngoài? Với 6,700 công nhân mỏ bị tai nạn chết mỗi năm (17 người một ngày)… làm sao trông mong được các công ty Tàu làm khá hơn ở các nơi khác trên thế giới? Tàu đã tàn phá hệ sinh thái nước Tàu trong quá trình hiện đại hóa nhanh chóng; làm sao ta có thể tin là Tàu sẽ tôn trọng môi trường như các nước Tây Phương?—Weran Jiang, Đại Học Alberta

Với công nhân xây dựng, lái buôn, gái điếm, nông dân, hoặc cơn lũ hàng rẻ tiền đang khiến các cơ sở thương mại địa phương phải dẹp tiệm, Tàu đang xuất cảng các vấn nạn kinh tế và môi trường của họ qua các thuộc địa mới, đồng thời đẩy người dân bản xứ sâu vào hàng ngũ những người nhận cứu trợ hoặc phải đi ăn xin. Nhưng đây không phải là những hàng xuất cảng duy nhất.

Tàu cũng đang xuất cảng sự coi thường công nhân và sự coi thường môi trường. Như giáo sư Weran Jiang đã nói rõ, không có gì phải ngạc nhiên. Bởi vì các kế hoạch gia Tàu ở Bắc Kinh còn chẳng chịu bảo vệ công nhân và môi trường của chính họ, thì làm sao trông mong là họ tử tế với mấy nơi khác như mỏ cobalt ở Congo, rừng ở Gabon, mỏ bạc ở Peru, hay mỏ đồng ở Zambia?

Sự trâng tráo của Tàu khi tàn phá đất thuộc địa có vẻ như không có giới hạn. Ta hãy xem chuyện gì đã xảy ra khi công ty quốc doanh thuộc hàng lớn nhất của Tàu là Sinopec vào Gabon để tìm dầu. Năm 2002 chính phủ Gabon đã phân định một phần tư diện tích quốc gia toàn rừng nguyên sinh là vùng thiên nhiên cần được bảo vệ. Nhưng khi Sinopec vào Gabon tìm dầu, Sinopec bắt đầu ngay giữa khu rừng, đào bới ủi đất làm đường chằng chịt ngang dọc, đặt mìn tàn phá bừa bãi—mà chỉ bị chính quyền khẻ tay nhẹ.

Cũng như “kim cương máu” để mua vũ khí Tàu tàn sát người dân vô tội ở Congo, tiền bán gỗ cho Tàu được dùng để tài trợ và mua vũ khí cho cuộc nội chiến đẫm máu.

Người Hùng Trên Yên Ngựa Đâu Rồi?

Ở Nambia khi những công nhân bị đối xử tệ lên tiếng than phiền thì bị bảo rằng “hãy cố chịu đựng để đời con cháu được khá hơn.” Ở Kenya, khi bị hạn hán trầm trọng, dân chúng chặn công nhân làm đường để đòi được lấy nước uống từ một cái giếng duy nhất trong khu vực Tàu đang thi công.—Africa News

Không khí sợ hãi và ghê tởm bao trùm các xưởng và mỏ của các ông chủ Tàu ở Phi Châu và Nam Mỹ, vì giống như ở Tàu, làm việc nhiều giờ, lương thấp, thiếu an toàn, và những ông xếp tàn ác—cùng với việc đổ bừa bãi đủ thứ chất thải độc hại vào môi trường chung quanh.


Chút chi tiết đẫm máu: Khi các công nhân ở mỏ than Collum Coal Mine miền Nam Zambia lên tiếng than phiền về lương thấp và điều kiện làm việc thiếu an toàn, ông xếp Tàu hung bạo dùng súng shotgun bắn gục 11 người. Người hùng trên yên ngựa của Clint Eastwood đâu rồi?

Vụ bắn này không phải là riêng lẻ. Chỉ vài tháng trước đó ở một mỏ khác ở Zambia, cuộc đình công trở thành cuộc bạo động khi một xếp Tàu bắn vào đám đông. Dĩ nhiên Bộ Ngoại Giao ở Bắc Kinh gọi cuộc thảm sát chỉ là “sự sai lầm.” Bạn nghĩ sao?

Sự Vô Đạo Đức Của Tàu Làm Hại Tây Phương

Trong 640 triệu vũ khí nhẹ đang lưu hành trên thế giới, khoảng 100 triệu ở Phi Châu.-Baffour Dokyi Amoa, Pambuzaka News

Dù bị thiệt hại đủ thứ, câu hỏi là tại sao nhiều nước Phi Châu, Á Châu, và Châu Mỹ La Tinh lại mở rộng vòng tay với Tàu? Có nhiều câu trả lời, và câu trả lời tùy vào cái xứ đó thuộc loại nào.

Loại địa ngục Phi Châu nơi lãnh tụ là những kẻ vũ trang, sát nhân, hoặc những lãnh tụ “dân chủ” trá hình với thùng phiếu bị tráo và dân bị bầu dưới họng súng. Những chế độ đểu cáng như Angola, Sudan, và Zimbabwe luôn luôn ở đầu bảng.

Ở những xứ này và nhiều xứ Phi Châu và Nam Mỹ khác, nơi nền dân chủ yếu và lãnh tụ quân sự mạnh, thực dân Tàu áp dụng khẩu hiệu lạnh xương sống do chính Thủ Tướng Tàu Ôn Gia Bảo thốt ra ở nghị viện Gabon: “Chỉ buôn bán thôi, không có điều kiện chính trị gì cả.”

Với chủ trương này, Tàu làm ăn với bất cứ một chính quyền ngoại quốc nào mà không cần biết chính quyền ấy tàn ác bạo ngược hoặc thối nát đến đâu. Tàu hoàn toàn không hề chỉ trích hay không hề đặt ra một điều kiện nào về nhân quyền hoặc sổ sách minh bạch.

Vậy ta có thể thấy ngay rằng chủ trương vô đạo đức của Tàu trong lãnh vực ngoại giao cho Tàu một lợi thế rất lớn so với các nước văn minh như Mỹ, Anh, Pháp, và Nhật. Những nước văn minh hành động riêng lẻ hoặc qua một cơ chế quốc tế như Liên Hiệp Quốc, dùng các vũ khí ngoại giao như cấm vận kinh tế, phong tỏa tài khoản, và cắt viện trợ, để buộc các bạo chúa phải bớt hung hăng. Nhưng trong khi các nước văn minh tạo sức ép lên các bạo chúa thì Tàu lén luồn vào bằng cửa sau.

Khi Mỹ ngưng giao thương với Sudan vì quân đội Ả Rập của nước này đang giết người da đen ở Darfur; khi Liên Hiệp Quốc cấm vận vũ khí đối với Ivory Coast hay Sierra Leone; khi Âu Châu cố gắng tạo sức ép lên Eritrea hay Somalia; ngay cả khi gần như toàn thế giới đang đòi lãnh tụ độc tài Robert Mugabe của Zimbabwe phải tôn trọng kết quả cuộc bầu cử, thì Bắc Kinh lợi dụng cơ hội nhẩy vào, cung cấp cho các bạo chúa này đủ thứ, từ vũ khí cá nhân và chiến đấu cơ phản lực đến máy vi tính và các phương tiện truyền thông.

Đây là một thí dụ cụ thể về việc “đổi máu lấy dầu” ở Dafur, trong đó vũ khí dùng để tàn sát dân là do Tàu cung cấp. BBC mô tả trong tài liệu “Cánh Đồng Thảm Sát Mới” như sau:

Nhiều ngàn phụ nữ và trẻ em bị hiếp dâm một cách có tổ chức ở Dafur trong khi các người chồng, người anh, và con trai của họ bị giết thê thảm… Chính quyền thả bom trước rồi lính tràn vào làng mạc Phi Châu trên lưng lạc đà, ngựa, và xe tải… Nhiều làng bị tấn công tới năm lần.

Một phụ nữ tên Kalima… khóc than gọi chồng khi chồng cô bị đám lính giết, còn đứa con nhỏ 3 tuổi trên tay cô thì bị đám lính giật ra rồi thiêu sống tại chỗ. Bản thân cô bị đè ra hiếp dâm tập thể.

Như vậy, trong khi chúng ta ở các nước tự do dân chủ tôn trọng đạo đức thì Tàu lợi dụng cơ hội để thu hoạch kinh tế, bằng cách cung cấp AK47 cho nhiều ngàn lính trẻ con Phi Châu ở Liberia, Nigeria và Sierra Leone—trong khi máy ủi đất của Tàu vùi nhiều ngàn tử thi dưới những
cánh đồng thảm sát ở Dafur.

Còn Nước Úc? Thế Giới Sụp Đổ

Công ty China Guangdong Nuclear Power Holding Co… muốn mua quyền kiểm soát công ty Energy Metals Ltd. của Úc với giá 83.6 triệu đô la Úc.

Đây là một phần làn sóng đầu tư của Tàu vào tài nguyên thiên nhiên của Úc. Việc công ty quốc doanh CGNPH muốn mua 70% chương trình khai thác uranium của Bigrlyi ở khu vực phía bắc nước Úc là dấu hiệu đầu tiên cho thấy Tàu muốn lấn vào nước sản xuất uranium lớn nhất thế giới.

Tàu tỏ ý muốn mua công ty Úc giữa lúc liên hệ Úc-Tàu xuống mức thấp. 

Tháng vừa rồi Tàu giam giữ bốn nhân viên Anh-Úc của công ty Rio Tinto Ltd., trong đó có công dân Úc Stern Hu, với tội hối lộ và vi phạm bí mật quốc gia. Nhiều chính trị gia và bình luận gia không an tâm với việc Tàu muốn đầu tư lớn vào khu vực khai thác mỏ của Úc. —The Wall Strett Journal

Điều ngạc nhiên về kế hoạch thực dân của Tàu là làm sao ngay cả các nền kinh tế phát triển và có cơ cấu dân chủ vững mạnh như Úc, Brazil, và Nam Phi, cũng bị đồng tiền Tàu lôi kéo.

Ta hãy xem nước Úc. Dân Úc có trình độ giáo dục cao, tay nghề vững, và gần như có đủ loại tài nguyên thiên nhiên cần thiết để trở thành một trung tâm kỹ nghệ mạnh. Nhưng thay vì phát triển các ngành kỹ nghệ xử dụng tài nguyên sẵn có để sản xuất hàng tiêu dùng, các lãnh đạo thiển cận lại cho Tàu vào mua tài nguyên, đào những kho tàng khổng lồ để đem về các xưởng của Tàu.

Chỉ trong vài năm qua, các công ty Tàu như Yangzhou Coal Mining, China Minmetals, Hunan Valin Steel & Iron, China Metalurgical, và Shanghai Baosteel, đã được những hợp đồng khai thác tài nguyên vĩ đại. Dù trong ngắn hạn vài trăm gia đình thượng lưu Úc bỗng giàu to, nhưng về đường dài nước Úc sẽ lâm cảnh nghèo khó khi các mỏ bị vét sạch.

Ngay cả trong ngắn hạn nước Úc cũng đang bị thiệt thòi. Bởi vì sau khi Tàu dùng nguyên liệu của Úc sản xuất thành hàng hóa rồi đem ngược trở qua Úc bán, Úc bị thâm thủng mậu dịch với Tàu—mặc dù Úc có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú.

Cả hai nước Brazil và Nam Phi cũng tương tự–nhưng yếu hơn. Cả hai đều ngồi trên những kho tàng  phong phú. Cả hai đều có giới trung lưu và đều có nhiều cơ hội gia nhập hàng ngũ những nước kỹ nghệ. Nhưng cả hai lại cho Tàu lấy quá nhiều tài nguyên thiên nhiên và vì vậy bị thâm thủng mậu dịch với Tàu.

Chẳng hạn như ở Brazil và chỉ trong ngành dầu lửa, công ty quốc doanh Sinopec của Tàu đã đổ vào 7 tỉ đô la để mua phần lớn số dầu dự trữ khổng lồ ở Santos Basin. Và đó không phải là điều duy nhất: Sinopec
còn cho công ty Petrobras của chính phủ Brazil vay 10 tỉ đô la để đổi lại, Sinopec được quyền mua 10,000 thùng dầu thô mỗi ngày trong 10 năm với giá  thấp, dưới mức đáy. John Pomfret của báo The Washington Post đã vẽ bức tranh toàn cảnh “Chinamax” như sau:

Dọc theo dải cát vàng dài 175 dặm ở bờ biển Dại Tây Dương phía bắc Rio de Janeiro, Tàu đang xây dựng một thực thể kinh tế mới. Đi qua khỏi những hải cảng lớn nơi những tàu khổng lồ của Tàu đang lấy quặng sắt hoặc lấy dầu chở về Bắc Kinh, là một thành phố lớn gấp đôi Manhattan với các hãng xưởng đang mọc lên. Nhiều công trình này được xây dựng với tiền đầu tư của Tàu: xưởng luyện thép, công ty vận chuyển, xưởng xe hơi, xưởng sản xuất dụng cụ khai thác dầu và khí đốt… Sự đầu tư vào Brazil cho thấy kế hoạch “hướng ngoại” của Tàu để bảo đảm nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên và để làm chậm sự phát triển của các công ty thuộc chính quyền địa phương.

Tổng Thống Nam Phi Thabo Mbeki tỏ ý lo ngại về sự xâm lấn của thực dân Tàu: “Nếu Nam Phi chỉ xuất cảng nguyên liệu thô qua Tàu và nhập cảng hàng đã thành phẩm từ Tàu, Phi Châu sẽ bị kẹt mãi mãi trong điều kiện kém phát triển.”

Dù là nước Úc văn minh, Congo loạn lạc, Nam Phi đang phát triển, hay là Zimbabwe độc tài, tất cả các nước này cùng giống nhau ở một điểm:
Tàu đang bóc lột có kế hoạch các kho báu của họ.

Và sau khi các kho báu bị cưa, bị xúc, và bị hốt sạch, những thuộc địa này chỉ còn là những cái vỏ rỗng, không còn cơ hội để trở thành quốc gia kỹ nghệ với khả năng tạo nhiều việc làm mà đúng ra họ đã có thể được hưởng nếu họ không là thuộc địa của Tàu.

Đại Bàng Mỹ Biến Thành Chim Bồ Câu Lớn Nhất Thế Giới

Con Rồng sản xuất rất tham ăn. Con Rồng thuộc địa không ngưng nghỉ. Đại Bàng Mỹ thì ngủ quên.—Ron Vara

Kết quả sau cùng là Tàu có kế hoạch chiếm đủ nguyên liệu cho các nhà máy Tàu chạy đều. Còn thế giới thì không. Trong khi đội quân triệu người của Tàu tràn đi khắp Phi Châu, Á Châu, và Châu Mỹ La Tinh để thực hiện kế hoạch thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường, Đại Bàng Mỹ vẫn còn đậu dưới đất, Âu Châu không dám đối diện sự thật, và Nhật Bản thì bất lực vì quá sợ hãi. Nhưng trước kia đâu đến nỗi như vậy—ít ra là với nước Mỹ.

Nước Mỹ đã từng là bậc thầy trong việc sử dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới qua các công tác cứu trợ, ngoại giao, và viện trợ quân sự. Nhưng giờ thì Đại Bàng Mỹ đã biến thành chim bồ câu; chúng ta đang gửi Peace Corps đến giúp những quốc gia mắc nợ ít hơn chúng ta, và chúng ta đang núp trong những trại lính ở những xứ mà chúng ta không nên đến. Đã đến lúc chúng ta và thế giới phải tỉnh dậy—và đứng lên chống lại—cái đế quốc thực dân đang hiện diện ngay giữa chúng ta. Một lần nữa, như Peter Finch đã nói một cách hùng hồn rằng, thế giới văn minh phải mở tung cánh cửa phía Đông mà gào to lên rằng, “Giận lắm rồi, không thể nào chịu nổi nữa.”

Bởi vì nếu chúng ta không vùng lên, “việc cấm vận” tài nguyên thiên nhiên mà Tàu đang áp dụng trên thế giới qua kế hoạch thực dân sẽ là dây thòng lọng siết cổ tất cả các nền kinh tế thế giới.

  Với thời gian, khi đế quốc Tàu ngày càng thâu tóm được nhiều hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm để thỏa mãn cơn thèm khát của Tàu, dây thòng lọng sẽ càng siết chặt vào cổ của Mỹ, Âu Châu, Nhật, Nam Hàn, và các nước khác.

Peter W. Navarro & Greg W. Autry
Nguyễn Vinh dịch

Orthography

   Một dấu phẩy,

Phiên tòa xử vụ ly dị, tòa phán với ông chồng:
- Ở với vợ lớn, không được ở với vợ nhỏ.

Ông chồng về nhà đưa bản án cho bà vợ lớn, chỉ sửa lại dấu phẩy:
- Ở với vợ lớn không được, ở với vợ nhỏ

Có người hỏi nhà văn Oscar Wilde (1856 - 1900) sao ông thường có vẻ đăm chiêu. Nhà văn Anh này đáp: "Sáng nay tôi đã bỏ quên một dấu phẩy trong một bài thơ. Chiều nay tôi phải lấy lại".

Sai một phẩy, nhảy ngàn dặm

Một giáo viên tiếng Anh đã đề nghị mỗi sinh viên đặt những dấu thích hợp vào câu sau: “Woman without her man is nothing”. Bọn con trai ngắt câu: “Woman, without her man, is nothing” (đàn bà, nếu thiếu nửa kia của mình, thì chẳng là gì cả). Bọn con gái lại ngắt câu như sau: “Woman: without her, man is nothing” (phụ nữ: thiếu cô ta, đàn ông chẳng là gì cả).

Một phụ nữ Mỹ đi du lịch ở châu Âu gửi điện về cho chồng: “Có một chiếc xuyến đẹp mê hồn, giá 75 đô. Em mua được không?” Anh chồng lập tức trả lời “No, price too high” (không, giá quá cao). Nhưng nhân viên điện tín mắc một sai lầm nhỏ đã bỏ qua dấu phẩy và thành: “No price too high” (không giá nào là quá cao). Được lời như cởi tấm lòng, cô vợ mua ngay chiếc xuyến. Khi về Mỹ, cô vợ khoe chiếc xuyến làm người chồng choáng váng. Người chồng đem vụ “bỏ sót dấu phẩy” này ra toà và thắng kiện. Từ đây, các hãng điện tín đòi hỏi nhân viên phải đánh vần dấu câu trong bức điện chứ không dùng ký hiệu. Nghĩa là phải viết “No comma price too high” (không phẩy giá cao quá).

Dấu phẩy đôi khi có giá đến nửa triệu đô. Năm 1870, trong danh sách các mặt hàng được miễn thuế vào Mỹ, lẽ ra là câu “Tropical fruit-plants for the purpose of propagation” (các cây nhiệt đới ăn trái nhằm mục đích nhân giống) thì người ta đánh nhầm dấu nối thành dấu phẩy, thành “Tropical fruit, plants for the purpose of propagation” (trái cây nhiệt đới, cây nhằm mục đích nhân giống). Thế là toàn bộ các loại trái cây nhiệt đới được nhập miễn thuế vào Mỹ. Tới khi người ta phát hiện ra sai sót chết người này, đã mất khoảng 500.000 USD tiền thuế không đòi lại được!

Được yêu, được sống nhờ dấu phẩy

Ông bố nọ muốn lấy tên nhà thơ La Mã vĩ đại Virgile đặt cho con trai mình. Khốn nỗi, ông lúng túng viết nhầm thành Virgule, tiếng Pháp có nghĩa là dấu phẩy. Anh chàng lớn lên cũng khẳng khiu như dấu phẩy, không thành nhà thơ mà vào làm bưu điện. Anh thầm yêu trộm nhớ cô hàng xóm Sophie. Cô gái này lại yêu chàng trai không yêu cô. Bao nhiêu thư gửi đi mà không nhận được hồi đáp. Rồi một hôm cô quyết định ra bưu điện gửi bức điện (chứ không viết thư nữa) cho chàng trai nọ.

– Tôi muốn gửi một bức điện – cô buồn rầu nói, mắt không nhìn Virgule, nhân viên bưu điện.
– Cô vui lòng đọc nội dung – Virgule cầm bút cảm động lắp bắp nói.
– “Je t’aime, virgule, Je t’adore, virgule, Je voudrais tant que tu me dises que tu m’aimes aussi, point” (Em yêu anh, phẩy, em thương anh, phẩy, em muốn anh cũng nói với em rằng anh cũng yêu em, chấm)

Anh chàng Virgule không cho virgule là dấu phẩy mà hiểu đó là tên mình: Em yêu anh, Virgule, em thương anh, Virgule… Anh chàng bưu điện yêu cầu cô gái nhắc lại. Sophie làm theo: “Em yêu anh, Virgule, em thương anh, Virgule…” Mắt anh ta sáng lên. Sophie nhận ra anh chàng này đáng yêu làm sao. Và họ đến với nhau.

Còn đây là giai thoại về hoàng đế Alexandre Đệ Tam (Nga) (qua tiếng Anh): từ chối ân xá cho một phạm nhân, ông đọc “Pardon impossible, to be sent to Siberia” (Không thể ân xá, đày đi Siberia). Vợ ông là Dagmar (cháu gái vua Đan Mạch Christian IX) là một người vô tâm, nên đã đánh nhầm dấu phẩy thành “Pardon, impossible to be sent to Siberia” (Ân xá, không thể đày đi Siberia). Thế là người tù này thoát tội.
Đặt sai dấu phẩy, biết bao chuyện dở cười dở khóc đã xảy ra!

@Internet 

Saturday, June 27, 2015

Australoa

Úc bán lô đất to gần bằng lãnh thổ Anh


Một trong những gia đình sở hữu bất động sản lớn nhất Úc đã rao bán lô đất rộng gần bằng lãnh thổ nước Anh với giá 325 triệu USD. Đây được xem là lô bất động sản lớn nhất thế giới.

Theo báo Daily Mail (Anh), lô đất rộng đến 11 triệu ha này nằm ở một khu vực hẻo lánh và chỉ có khoảng 150 người sinh sống. Khách hàng tiềm năng dự kiến sẽ phải mất khoảng một tuần nếu muốn đi máy bay xem hết lô đất - nằm trải dài qua  bang Nam Úc, bang Queensland, lãnh thổ Bắc Úc và bang Tây Úc.
 
Khách hàng tiềm năng sẽ phải mất khoảng một tuần đi máy bay nếu muốn xem hết lô đất  Ảnh: DAILY MAIL
Khách hàng tiềm năng sẽ phải mất khoảng một tuần đi máy bay nếu muốn xem hết lô đất  
Ảnh: DAILY MAIL
 
Hiện lô đất này là một phần tài sản của Công ty S Kidman & Co do ông Sidney Kidman sáng lập từ năm 1899 và con cháu của ông đã điều hành trong hơn 100 năm qua. Ông Kidman, sinh năm 1857, bỏ nhà ra đi khi mới 13 tuổi và lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, sau đó đã trở thành ông trùm ngành chăn nuôi của Úc với trang trại lớn nhất nước trong những năm 1920.
Trong hơn 100 năm, quyền sở hữu lô đất - được gọi là “tài sản tư nhân, phi quân chủ, phi nhà nước lớn nhất thế giới” -  đã trải qua 5 thế hệ.  Khoảng 30 người đến từ Úc và một số nước khác, như Mỹ, Trung Quốc, Anh, Thụy Sĩ, Canada, Indonesia... dự kiến tham gia đấu giá lô đất “khủng” này sau khi danh sách được chốt vào cuối tháng 8 tới.

Sim Đỗ

Nguyễn Duy Chính

Quan Niệm Về Biển Cả Của Trung Hoa
Dưới Hai Triều Minh và Thanh

LỜI NÓI ÐẦU

Quan niệm về lãnh thổ, lãnh hải trong thời gian gần đây đã được nhà đương cục Trung Hoa giải thích một cách chủ quan để phục vụ cho mục tiêu chính trị, lắm khi hoàn toàn ngược lại với sử sách cũ. Một điều khá rõ rệt, trong vị trí thiên triều, các triều đại Trung Hoa chỉ chú trọng đến những quốc gia tiếp cận với họ trên đất liền có thể giao thông bằng đường bộ. Biển cả không phải là một khu vực cần chinh phục mà là một chiến luỹ thiên nhiên. Việc khai thác đại dương – kể cả đánh bắt cá ven bờ biển –ít được quan tâm nên triều đình chỉ chú trọng đến việc hải phòng [phòng ngự bờ biển] và hải cấm [cấm đoán những qua lại trên biển] chủ yếu là để chống ngoại xâm hay ngăn ngừa những nhóm chống đối âm mưu bạo loạn.

Cho đến thế kỷ XIX, những ai dùng thuyền ra khơi nếu không có sứ mạng hay phép của triều đình Trung Hoa đều bị coi là giặc. Một khi đã rời quê hương, người dân không còn có thể trở về và nếu bị bắt lại, bản án tử hình là một điều khó tránh khỏi.

Trong khi đó, từ nghìn xưa dân tộc Việt vẫn coi biển cả như một phần không thể tách rời. Tích vẽ mình, truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, thần Kim Quy, quả dưa đỏ… là những minh chứng. Tuy biển cả không phải lúc nào cũng hiền hoà nhưng người Việt vẫn nương tựa và hoà hợp với thiên nhiên để sinh tồn. Tín sử nước ta có khá nhiều tài liệu đề cập đến việc khai thác thuỷ sản và hải sản tại các đảo ngoài khơi từ đời Trần, đời Lê. Chính các học giả Trung Hoa cũng tự thú rằng vấn đề hải cương của họ chỉ được quan tâm từ cuối đời Minh, khi người Hà Lan chiếm đảo Ðài Loan nhưng không phải để xác định chủ quyền vùng biển mà là để đề phòng những xâm nhập theo hải dương tiến vào.

Khi Trịnh Thành Công chiếm đảo này làm căn cứ địa, tạo nên một mối đe doạ cho Thanh triều thì việc chinh phục Ðài Loan mới được nêu ra nhưng cũng không phải vì xác định lãnh thổ mà chỉ là tấn công phòng ngự dưới danh nghĩa tiễu phỉ. Chiếm được hòn đảo rồi, việc có nên đóng quân và cải thổ qui lưu thành một phần của Trung Hoa cũng đã gây nhiều tranh cãi mà kết quả được chấp thuận là do sự vận động ráo riết của một số quan lại cũ của họ Trịnh chứ cũng không phải chủ ý của Thanh triều. Tuy thế vùng đất này cũng chưa bao giờ được nâng lên tầm vóc “nội địa” mà chỉ là một khu vực của dân thiểu số [các đầu mục Ðài Loan về chầu gọi là sinh phiên], một món hàng rẻ rúng sẵn sàng từ bỏ khi cần phải trao đổi với bên ngoài. Trong nhiều năm, việc trấn đóng Ðài Loan luôn luôn bị đặt thành vấn đề vì chi phí của triều đình cao hơn những gì thu hoạch được từ hòn đảo. Ðó cũng là một trọng điểm cần nhắc đến vì việc giữ hay buông thường không phải vì quan niệm chủ quyền mà là vì mối lợi cụ thể.[1]

Cho đến gần đây, khi phát sinh một số tranh chấp về chủ quyền khu vực, các nhà nghiên cứu Trung Hoa đã đưa ra nhiều tài liệu để chứng minh về lãnh hải của họ từ thời thượng và trung cổ. Tuy nhiên, phần lớn những tài liệu được nhắc đến đều thuộc loại du ký và giả tưởng, không chân xác đã đành mà cũng không có giá trị lịch sử.

chinese_piratesTrong nghiên cứu này, chúng tôi chủ yếu dựa vào những tài liệu chính thức của các triều đại Minh – Thanh, bao gồm sử ký, hội điển, bản đồ để đánh giá lại quan điểm về cương thổ của Trung Hoa trong những thế kỷ trước. Quan niệm đó không giới hạn trong các tài liệu hành chánh mà còn bao gồm cả quan niệm về thiên triều – phiên thuộc và nhất là ý niệm nội địa – hải ngoại đã là nền tảng cho mọi chính sách.


CHÍNH SÁCH PHIÊN THUỘC CỦA TRUNG HOA

Từ thượng cổ, người Trung Hoa vẫn coi mình là trung tâm điểm của thiên hạ, những quốc gia khác là cánh hoa vây quanh nhị hoa, phải thần phục và triều cống họ. Quan niệm về thế giới không phải như tương quan quốc gia với quốc gia chúng ta thấy ngày nay mà là tương quan giữa thiên tử với chư hầu trong đó hoàng đế Trung Hoa là đại diện của trời, nắm giữ thiên mệnh, là cao điểm của văn minh khiến các nơi phải chầu về chẳng khác gì muôn vàn tinh tú hướng về sao Bắc Thần. Theo John K. Fairbank, có ba nhóm phiên thuộc chính:

–     những quốc gia đồng văn cận kề với nước Tàu trong quá khứ đã từng bị họ cai trị, chịu ảnh hưởng sâu đậm của Hán tộc như Triều Tiên, Ðại Việt, Lưu Cầu…
–     những quốc gia ở vùng Trung Á có liên quan mật thiết trong lịch sử với họ tuy cũng kế cận nhưng chủng tộc và tiếng nói khác với người Trung Hoa,
–     những quốc gia ở xa được mệnh danh là “ngoại di” (外夷) ở xa xôi chưa thấm nhuần vương hóa nhưng thần phục thiên triều qua đường thương mại.[2]
Hai triều đại Minh (1368-1644) và Thanh (1644-1911) cũng đi theo con đường cũ từ xưa để lại, coi nước ngoài như ngựa bất kham phải chăn dắt nên tuỳ theo từng khu vực mà đưa ra những chính sách khác nhau. Ðối với các nước hung dữ ở miền bắc họ phải mềm dẻo, đôi khi nín nhịn. Trái lại, đối với các dân tộc thiểu số ở tây và tây nam, họ tiến hành chính sách lấn lướt, tầm ăn dâu, lũng đoạn bằng chia cắt, mua chuộc, dùng dân tộc nọ trị dân tộc kia, phong quan tước để dần dần đồng hoá. Nhiều quốc gia có địa bàn khá lớn nay đã thành một phần lãnh thổ Trung Hoa. Chính nước ta cũng nhiều lần bị xâm lăng và chỉ giành lại được quyền tự chủ sau những cuộc chiến dai dẳng đầy gian khổ.

china-1Trong tài liệu lịch sử, khi nói đến nội địa, người Trung Hoa xác định đó là lãnh thổ của họ và nói đến nội hải, họ cũng minh định vùng biển này do họ kiểm soát. Việc xâm nhập nội địa hay nội hải vì thế đương nhiên phải theo luật pháp Trung Hoa, do quan lại địa phương chủ trì. Ngược lại, những biến cố xảy ra ngoài khu vực đã minh định thì không thuộc thẩm quyền [và dĩ nhiên không chịu trách nhiệm]. Ðó chính là cơ sở lý luận để Trung Hoa giải trừ trách nhiệm mỗi khi có xung đột với người Tây phương.


QUAN NIỆM VỀ BIỂN CẢ CỦA TRUNG HOA

Người Trung Hoa coi đại dương là một khu vực cấm kỵ, phần vì họ không kiểm soát được, phần nữa tình trạng cướp biển thường xuyên đe doạ trong nhiều thế kỷ, tạo thành một mối lo tâm phúc cho triều đình. Nhiều chính sách ngăn cấm rất nghiệt ngã được đề ra làm kim chỉ nam cho việc giao lưu kinh tế, thương mại, văn hoá… và các hải đảo không được họ coi bình đẳng như những quốc gia có thể giao thông trực tiếp trên đất liền.

Trên biển cả bao la, ngoài thuyền bè qua lại buôn bán còn cả dân đánh cá, nhất là những kẻ lang bạt kỳ hồ sinh nhai bằng nghề ăn cướp [hải phỉ]. Vì điều kiện sinh sống thấp kém, thiếu học hành nên thành phần “thuỷ thượng nhân” bị đối đãi gần như súc vật.[3] Ðể đối phó với cướp biển, một mặt quan lại Trung Hoa ngăn cấm dân chúng liên lạc, tiếp tế cho họ, một mặt tổ chức phòng thủ dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, vì khả năng và kỹ thuật giới hạn, việc hải phòng của triều đình không mấy hữu hiệu và các tàu buôn thường phải trang bị súng ống để tự vệ, thuỷ thủ cũng đồng thời là chiến sĩ. Thông thường, các thuyền buôn Trung Hoa ra ngoài buôn bán phải mua chuộc chính quyền các nước lân cận để được an toàn. Ai ai cũng hiểu rằng một khi đã ra khơi, triều đình không còn quan tâm đến vấn đề sinh tử, hiểm nguy của họ nữa.

Trong khi đó, dưới danh nghĩa ngoại phiên, các quốc gia chung quanh phải đóng vai che chắn cho Trung Quốc. Phiên [藩] nghĩa gốc vốn là bờ rào để bảo vệ cho sinh hoạt mậu dịch được thông suốt nên các quốc gia thần phục Trung Hoa được ưu tiên qua lại mua bán mà không phải chịu thuế quan. Ðó cũng là một lợi thế dùng mua chuộc những tiểu quốc, dưới mỹ danh “ky mi” [羈縻, lỏng dây cương], ý là thiên triều chăn dắt ngoại phiên một cách mềm mỏng để họ trung thành. Tương quan thiên triều phiên thuộc được xác định qua một số thủ tục qua lại như sắc phong, ban ấn tín, danh hiệu, lịch chính sóc, mở cửa thông thương và ngược lại phiên thuộc cũng có bổn phận triều cống phương vật, nạp sổ đinh điền, cáo ai [khi vua tại vị chết], cầu phong [bằng lòng chấp nhận vua mới]… Chính sự đổi chác này ít nhiều đã xác định đâu là khu vực do thiên triều kiểm soát, đâu là ngoại hải do phiên thuộc chịu trách nhiệm.

Các nhà nghiên cứu chia chính sách về biển cả của Trung Hoa ra ba giai đoạn chính:
–     Từ cuối đời Minh sang đầu đời Thanh, triều đình Trung Hoa chủ trương “hải cấm” không cho dân chúng ra ngoài buôn bán. Việc rời khỏi quê hương bị coi như phản quốc nên những ai ra ngoài rồi thường không thể quay trở về nội địa. Ðã có những thời kỳ ai đặt chân xuống biển đã bị coi là đại tội, dân chúng bị bắt buộc di cư vào trong đất liền 30 dặm, dọc theo duyên hải từ nam chí bắc không một bóng người. Triều đình không công nhận hải đảo như một phần lãnh thổ nên những hòn đảo ngay gần bờ biển như Chu San [舟山], Bành Hồ [澎湖], Nam Áo [南澳], Ðài Loan [臺灣] khi chinh phục được rồi cũng chỉ là phiên địa phải cử sứ thần qua Bắc Kinh triều cống định kỳ (dưới tên Lưu Cầu, Ðài Loan)[4].

–     Sau khi thống nhất Trung Hoa và dẹp yên các nhóm chống đối, những điều lệ về hải cấm tuy được nới lỏng nhưng Thanh đình vẫn khẳng định rằng họ không cần phải ra ngoài buôn bán với ai, bất cứ một phái đoàn nào của nước ngoài, [ngay cả những cường quốc Âu châu lúc đó đang làm chủ mặt biển] cũng chỉ là man di đến tiến cống. Ðể cho người nước ngoài đem hàng đến, mua hàng đi, nhà Thanh mở một số thương điếm tại Quảng Châu làm nơi giao tiếp nhưng vì nghi ngại người ngoài dòm ngó nên sinh hoạt tại đây có những hạn chế ngặt nghèo. Mọi loại thương phẩm được trao đổi phải qua sự giám định và cho phép của triều đình, với mực thuế khoá cắt cổ. Thái độ trịch thượng đó đưa đến những mất quân bằng mậu dịch khiến người ngoại quốc tìm cách lấy lại, đem đồ quốc cấm đến bán cho dân Trung Hoa tạo thành những xung đột kịch liệt mà người ta gọi là Chiến Tranh Nha Phiến (Opium Wars).

–     Sự suy yếu của triều đình Trung Hoa đã khiến cho liệt cường tràn vào xâu xé, chiếm nhượng địa, mở tô giới và bắt Thanh đình phải ký những hiệp ước bất bình đẳng. Tương quan giữa Trung Hoa và phiên thuộc hoàn toàn biến mất vì chính họ lo mình chưa xong lấy đâu ra khả năng can thiệp vào chuyện bên ngoài. Tuy Trung Hoa cố gắng ra vẻ vẫn còn là kẻ cả đòi chia xẻ một số quyền lợi trong những hiệp ước của Tây phương với các nước chung quanh nhưng trên thực tế họ đã hoàn toàn thụ động. Một số tiểu quốc trước đây thần phục Trung Hoa nay hoàn toàn độc lập và tách rời khỏi ảnh hưởng của họ, một số khác bị thực dân chiếm đóng nên cũng không còn liên hệ gì nữa.

Khi Thanh triều bị lật đổ, các chính quyền mới của Trung Hoa lại lăm le tái lập vai trò thượng quốc và tìm cách hợp thức hoá một số nội phiên thành vùng đất chính thức của họ. Một số quan điểm lịch sử được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới [5], những xung đột và xâm lăng biên giới do chính họ chủ động lại được mệnh danh là “vệ quốc chiến tranh” [chiến tranh bảo vệ tổ quốc]. Chính quyền Trung Hoa cũng lợi dụng thời cơ hỗn loạn sau Thế Chiến, trong vai trò tiếp thu và giải giới binh đội Nhật Bản để lấn chiếm nhiều khu vực đất liền và hải phận trước đây ở ngoài tầm kiểm soát của họ.

HẢI CƯƠNG CHÍNH SÁCH

Ðời Minh

250px-Ming-Empire2Minh Thái Tổ [Chu Nguyên Chương] khi lên ngôi đã có thái độ dứt khoát và di huấn cho con cháu là “hải ngoại là những quốc gia không nên đem quân chinh phục” [6]. Sở dĩ ông có huấn lệnh này là vì thấy Nguyên triều hao binh tổn tướng rất nhiều trong những chiến dịch dùng đường biển đi đánh Nhật Bản, Ðại Việt, Chiêm Thành, Java… mà không đạt được thắng lợi nào đáng kể.
Nhà Minh khi đó nội trị còn nhiều bất ổn mà các quốc gia khác cũng không phải hèn kém gì nên chủ trương thủ nhiều hơn công, bình định trung nguyên trước khi có ý dòm ngó ra ngoài. Về mặt biển, giai đoạn này gần như phó mặc cho hải phỉ, hải đạo hoành hành, nhất là những đám ăn cướp người Nhật mà họ họi là nuỵ khấu (hay oải khấu – 倭寇). Dư đảng của những thế lực sứ quân từng tranh hùng với họ Chu nay cũng đổ ra biển làm hải tặc cả. Chính vì thế, quân Minh chỉ đành làm lơ cho họ muốn làm gì thì làm, miễn là đừng tấn công lên đất liền thôi.

Tướng lãnh của Chu Nguyên Chương đa số là người Hoa Nam, gốc nông dân, chưa từng biết đến biển cả, không như người Mông Cổ vốn quen thuộc với việc đi xa chinh phục dị vực. Chính vì thế nhà Minh không nhòm ngó đến các quốc gia hải ngoại, ra lệnh cấm các thuyền buôn nước ngoài, triệt bỏ tuần kiểm ty (巡檢司) của nhà Nguyên khi đó trú đóng tại quần đảo Bành Hồ và ra lệnh cho tất cả những ai sinh sống trên các hòn đảo phải phá huỷ các công trình, cư sở rồi di chuyển vào đại lục. Tưởng Quân Chương viết trong Ðài Loan Lịch Sử Khái Yếu:

Chính sách của Minh triều đối với hải dương trong những năm đầu lấy nguyên tắc bảo thủ là chính, vốn có liên quan đến vấn đề cướp biển phá phách… Ðối với việc đó, Minh Thái Tổ một mặt trù tính kế hoạch phòng ngự, mặt khác triệt thoái toàn bộ dân chúng sinh sống tại Bành Hồ, đồng thời di mệnh cho con cháu không được chinh phục các quốc gia hải ngoại, trong đó Tiểu Lưu Cầu (tức Ðài Loan) là một.
Việc Minh Thái Tổ triệt binh ra khỏi Bành Hồ đã khiến cho hải đạo có một cơ hội tốt, về sau bọn Lâm Ðạo Càn hoành hoành trên biển đều lấy Bành Hồ làm căn cứ, đó là một chính sách bất lợi có ảnh hưởng lớn đến lịch sử phát triển của Ðài Loan...[7]

Nhà Minh cũng thi hành những luật lệ khắt khe nghiêm cấm những ai tự ý ra biển đi đến nước khác (hạ hải thông phiên), bãi bỏ các chính sách mãi dịch của tiền triều nhưng đặt nặng việc triều cống, coi như đó là một bổn phận thiết yếu của lân bang. Hoạt động hải phòng của Minh triều chỉ hạn chế vào việc đóng thuyền dùng trong việc tuần hành, xây dựng các thành luỹ chống lại cướp biển và ngăn cấm dân chúng không được tự ý ra ngoài buôn bán ở các nước khác.

Các điều luật trong “Hải Phòng Cấm Chỉ Lệnh” rất chặt chẽ và ngặt nghèo chẳng hạn như “ai đem lương thực, quân khí ra khỏi nước đều bị treo cổ, ai tiết lộ quân tình bị chặt đầu, đóng thuyền hai cột buồm trở lên đều vi phạm vào lệnh cấm đóng đại thuyền, đem hàng hoá cấm sang các phiên quốc buôn bán, ngầm thông với hải tặc, kết tụ mưu tính với họ, dẫn đường cho chúng cướp phá lương dân, chính phạm theo luật xử tử, bêu đầu cho công chúng coi, toàn gia bị sung quân đày ra biên ải”.[8]

Thuyền bè Trung Hoa chỉ được phép mang theo nước uống đủ cho hai ngày nên đành neo ở trong sông, loanh quanh trong những vùng biển nông giống như một cái nhà nổi. Cũng nên thêm, thuyền của người Trung Hoa được thiết kế để chở hàng[9], cồng kềnh nên không thể vượt đại dương, chỉ có thể men theo gần bờ biển.

invasion_of_limahongChính sách nghiêm cấm đó khiến cho các khu vực duyên hải của miền nam Trung Hoa như Phúc Kiến, Quảng Ðông bị ảnh hưởng nặng nề. Việc ngoại thương vì thế trở thành lén lút và một số lớn tàu bè trước đây đi thẳng vào Trung Hoa nay phải chuyển sang một số địa điểm ở Ðông Nam Á trong đó có cả Bắc Việt Nam, và cũng thu hút một làn sóng di dân ra nước ngoài bao gồm cả lý do kinh tế lẫn chính trị.


Ðời Thanh

Sang đời Thanh, triều đình cũng đi theo chính sách của nhà Minh “toả quốc cấm hải” (鎖國禁海). Năm Thuận Trị 18 [1661], để đề phòng nhóm Trịnh Thành Công ở Ðài Loan, Thanh đình ra lệnh cấm hải và bắt dân chúng sống ở ven biển phải di cư vào trong đất liền. Từ Quảng Ðông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô lên đến Sơn Ðông dân chúng không ai được làm nghề đánh cá và thuyền bè của các tỉnh miền nam đều bị thiêu huỷ, một tấc gỗ không được thả dưới nước (thốn bản bất hứa hạ thủy – 寸板不許下水)[10] ai vi phạm sẽ bị kết tội thông đồng với giặc. Theo sách Hải Thượng Kiến Văn Lục thì:

Dân chúng các vùng duyên hải phải dời vào trong nội địa ba mươi dặm, nhà cửa ruộng đất đều phải đốt hết. Trên từ Liêu Ðông, dưới tới Quảng Ðông đều di cư vào rồi xây tường, dựng địa giới, cắt binh trấn giữ, ai ra ngoài sẽ bị xử tử. Bách tính không có công ăn việc làm, đi lang thang chết có đến hàng ức vạn người.[11]

Ðến đời Khang Hi, khi có loạn Tam Phiên, Trịnh Kinh (con Trịnh Thành Công) đem binh vượt biển đánh Phúc Kiến, Quảng Ðông. Khi Tam Phiên đã bình định, Khang Hi quyết định đem binh thu phục Ðài Loan, là chuyển biến quan trọng nhất của triều đình Trung Hoa suốt ba trăm năm từ đời Minh Thái Tổ đến đời Thanh mới từ bỏ chính sách bất chinh hải ngoại.

Sau khi chiếm được Ðài Loan, nhà Thanh định rõ cương giới cho từng tỉnh, đưa ra một chính sách hải phòng, thực chất không đặt nặng vấn đề phòng ngự mặt biển mà để gia tăng kiểm soát lãnh thổ. Trung Hoa khi đó có bảy tỉnh tiếp giáp với biển bao gồm Trực Lệ, Giang Nam, Triết Giang, Phúc Kiến, Việt Ðông [Quảng Ðông], Hải Nam [Quỳnh Châu], Ðài Loan. Cũng như trên đất liền, việc phân định ranh giới dưới biển xác định chủ quyền của họ, là cơ sở giải quyết tranh chấp, nhất là đối với những thương nhân Tây phương ra vào buôn bán.

Biên giới về biển ở phía nam được minh định trong Thiên Hạ Hải Cương Tổng Luận (天下海疆總論) viết đời Khang Hi, Ung Chính như sau:
… Nói đến góc biển phía nam thì không đâu xa bằng Nam Áo (南澳). Như vậy nếu tính từ Nam Áo đổ đi, chiếu theo tổng đồ mà liệt kê ra từ đông sang tây thì qua khỏi Triều, Huệ, Hương Sơn, Dương Giang, Ðiện Bạch, Cao Châu, Lôi Châu cho chí Ngũ Chỉ Sơn ở Quỳnh Châu, sang Liêm Châu, Long Ðông thì đến trụ đồng làm phân giới với Giao Chỉ thì hết. Từ đó phía nam biển cả là đất các nước An Nam. Sách xưa có nói rằng: “Bên ngoài Quỳnh Châu ấy là An Nam, Giao Chỉ, Giản Phố Trại, Tiêm La, Lục Côn, Ðại Niên, Nhu Phật, Ma Lục Giáp, là tận cùng của biển đông”.[12]
Thanh triều đưa ra ba chủ trương chính cho việc cai trị mặt biển:

1. Lấy người Hán trị người Hán, lấy biển trị biển

Người Mãn Châu tuy hùng cường nhưng vẫn là một dân tộc từ bên ngoài vào, so với dân chúng Trung Hoa chỉ là thiểu số nên nếu không sử dụng được dân bản xứ tiếp tay với mình thì sẽ không thể nào có đủ lực lượng hành chánh hay quân sự để cai trị trung nguyên. Do đó ngay từ khi mới vào Bắc Kinh, họ đã có những chủ trương lấy lòng người Hán để thu hút nhân tài. Năm Thuận Trị thứ hai [1645], Chinh Nam đại tướng quân là Bối Lặc Bác Lạc chiêu dụ được kinh lược Giang Nam Hồng Thừa Trù rồi cũng dùng quan tước, lợi lộc để chiêu dụ một tướng lãnh khác là Trịnh Chi Long.

Tuy Trịnh Chi Long về hàng, nhà Thanh lại không thành công với con của Chi Long là Trịnh Thành Công [một người Hoa sinh trưởng tại Nhật, mẹ của Trịnh Thành Công là người Nhật]. Trịnh Thành Công chiếm hòn đảo Ðài Loan từ tay người Hà Lan và tiếp tục chống nhà Thanh dưới chiêu bài “Phản Thanh Phục Minh”, không biết vì còn luyến tiếc Minh triều hay cũng chỉ là một khẩu hiệu để tìm kiếm sự ủng hộ của người Hán.

Nhà Thanh cũng tìm nhiều cách thương thảo [đã phong tước Hải Trừng Công (海澄公) cùng ban cho quả ấn Tĩnh Hải tướng quân], lại cấp cho ông bốn phủ làm lãnh địa, giao cho toàn quyền phòng thủ bờ biển, thu thuế và bổ dụng quan lại… nhưng họ Trịnh vẫn không thần phục triều đình.
Ðược ba năm, tướng của Trịnh Thành Công là Hoàng Ngô [黄梧] đem 86 quan lại, 1700 binh sĩ và hơn 300 đại pháo vượt biển đầu hàng, phối hợp với quân Thanh trấn đóng dọc theo bờ biển và một số hải đảo khiến cho Trịnh Thành Công phải lui vào thế phòng ngự. Từ đó, lực lượng họ Trịnh suy yếu hẳn.\

chinesepiratesyellowseatn0Hoàng Ngô lại đưa ra 5 kế sách gọi là “bình hải ngũ sách” cho tổng đốc Mân Triết Lý Suất Thái [李率泰] thực hiện, bao gồm 1/ nghiêm cấm dân chúng liên lạc với ngoài biển, 2/ di chuyển những người ở duyên hải vào sâu trong đất liền, 3/ không cho binh lính của Trịnh Thành Công lên bờ mua bán, 4/ tăng cường chiến hạm và 5/ tập luyện thuỷ chiến.
Song song với kế hoạch phòng ngự, Hoàng Ngô cũng chiêu dụ quân họ Trịnh nên trong 12 năm đã lôi kéo được hơn hai trăm viên quan và vài vạn binh sĩ về với triều đình.


2. Chiêu hàng thảo khấu và hải phỉ làm phên giậu

Nhà Thanh đã thành công trong hai mục tiêu dùng biển trị biển [dĩ hải trị hải] và dùng người Hán trị người Hán [ở các khu vực mà họ gọi là “phiên”] giao cho những hàng tướng nhà Minh hay những người cộng tác với họ cai quản. Tuy nhiên, nhà Thanh dần dần thu tóm quyền lực bằng cách bãi bỏ phiên trấn [triệt phiên] và gia tăng kiểm soát vùng duyên hải, từng bước như sau:

–   Năm Thuận Trị 13 [1656], Thanh đình nghiêm cấm dân chúng ở trong bờ ra biển, ra lệnh cho tổng đốc bốn tỉnh Giang, Triết, Mân, Quảng chiêu dụ quan binh của Trịnh Thành Công và hứa sẽ phong quan tước, bổng lộc cho những ai về hàng hay giết được thủ lãnh mang đầu về nộp. Họ Trịnh chết rồi, việc chiêu hàng càng thêm tích cực đối với con cháu, thân nhân. Một số đông hàng tướng Ðài Loan như Thi Lang, Vạn Chính Sắc… lại được giao trọng quyền, cai quản thuỷ quân chống lại họ Trịnh.

–   Khi vua Khang Hi lên ngôi, việc chiêu dụ Ðài Loan đi sang một khúc ngoặt mới. Trước đây, khi dụ hàng, điều kiện tiên quyết bao giờ cũng là “cắt tóc qui thuận”, từ bỏ hải đảo về triều làm quan nay đổi lại thành tuy “tuân theo thể chế cắt tóc nhưng được coi như một phiên thuộc tự trị, theo lệ tiến cống và cho con vào kinh làm tin, ngang hàng với các phiên vương Mông Cổ, Tây Tạng”.[13]Thế nhưng con cháu họ Trịnh không đồng ý cắt tóc, muốn được hoàn toàn độc lập như Triều Tiên, An Nam.

3. Hạn chế việc giao thương với bên ngoài

Việc đối phó với những lực lượng mà họ coi là hải phỉ như Trịnh thị tại Ðài Loan vốn đã phức tạp, nhà Thanh không muốn tạo thêm phiền nhiễu nên thời kỳ đầu họ giới hạn thương nhân bên ngoài [chủ yếu là người Hà Lan và Bồ Ðào Nha] đến buôn bán vào một số địa điểm ở Macau [Áo Môn] giống như chính sách đời Minh.

Theo Lương Ðình Nam trong Áo Hải Quan Chí, quyển 26 thì triều đình phải “ra lệnh cho cương thần [quan lại tại những vùng biên giới hay bờ biển] ước thúc cho nghiêm nhặt, bọn di ở Áo Môn [Macau] lại càng nên phòng phạm. Việc an nguy tại địa phương là do việc mua bán, mà mua bán lợi hại thế nào cũng là bởi đám di thương [thương gia người Hà Lan, Bồ Ðào Nha], đạo phòng ngừa chuyện nhỏ nhặt, không thể không am tường, không cẩn thận”.[14]

Sau khi đã bình định được những vụ nổi dậy, nhà Thanh củng cố lại các đồn biên phòng dọc theo bờ biển [mà họ gọi là sơn trại – 山寨]. Triều Minh, mỗi sơn trại đóng 500 quân, nay tăng lên 1000, dưới quyền một tham tướng, chia làm 2 doanh. Ðến đời Khang Hi, triều đình ra lệnh toàn bộ dân chúng sống dọc theo bờ biển phải di chuyển vào trong đất liền ít nhất 40 dặm. Các đồn phòng thủ cũng tăng lên mỗi nơi 2000 quân, bố trí các loại súng lớn kiểu Tây phương để đề phòng giặc biển. Chính sách này đã gây khó khăn rất nhiều cho những người ngoại quốc đang sinh sống tại các vùng thương khẩu.

Dân chúng sống dọc theo bờ biển tuy đã cách ly với đại dương nhưng vẫn bị kiểm soát chặt chẽ, lương thực phân phối theo đầu người, mỗi lần chỉ đủ ăn vài ngày, đồ dùng phải khai báo, khi sử dụng phải có phép của quan quân. Chợ búa nay chỉ được phép mở ra một tháng hai lần, dân chúng tuyệt đối không được ra biển buôn bán.
Cuối đời Càn Long, nhà T
hanh tiến hành nhiều cuộc viễn chinh ở vùng biên giới tây nam và nam Trung Hoa, đáng kể nhất là kéo đại quân đánh Miến Ðiện, đem thuyền vượt biển đánh Ðài Loan và sau cùng là đem quân đánh Ðại Việt.
Những chiến dịch vượt biên giới đều bị các sử gia coi là thất bại còn việc đánh Ðài Loan chẳng qua chỉ là một công tác “tiễu phỉ”, đem một đạo quân khổng lồ để tiêu diệt Thiên Ðịa Hội, tuy mang danh nghĩa Phản Thanh Phục Minh nhưng thực chất chỉ là một băng đảng sống nửa trong nửa ngoài pháp luật.

Về mặt ngoài, nỗ lực của Thanh triều đưa đến việc Miến Ðiện và Ðại Việt thần phục, nhưng bề trong vua Càn Long đã phải mua chuộc một cách khéo léo cho ra vẻ kẻ cả. Riêng đảo Ðài Loan, các thủ lãnh Thiên Ðịa Hội bị bắt và bị xử tử nhưng dư đảng của họ còn khá nhiều, dong thuyền chạy trốn sang các nước Ðông Nam Á gia nhập các lực lượng địa phương, hoặc sống đời cướp biển gây rất nhiều bất trắc cho thương nhân qua lại nơi biển đông và nam Trung Hoa.
Ðể phủi tay với trách nhiệm, nhà Thanh bèn giao ngay việc giải quyết nạn cướp biển cho các phiên thuộc. Riêng nước ta, việc quản lý vùng biển từ vịnh Bắc Việc qua đến phía đông đảo Hải Nam dọc xuống phía nam là khu vực trách nhiệm của vua Quang Trung.

Chính sách trị hải và vấn đề thuỷ khấu

Có thể nói trong nhiều thế kỷ, nạn cướp biển là một cơn ác mộng của các triều đình Trung Hoa nên chính sách về hải dương cũng đồng nghĩa với tiễu trừ và phòng ngự hải phỉ. Những tô vẽ gần đây để chứng tỏ rằng người Trung Hoa đã quan tâm đến khai thác và quản trị bờ biển, hải phận chỉ là thậm xưng với mục tiêu chính trị nhiều hơn là sự thực lịch sử. Vì triều đình Trung Hoa giao phó cho các phiên thuộc đảm nhận việc đánh dẹp hay kiềm chế hải phỉ nên mỗi khi duyên hải bất an, việc đầu tiên là họ gửi thư yêu cầu các tiểu quốc thi hành bổn phận.[15]
Khi nhà Thanh công nhận triều đình Tây Sơn, phong cho Nguyễn Quang Bình [tức Nguyễn Huệ] làm An Nam quốc vương cũng minh định biển đông ở ngoài tầm kiểm soát của họ. Giữ gìn an ninh vùng biển của các nước “phên giậu” là nhiệm vụ che chắn cho triều đình Trung Hoa. Do đó, mỗi khi gặp rắc rối gì ở đại dương, nhà Thanh lập tức gửi thư cho triều đình nước ta để giải quyết.

Năm Mậu Thân [1788] vua Cao Tông sai Phúc Khang An đem binh thuyền sang đánh Ðài Loan để dẹp loạn Thiên Ðịa Hội. Lịch sử đảo Ðài Loan gần đây được cho rằng đã thuộc quyền kiểm soát của Trung Hoa từ thời thượng và trung cổ tuy có mất về tay người Hà Lan hay Nhật Bản một thời gian nhưng chỉ là tạm bợ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu Ðài Loan lại khẳng định rằng hòn đảo chưa bao giờ được coi như lãnh thổ mà chỉ là phiên thuộc, nên Thanh đình đã không ngần ngại gì nhường đứt để đổi lấy một số quyền lợi khi cần thiết.[16] Chính Lý Hồng Chương [Bắc Dương đại thần, tổng đốc Trực Lệ] khi ký vào điều ước Mã Quan [để nhường đứt Ðài Loan, Bành Hồ cho Nhật Bản] đã dè bỉu hòn đảo là nơi “chim không biết hót, hoa chẳng toả hương”[17].

Sau khi nhà Thanh kiểm soát được Ðài Loan, tàn dư của Thiên Ðịa Hội liền túa ra biển sống chủ yếu bằng nghề cướp biển. Một số thuyền bè của họ dong thuyền tới tận vịnh Thái Lan, một số khác trôi dạt vào miền nam nước ta [khi đó còn đang tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh] và được các thế lực thu dụng để bổ xung lực lượng.

Nguyên trước đây, một số khá đông thành phần những người lưu lạc sang nước ta đã được Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ thu dụng trong thuỷ chiến ngay từ những ngày đầu tiên của anh em Tây Sơn. Lãnh tụ kiệt hiệt nhất của hải phỉ là Trần Thiêm Bảo [Ch’en T’ien-pao – 陳添保] được phong chức tổng binh từ năm 1783, có mặt trong thành phần ra bắc đánh họ Trịnh. Một bộ hạ của Trần là Lương Quí Hưng [Liang Kuei-hsing – 梁貴興] được phong làm Hiệp Ðức Hầu, ban con dấu “súc hữu đầu phát” [được quyền để tóc dài].[18] Trần Thiêm Bảo về sau được thăng lên đô đốc, chỉ huy một hạm đội lớn trong đó có cả những chiến thuyền do người Việt chỉ huy.[19]

Việc giao cho chính những đầu lãnh gốc hải phỉ cai quản biển đông đã khiến cho lực lượng hải quân của Nguyễn Huệ gia tăng nhanh chóng. Chính họ đã thu phục những toán lẻ tẻ, đoàn ngũ hoá thành binh đội với nhiệm vụ hẳn hoi. Trong số những người gia nhập chậm hơn, chúng ta thấy có Lương Văn Canh [Liang Wen-keng – 梁文庚] và Phàn Văn Tài [Fan Wen-ts’ai -樊文才]. Lương được phong thiên tổng, Phàn được phong chỉ huy.[20] Việc sử dụng chính những lực lượng trên biển để kiểm soát đại dương là một chính sách hữu hiệu, nếu không hoàn toàn sai khiến được họ thì ít nhất cũng giảm thiểu những tác hại mà họ gây ra đối với vùng duyên hải.

Trong trận chiến Việt Thanh, đô đốc Trần Thiêm Bảo được vua Quang Trung tăng viện thêm 16 thuyền lớn và ông ta đã chiêu dụ được hai nhóm cướp biển khá nổi tiếng do Mạc Quan Phù [Mo Kuan-fu -莫官扶] và Trịnh Thất [Cheng Ch’i -鄭七] chỉ huy, tập hậu quân Thanh theo đường sông khiến đại quân bị tan rã nhanh chóng, viên tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy.

Việc mở rộng quyền kiểm soát lãnh hải không những giúp cho Nguyễn Huệ có đủ lực lượng để đối phó với tàn quân Lê – Trịnh ở miền bắc và đề phòng chúa Nguyễn ở phương nam mà còn là nguồn lợi tài chánh quan trọng đóng góp vào chi phí chiến tranh càng lúc càng dâng cao.[21]
Khi nhà Tây Sơn bị diệt, một trong những tướng lãnh của họ là Trịnh Nhất (Ching Yih – 鄭一, một người Việt gốc Hoa) đã không chịu hàng phục đem lực lượng chạy sang vùng biển nam Trung Hoa, tập hợp các nhóm lẻ thành một liên minh lớn (confederation). Theo nhiều tác giả, những nhóm lưu khấu này đã trở thành một triều đại hùng cứ mặt biển, một tập đoàn vĩ đại nhất trong lịch sử (piratical dynasty of Ching Yih, who led the largest pirate confederation in history).

Họ Trịnh cũng mưu đồ chuyện khôi phục nhà Tây Sơn nên đã phát triển và tổ chức lực lượng thành một binh đội đúng nghĩa, có kỷ luật, có chức tước đóng vai bảo tiêu cho bất cứ tàu bè buôn bán nào qua lại trong khu vực này. Năm năm sau khi vua Gia Long lên ngôi, Trịnh Nhất có dưới tay trên 600 tàu lớn (junks) và một lực lượng lên đến 15 vạn người.[22]
Mặc dù Thanh triều tìm cách xoá nhoà vai trò của hải quân Tây Sơn [cũng như cố gắng che dấu những thành tựu của Nguyễn Huệ – đồng nghĩa với che dấu những thất bại và nhượng bộ của chính họ], trong một số tường thuật, chúng ta cũng thấy được phần nào hình ảnh trên biển của đội quân đa chủng này. Chúng tôi xin lược thuật một vài đoạn trong Tĩnh Hải Phân Ký qua bản dịch của Charles Neumann:

[Trương Bảo, tức đô đốc Bảo] ra lệnh rằng tất cả mọi món hàng, từ rượu cho đến gạo thóc, đều phải trả tiền cho dân làng sòng phẳng, kẻ nào cưỡng đoạt hay quịt không đưa tiền đều bị tử hình. Thành thử, bọn phỉ không bao giờ thiếu thuốc súng, thực phẩm hay các vật dụng cần thiết khác. Chính nhờ vào kỷ luật gắt gao này mà hạm đội của ông đã được tổ chức chặt chẽ.
Người vợ của Trịnh Nhất rất cứng rắn trong mọi giao dịch: không bao giờ chuyện gì được tiến hành nếu không có giấy tờ. Mọi món xuất nhập đều phải vào sổ kho, các thuỷ thủ chỉ được cấp phát khi có nhu cầu và không ai được quyền giữ làm của riêng.
Trong một chiến dịch đánh cướp, bất cứ ai rời khỏi hàng ngũ dù là tiến lên trước hay tụt lại sau thì người đó sẽ bị đưa ra xử án trước một đại hội, nếu như bị kết tội thì sẽ nhận án chém đầu. Chính vì Trương Bảo nghiêm minh như thế nên các thuỷ thủ ai ai cũng hết sức giữ kỷ luật…[23]

Chính sách đối với Nam Dương [tức biển đông của nước ta và phía nam]

Khi vua Ung Chính lên ngôi, ông đã khẳng định rằng “việc cấm ra ngoài biển chỉ có thể nghiêm nhặt hơn chứ không thể thả lỏng, ngoài ra không có cách nào khác”.[24] Về sau, tuy triều đình có bớt đi phần nào nhưng vẫn tuyệt đối phòng ngừa việc “cấu kết với bên ngoài” để lật đổ nhà Thanh, những ai đã đi ra thì không thể nào quay trở về được nữa. Năm 1740, người Hà Lan giết hàng vạn Hoa kiều tại Batavia, tin truyền đến Trung Hoa nhưng vua Càn Long cho rằng đây là “những kẻ đã chống lại lệnh của triều đình, đáng bị chính pháp, ra ngoài có chuyện gì thì tự mà lo lấy”.[25] Cuối đời Càn Long, những ai trở về sinh sống ở trong nước tuy không bị xử tử như ngày trước nhưng lại bị đày đi xa, vào sâu trong đất liền ở núi non, sa mạc.

Ðể việc kiểm soát buôn bán thêm hữu hiệu, Thanh đình mở thêm bốn thương khẩu ở Quảng Châu nhưng vẫn tuyệt đối không cho các thuyền buôn ghé vào các cửa biển khác. Năm Càn Long thứ 24 (1759), nhà Thanh ban bố “Phòng Di Ngũ Sự” cấm thuyền buôn Tây phương không được ở lại qua mùa đông, những ai đến Quảng Ðông phải sống biệt lập tại các dương hãng [nơi qui định cho người Tây phương], cấm không cho thuê mướn, vay mượn… Người Anh nhiều lần xin xét lại những điều kiện nghiêm nhặt ấy nhưng không thành công.

 Năm 1792, Anh hoàng lại cử một phái đoàn do bá tước Macartney cầm đầu sang thương lượng để mở sứ quán, khai phóng thêm một số cửa khẩu ở Chu San, Ninh Ba, Thiên Tân… nhưng cũng không đạt được kết quả nào. Vua Càn Long lại ra lệnh bất cứ thuyền buôn nào lảng vảng đến gần các hải khẩu đều phải trục xuất ra biển, không cho lên bờ, kẻ nào chống lại sẽ dùng võ lực đối phó.[26]
Nói là thế, hải quân nhà Thanh rất kém cỏi, thiếu trang bị, tập luyện nên vấn đề hải phòng chủ yếu là ngăn chận dân chúng không cho ra biển chứ không phải ngăn ngừa ngoại xâm. Những ai theo thuyền ra ngoài buôn bán đều bị hạn chế thời gian, kiểm tra chặt chẽ, ngay cả từ vùng này sang vùng khác cũng bị ngăn cấm.

Sau chiến tranh nha phiến, triều đình Trung Hoa ý thức được sự kém cỏi trên phương diện quân sự là vì tham nhũng và kỹ thuật lạc hậu. Tuy nhiên, vì việc canh tân trên mặt biển đòi hỏi thời gian và tiền bạc, Thanh triều lui về chiến lược cố hữu là gia tăng lực lượng địa phương, nếu cần sẽ dụ địch vào đất liền để tiêu diệt theo nguyên tắc rút lui để phòng ngự (retrograde defence).[27]
Theo một sĩ quan Anh nhà Thanh thuê để huấn luyện thuỷ thủ và chỉ huy chiến hạm [có tên là Dương Vụ năm 1870] thì ông ta rất thất vọng về lối tổ chức và sinh hoạt trên tàu và quân Tàu “chỉ giản dị là một đám người ô hợp có trang bị nhưng không có kỷ luật”.[28]

Tới cuối thế kỷ XIX, Lý Hồng Chương, tổng lý Bắc dương quân thành lập thêm nhiều lữ đội phòng thủ tại các hải cảng chiến lược và dọc theo bờ biển. Ông cũng xây dựng những học hiệu quân sự để đào tạo sĩ quan nhưng nặng về canh tân vũ khí mà thiếu hẳn huấn luyện về chiến lược phòng ngự. Do đó, khi các hạm đội Trung Hoa đụng độ với hải quân Nhật Bản [1894-1895], họ đã thất bại nặng nề và hầu như toàn bộ lực lượng bị tiêu diệt.

KẾT LUẬN

Trong hơn năm trăm năm của hai triều đại Minh và Thanh, người Trung Hoa hoàn toàn không coi biển cả là một khu vực cần chinh phục và khai thác, nếu có đưa quân ra biển đều vì lý do phòng thủ hơn là bành trướng.

Ðến gần đây, để yểm trợ cho tuyên bố về chủ quyền tại một số khu vực ngoài khơi, chính quyền Trung Hoa đã thổi phồng những chuyến đi của Trịnh Hoà hồi đầu thế kỷ XV thành những chuyến thám hiểm vô tiền khoáng hậu. Sau khi chiếm đóng Ðại Lý [Yun-nan Tai polities], nhà Minh đưa một lực lượng viễn chinh khổng lồ xuống phương nam. Tuy lúc đầu họ thành công trong việc xâm lăng nước ta nhưng cuộc chiến đấu bền bỉ của người Việt [1418-1428] không những chấm dứt cuộc đô hộ lần thứ hai của người Hán mà còn làm tiêu tan chủ trương thực dân vừa manh nha đối với các nước chung quanh nên các kế hoạch viễn du của họ phải chấm dứt.[29]
Từ thế kỷ XV trở về sau, biển cả chỉ còn là một thuỷ đạo để các thương thuyền qua lại mua bán và mặc nhiên coi như các phiên thuộc có nhiệm vụ phải bảo đảm an toàn cho các thông lộ này. Không hiếm những lần Thanh triều gửi thư trách cứ triều đình Việt Nam về việc hải phỉ hoành hành hay cho cướp biển chạy vào nương náu.

Kể từ giữa thế kỷ XIX, khi đã nhường cho nước ngoài một số lãnh địa, triều đình Trung Hoa hoàn toàn phó mặc cho Tây phương bảo đảm an toàn hải vực phía nam. Khi người Pháp chiếm Ðông Dương làm thuộc địa, việc phân định trách nhiệm trên biển lại sang tay người Pháp. Khi Việt Nam được độc lập, Trung Hoa nhân cơ hội hai miền Nam Bắc có chiến tranh nên ra tay chiếm đoạt một số hải đảo ở biển Ðông. Sự thiếu liên tục về chủ quyền quốc gia đã khiến cho tranh cãi về các đảo ngoài khơi thêm gay gắt, chủ yếu cũng vì quyền lợi chiến lược và kinh tế.

Trong một trăm năm qua, khi kỹ thuật hàng hải và thăm dò tài nguyên của nhân loại đã lên cao, tranh chấp hải dương càng lúc càng trở thành một vấn đề cho những quốc gia tiếp cận với biển cả. Theo chiều hướng đó, quyền lợi kinh tế cộng với tham vọng chính trị của Trung Hoa đã đưa đến những phức tạp mới ở biển đông, ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia và chỉ có thể giải quyết trên căn bản thiện chí, tương nhượng và đồng thuận trên toàn khu vực.

Nguyễn Duy Chính

CHÚ THÍCH

[1] Trước thế kỷ XIX, chủ quyền các hải đảo ngoài khơi biển Ðông không được đặt ra vì nước ta hoàn toàn có ưu thế kinh tế so với các quốc gia khác nên không hề có sự tranh chấp mặc dù việc qua lại hầu như bỏ ngỏ. Nếu có thuyền bè nào từ Trung Hoa xuống Nam Dương [tức vùng Ðông Nam Á] thì đều là thuyền buôn đi theo những thuỷ lộ nhất định. Trong khi đó, thuyền bè ở miền trung Việt Nam theo mùa lại ra các hải đảo để khai thác sản vật đem về bán kiếm lời [hoặc do triều đình sai đi để thu hoạch]. Việc khai thác hải sản ở biển đông hầu như là độc quyền của người Việt Nam.
[2] John K. Fairbank (ed.), The Chinese World Order, 2nd ed. (Mass.: Havard University Press, 1970) “A primilary framework” tr. 2
[3] ngư dân sống luẩn quẩn trên thuyền nên không có điều kiện phát triển về tiếng nói, lễ nghi … có khi anh em, cha mẹ, con cái lấy lẫn nhau nên bị khinh rẻ. Người Trung Hoa còn tưởng rằng “thuỷ thượng nhân” chân tay có màng như chân vịt nên bơi lội giỏi.
[4] Riêng đảo Hải Nam [Quỳnh Châu] vì sát với nội địa nên được sử dụng như một vùng đất để lưu đầy những người phạm tội.
[5] Nhiều cuộc chiến trước đây được coi là bảo vệ đất nước, nay chỉ còn là xung đột địa phương chẳng hạn như Nhạc Phi không còn là anh hùng dân tộc nữa mà là một quân sự gia, một trung thần của Tống triều đem quân đánh với nước Kim [Mãn Châu], cũng là một bộ phận dân tộc của Trung Quốc.
[6]海外為不征之國 – hải ngoại vi bất chinh chi quốc
[7] Diêu Gia Văn, Thập Cú Thoại Ảnh Hưởng Ðài Loan (Ðài Bắc: Chính Trung Thư Cục, 2003) tr. 25-26
[8] Hải Phòng Cấm Chỉ Lệnh Ðiều Lệ  (海防禁止令條例) Diêu Gia Văn, sđd. tr. 27
[9] thuyền của Trung Hoa giống như một cái máng lớn [cho súc vật ăn], gọi là “tào thuyền” [tào là cái máng] nên người Trung Hoa sang Việt Nam chúng ta quen gọi là người Tàu.
[10] Diêu Gia Văn, sđd tr. 33
[11] tất thiên hải biên cư dân ư nội địa, ly hải tam thập lý, thôn trang điền trạch, giai phần khí chi. Thượng tự Liêu Ðông, hạ chí Quảng Ðông giai thiên đồ, trúc viên tường, lập giới thạch, bát binh nhung thủ. Xuất giới giả tử. Bách tính thất nghiệp lưu ly, tử vong giả dĩ ức vạn kế.
悉遷海邊居民於内地,離海三十里。村莊田宅,皆焚棄之。上自遼東,下至廣東皆遷徒,築垣檣,立界石,撥兵戎守。出界者死。百姓失業流離,死亡者以億萬計。Hải Thượng Kiến Văn Lục trích từ Ðài Loan Tỉnh Thông Chí Ðại Sự Ký, Diêu Gia Văn, sđd. tr. 33
[12] Ðài Loan Lịch Sử Văn Hiến Tùng San: Thanh Sơ Hải Cương Ðồ Thuyết, (Ðài Bắc: Ðài Loan Văn Hiến Uỷ Viên Hội, 1996) tr. 5
[13]… xưng thần phụng cống tịnh khiển tử nhập kinh vi chất … nghiễm như Mông Tạng phiên bộ chi lệ 称臣奉贡并遣子入京为质 …俨如蒙藏藩部之例
[14] trích lại theo Trung Quốc Biên Cương Kinh Lược Sử, tr. 277
[15] Năm 1666, Oboi [Ngao Bái], phụ chính đại thần triều Khang Hi đã gửi thư trách nước ta dung túng cho hải phỉ và đe doạ sẽ gây chiến nến không bắt và giao cho họ những đầu đảng cướp biển quây phá Hoa Nam. Robert B. Oxnam, Ruling from Horseback: Manchu Politics in the Oboi Regency, 1661-1669 (Chicago and London: The University of Chicago Press, 1975) tr. 154-5
[16] Quan điểm của Thanh đình với Ðài Loan cũng gần giống như luận điểm của họ khi ký hoà ước Thiên Tân nhường Việt Nam cho Pháp, nại cớ nước ta là phiên thuộc của họ. Khi không bảo vệ được quyền lợi của nước nhỏ thì họ sẵn sàng đánh đổi để có một số quyền lợi. Thái độ của quan lại nhà Thanh đưa đến việc người Pháp phải nhường cho họ một số khu vực ở biên giới phía bắc nước ta trong hiệp ước Pháp – Thanh.
[17]台灣鳥不語,花不香. Diêu Gia Văn, sđd. tr 59
[18] Chi tiết này tuy nhỏ nhưng đã có hậu quả rất quan trọng trong chính sách của nhà Thanh với Tây Sơn. Khi người Mãn Thanh chinh phục được Trung Hoa, một trong những điều luật là tất cả thần dân đều phải cạo đầu, thắt đuôi sam để biểu lộ quyền hành tuyệt đối của họ đối với người Hán. Không chịu cắt tóc coi như phản loạn chống lại triều đình và bị kết án tử hình. Ðó là lý do tại sao nhà Thanh rất nghiêm khắc đối với những ai bỏ nước ra bên ngoài sinh sống và không can thiệp vào những vụ thảm sát dân Trung Hoa qui mô ở Phillippines, ở Gia Ðịnh … Việc cho phép các thành phần hải phỉ gia nhập quân đội của ông được để tóc dài đã được chúa Nguyễn sử dụng như một chứng cớ cụ thể về hành động chống đối nhà Thanh của triều đình Tây Sơn khi Nguyễn Ánh xin phong vương, đồng thời giúp nhà Thanh phủi tay với triều đình Cảnh Thịnh – Bảo Hưng. Chi tiết này cũng được khai thác trong mục tiêu chính trị để phủ nhận giao tình giữa vua Quang Trung và vua Càn Long.
[19] Chúng tôi ngờ rằng đô đốc Bảo được ghi nhận trong một số chiến dịch của Tây Sơn – kể cả trận đánh quân Thanh – chính là ông này. Tuy chưa có tài liệu đích xác, xin ghi lại để tồn nghi.
[20] Murray, Dian H. Pirates Of The South China Coast 1790-1810 (Calif.: Stanford University Press, 1987), tr. 36
[21] Viên Vĩnh Luân (袁永綸)đã tổng hợp việc đánh dẹp hải phỉ trong Tĩnh Hải Phân Ký (靖海氛記) (ấn hành Ðạo Quang thứ 10, 1837) đề cập đến việc nhà Tây Sơn sai hải thuyền sang cướp phá vùng duyên hải nam Trung Hoa. Thực tế, nhà Thanh không bao giờ có khả năng đối phó với cướp biển và triều đình Tây Sơn cũng không có lý do gì để giả danh sang đánh phá Trung Hoa. Trong suốt thời kỳ Tây Sơn, vua Quang Trung [và sau này vua Cảnh Thịnh] luôn luôn tôn trọng cương giới, hải phận và việc kiểm soát biển đông nằm trong chiến lược an ninh chung phân định giữa Trung Hoa và Ðại Việt thời kỳ đó.
Sau khi nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh tiêu diệt, các nhóm tàn quân của Tây Sơn còn lưu lạc trên biển tiếp tục hoạt động để mưu cầu việc khôi phục [nhiều lần đánh vào các tỉnh ven biển miền bắc, kể cả một lần đánh vào Phú Xuân] và vẫn giữ những qui luật nghiêm minh bao gồm 1) tuyệt đối không được lên bờ [đề phòng nhũng nhiễu], lần đầu vi phạm bị cắt tai, lần thứ nhì xử tử  2) tuyệt đối không chiếm làm của riêng những gì thâu đoạt được mà phải giao nạp, sau đó được hưởng 2/10, 8/10 thuộc về tài sản chung, vi phạm bị xử tử 3) tuyệt đối không được gian dâm phụ nữ, ép buộc đàn bà con gái làm vợ, vi phạm sẽ bị xử tử. (bản dịch Tĩnh Hải Phân Ký của Charles Fried Neumann, tr. 13-4)
[22] Konstam, Angus. The History of Pirates. The Lyons Press, 1999 tr. 168-9
[23] Charles F. Neumann, sđd. tr. 14-5
[24] hải cấm ninh nghiêm vô khoan, dư vô thiện sách 海禁寧嚴毋寬,餘無善策 [châu phê trên sớ của Khổng Dục Tuần, ngày mồng 9 tháng 10, Ung Chính thứ 2]
[25] Mã Ðại Chính, Trung Quốc Biên Cương Kinh Lược Sử (2000) tr. 289
[26] Trung Quốc Biên Cương Kinh Lược Sử, tr. 295
[27] Chủ trương này được khai triển trong một tác phẩm của Nguỵ Nguyên [魏源] nhan đề Hải Quốc Ðồ Chí [海國圖志] ấn hành năm 1842.
[28] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory: Ancient and Modern (Ontario: Mosaic Press, 1992) tr. 86-7
[29] Giáo sư Geoff Wade của Viện Nghiên Cứu Á Châu thuộc đại học quốc gia Singapore [National University of Singapore] đã viết:
The Ming invasion of Ðại Việt is perhaps the most obvious example of a colonial adventure. There was invasion, occupation, the imposition of a military and civil administration, economic exploitation and domination by a court in the capital of the dominating power. The obvious decolonisation which occurred following the failure of this enterprise underlines its colonial natures.
Việc quân Minh xâm lăng Ðại Việt có lẽ là thí dụ rõ ràng nhất của một phiêu lưu thực dân trong đó bao gồm đủ cả xâm lược, chiếm đóng, thiết lập một hệ thống hành chánh dân sự lẫn quân sự, khai thác tài nguyên kinh tế và do một triều đình từ kinh đô của lực lượng thống trị chỉ đạo. Ðường lối đó tan rã ngay sau khi mô hình kể trên thất bại càng làm cho bản chất thực dân của họ thêm hiển hiện.
Asia Research Institute: Working Paper Series No. 31, October 2004: The Zheng He Voyages: A Reassessment
TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Clements, Jonathan. Coxinga and the fall of the Ming Dynasty. Phoenix Mill: Sutton Publishing, 2005.
  2. Diêu, Gia Văn (姚嘉文). Thập Cú Thoại Ảnh Hưởng Ðài Loan (十句話影響台灣). Ðài Bắc: Chính Trung Thư Cục, 2003.
  3. Konstam, Angus. The History of Pirates. The Lyons Press, 1999.
  4. Mã, Ðại Chính (馬大正) (chủ biên). Trung Quốc Biên Cương Kinh Lược Sử(中國邊彊經略史). Trịnh Châu: Trung Châu Cổ Tịch xb xã, 2000.
  5. Murray, Dian H. Pirates Of The South China Coast 1790-1810. Calif.: Stanford University Press, 1987.
  6. Neumann, Charles Fried. Tĩnh Hải Phân Ký (靖海氛記) Translations from the Chinese and Armenian. London: Oriental Translation Fund, 1831 (reprinted by Elibron Classics, 2005)
  7. Oxnam, Robert B. Ruling from Horseback: Manchu Politics in the Oboi Regency, 1661-1669. Chicago and London: The University of Chicago Press, 1975
  8. Phasuk, Santanee và Philip Stott. Royal Siamese Maps: War and Trade in Nineteenth Century Thailand. Bangkok: River Books, 2004.
  9. Stuart-Fox, Martin. A Short History of China and Southeast Asia: Tribute, Trade and Influence. NSW Australia: Allen & Unwin, 2003.
  10. Tien, Chen-Ya. Chinese Military Theory, Ancient and Modern. Oakville, Ontario: Mosaic Press, 1992.
  11. Trương Vĩ (張煒), Phương Khôn (方堃). Trung Quốc Hải Cương Thông Sử(中國海疆通史). Trịnh Châu: Trung Châu Cổ Tịch xb xã, 2003
  12. Vương, Nhật Căn (王日根). Minh Thanh Hải Cương Chính Sách dữ Trung Quốc Xã Hội Phát Triển (明清海疆政策与中国社会发展) Phúc Châu: Phúc Kiến nhân dân xuất bản xã, 2006.
  13. Wade, Geoff. “The Zheng He Voyages: A Reassessment”. Asia Research Institute, National University of Singapore, Working Paper Series No. 31 (October, 2004)