Sunday, July 11, 2010

Nhóm TÂM VIỆT


Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh dân tộc.

Trích đoạn trong Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh
đánh dân tộc của Nhóm Tâm Việt.Sdney-Úc Châu
.
Video Sự thật về Hồ Chí Minh - Đứng lên vì VN

Nguyễn Ái Quốc xuất hiện!

Đến đây, nếu ta theo dõi hành tung của Hồ Chí Minh trong quyển Bác Hồ trên đất nước Lênin, Hồng Hà là chấp bút, chúng ta tìm lại được Lời hứa và Hoài bão của Hồ Chí Minh lúc ông ở lứa tuổi ba mươi và còn mang tên Nguyễn Ái Quốc. Trong ngày Lễ Lao động 1-5-1924, ở tại Mạc Tư Khoa trên đất nước Lênin, Hồ Chí Minh được đứng trên khán đài danh dự cùng với các đại biểu Quốc tế Cộng sản sau Lá Cờ đỏ thêu hàng chữ Chúng tôi nguyện đem Lá Cờ của Người đi khắp thế giới. Chữ Người của khẩu hiệu trên là Lênin, lá cờ là Cờ Búa liềm của Liên Xô, và khẩu hiệu trên là mục tiêu tranh đấu của Cương lĩnh Lênin về vấn đề thuộc địa. Đó là Hoài bão của Bác.

Còn Lời hứa của Bác đối với Manuilski thì như sau: “...Tôi (tức Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc) còn chịu trách nhiệm trước Quốc tế Nông dân về tham gia chỉ đạo phong trào nông dân châu Á”. Manuilski tuyên bố trao cho Nguyễn trọng trách lớn hơn: “Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chấp thuận đề nghị của đồng chí. Quốc tế Cộng sản cử đồng chí làm ủy viên ban Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước Đông Nam châu Á”. Nguyễn Ái Quốc hứa với Manuilski: “Tôi tin rằng lần sau gặp đồng chí thì Tổ quốc Việt Nam của tôi đã có đảng Cộng sản”. Với lời hứa đó, ngày 25-9-1924 ban chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ”.

Trong chân lý của lịch sử, khi Hồ Chí Minh về nước đọc bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, thì 21 năm trước tức là năm 1924, ông đã là Quốc tế ủy của Cộng sản Đệ tam Quốc tế, đã ôm ấp hoài bão đem lá cờ đỏ của Lênin đi khắp thế giới, và có lời hứa sẽ thành lập đảng Cộng sản Việt Nam. Đi Quảng Châu để công tác trong phái bộ Borodin, mọi công tác phí đều do ban Phương Đông đài thọ, mỗi tháng được trợ cấp 60 rúp, nhưng Hồ Chí Minh đã đặt điều dối gạt trong quyển tự truyện Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của chính ông viết với bút danh Trần Dân Tiên rằng ông qua Trung Quốc là tìm đường về nước với mục đích truyền bá lý tưởng bình đẳng, tự do, bác ái học được ở Pháp. Ông lại đặt điều láo khoác rằng: “Ở Trung Quốc, nhờ đọc báo ở mục tìm người làm thông ngôn, nên ông mới đến xin việc với Borodin, nếu không thì ông chỉ đi bán báo và thuốc lá để kiếm sống!”

Có nhiều nhà phê bình cho rằng Hồ Chí Minh lấy bút danh Trần Dân Tiên để viết quyển truyện Những mẩu chuyện... tự ca ngợi mình là Cha già Dân tộc, là điều vô liêm sỉ, một việc không nên làm, nếu thật sự ông đúng là Cha già Dân tộc. Bất chấp lễ nghĩa liêm sỉ, Hồ Chí Minh đã làm được việc tự bốc thơm mình, nhưng thiên bất dung gian, ông cố gắng giấu bộ mặt Cộng sản mà lại lòi đuôi Cáo Hồ. Sự thật trong lịch sử bang giao Nga Hoa trong thời gian Tôn Dật Tiên còn chủ trương Liên Nga Dung Cộng thì phái bộ Borodin được Nga phái sang Quảng Châu cố vấn cho Trung Hoa Dân quốc có Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (dưới ám danh Lý Thụy) tháp tùng với mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ. Tác giả Hồng Hà còn ghi chú thêm tiền trợ cấp hàng tháng là 60 rúp. Mãi sau nầy, năm 2002, nữ Tiến sĩ người Mỹ Sophia Quinn-Judge còn đưa ra ánh sáng thêm: một ngân phiếu của Quốc tế Nông dân vào tháng 8-1925 gởi cho Hồ Chí Minh 5000 rubles (tiền Nga tương đương với 2500 Mỹ kim vào lúc ấy), tiền gởi qua trương mục của Borodin trong ngân hàng Viễn Đông. Ông nào có đi bán báo và thuốc lá để kiếm sống đâu mà bày đặt chuyện nhờ đọc báo thấy mục tìm người thông ngôn mới đến xin việc với phái bộ Borodin. Ông nào có làm công việc thông ngôn tầm thường đâu mà nhiệm vụ của ông là chỉ đạo phong trào Cộng sản ở các nước Đông Nam Á. Ông đã là Quốc tế ủy Kominternchik rồi kia mà! Tại sao Hồ Chí Minh che giấu sự thật và đặt điều dối trá như vậy? Tại sao?

Khi huyền thoại tan tác như sương mù dưới ánh thái dương, người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ thấy rõ như ban ngày vào lúc Hồ Chí Minh về nước đọc Tuyên ngôn Độc lập thì ông đã có 21 tuổi đảng và đảng của ông gia nhập thường được gọi là đảng Bolshevik, là nhóm Stalinien, là Đệ tam Quốc tế, là Komintern, viết tắt là QT3, nhưng thực sự là Đế quốc đỏ Liên Xô có tham vọng bành trướng khắp thế giới, một Đế quốc đi ngược chiều lịch sử của nhân loại. Đã là Đảng viên cao cấp được ủy nhiệm của Đệ tam Quốc tế, là Quốc tế ủy Kominternchik, thế tại sao trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ông lại sao cóp ý của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc?” Tại sao?

Cóp nhặt ý từ bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ chưa đủ, ông lại còn thuổng lời cao ý đẹp “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi” của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Tại sao?

Tại sao ông lại thuổng, sao chép, cóp nhặt, chôm chỉa rất tinh tế những tư tưởng cao đẹp trong Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp để bày tỏ với Dân tộc Việt Nam trong ngày quan trọng nhất của Đất nước? Tại sao? Tại sao hết lớp vỏ bọc này đến lớp vỏ bọc khác, ông luôn tìm cách che dấu chân tướng Cộng sản của mình? Tại sao?

Cái “Cẩm nang thần kỳ, Chủ nghĩa Lênin bách chiến bách thắng” mà ông luôn luôn ca tụng, ông để ở đâu mà sao ông không đem ra khoe? Tại sao? Tại sao Hồ Chí Minh lại quyết tâm và nhẫn tâm lừa phỉnh Dân tộc bằng miếng mồi Tự do Dân chủ Nhân quyền của các nước Mỹ và Pháp ngay trong lần xuất hiện đầu tiên? Tại sao?

Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ nghe vang vọng từ hàng nghìn trang chiến sử tiếng khóc than oan ức trong hàng nghìn hàng triệu câu hỏi “Tại sao?” như vậy. Mỗi một người Việt chết trong cuộc chiến là một câu hỏi “Tại sao?”. Một triệu người chết là một triệu câu hỏi “Tại sao?”

Người chết bất luận ở chiến tuyến nào, bác sĩ Đoàn Mạnh Hoạch của Quân đội miền Nam hay nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm của Bộ đội miền Bắc. Tại sao họ phải chết? Tại sao nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm phải sanh Bắc tử Nam? Tại sao?

Và còn biết bao bác sĩ Việt Nam khác nữa như Nguyễn Văn Nhứt, Phạm Đình Bách, Trần Ngọc Minh, Trương Bá Hân, Lê Hữu Sanh, Đỗ Vinh, Nghiêm Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Đệ, v.v… , tất cả là Tinh hoa của Dân tộc, tại sao họ phải chết ngoài chiến tuyến trong khi vào thời gian lịch sử đó các bác sĩ của các nước Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ... được làm lương y săn sóc người bịnh của nước họ trong cảnh thanh bình. Tại sao như vậy?

Không những các bác sĩ Việt Nam bị chết trong chiến trận ngoài tiền tuyến, mà có ba vị bác sĩ người Đức là Krainick, Discher, và Alterkoster, cùng vợ của bác sĩ Krainich là bà Krainich, tất cả bốn người đều bị Việt Cộng bắt giết khi chúng chiếm Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Mãi đến đầu tháng 4-68, mới tìm được xác họ chôn chung một hầm ở gần chùa Tường Vân. Tại sao họ phải chết khi họ đến Việt Nam vì mang nặng tình nhân loại và lòng vị tha để giảng dạy các sinh viên y khoa ở Huế, chạy tiền nuôi bệnh viện, xây bệnh xá tâm thần và phong cùi, mở bệnh xá ở miền quê cách Huế 30 cây số để khám bịnh miễn phí cho người nghèo? Tại sao?

Vén bức màn dày đặc của huyền thoại, người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ thấy rõ như ban ngày là Hồ Chí Minh đã mang hoài bão “đem lá cờ đỏ của Lênin đi khắp thế giới” và đã có lời hứa “Sẽ thành lập đảng Cộng sản Việt Nam” ngay từ năm 1924. Thế tại sao đến năm 1945 Hồ Chí Minh nhẫn tâm đem miếng mồi Tự do Dân chủ của nước Pháp và Mỹ để nhử Dân tộc Việt Nam? Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ thấy ngay Hồ Chí Minh là kẻ làm chính trị theo kiểu treo đầu dê bán thịt chó dối gạt Dân tộc, bởi lẽ chủ nghĩa Cộng sản với Tam vô Đấu tranh Giai cấp Độc tài Đảng trị đối nghịch với chế độ Tự do Dân chủ của Tây Phương như nước với lửa, không bao giờ đi chung với nhau. Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ nhận rõ “Hoài bão đem Lá Cờ đỏ của Lênin đi khắp thế giới” và “Lời hứa sẽ thành lập đảng Cộng sản Việt Nam” của Hồ Chí Minh lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc đã là “Mầm mống nội loạn”, đã là “Hạt giống chiến tranh”, ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã mang về gieo trồng trên Đất nước thân yêu của chúng ta! Ngay từ năm 1924!

Thiện chí Hòa bình và Hòa hợp của Dân tộc

Từ xưa đến nay không ai thích chiến tranh như câu “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” dẫn giải. Người cầm binh khiển tướng phải dùng tài trí biện biệt đâu là thượng sách, trung sách, và hạ sách hoặc thất sách để lựa chọn hoặc né tránh. “Bất chiến tự nhiên thành” hoặc là “Công tâm hơn công thành” là kế sách của những bậc du thuyết tài ba ngày xưa lưu truyền đáng được noi theo. Vào những ngày đầu tiên đi tìm Độc lập cho Dân tộc, thiện chí hòa bình hợp tác được xem trọng và đề cao do Cựu hoàng Bảo Đại và vị Thủ tướng đầu tiên của ngài là Trần Trọng Kim. Cựu hoàng đã biểu lộ thiện chí của Ngài như sau (Trích quyển Le Dragon d’Annam, trang 222): “Rất thực tâm liên hiệp với VMCS ngay những ngày đầu để quốc dân được hưởng thái bình”.

Tuy nhiên, ngay những ngày đầu tiên, Cựu hoàng đã thấy sự trí trá xảo quyệt của Hồ Chí Minh trong sự việc Cựu hoàng không ra ứng cử dân biểu Quốc hội mà lại được đắc cử với số phiếu bầu 92% ở tỉnh Thanh Hoá! Với Hồ Chí Minh, sự xảo quyệt lớn trong chính trị như chuyện bầu cử ở Thanh Hoá hay sự dối trá vụn vặt trong cuộc đời thường, “Bác Hồ nhà ta” không thiếu thứ nào! Về chuyện thuốc lá của Bác Hồ, Cựu hoàng kể rằng: “Hồ là kẻ nghiện thuốc lá Mỹ, nhất là thuốc Phillip Morris. Nhưng ở nơi làm việc và tiếp khách, lúc nào Hồ cũng giữ một bao Bastos xanh hay vàng… khiến cho khách khứa cứ tưởng hắn ta sống bình dân, hút thuốc bình dân. Lẽ dĩ nhiên, lúc không có người ngoài quan sát, Hồ chỉ hút Phillip Morris.”

Vào khoảng tháng 7-1945, Thủ tướng Trần Trọng Kim từ Huế ra Hà Nội thương thuyết với Tổng Tư lịnh Quân đoàn 38 của Nhật là Tsuchihashi Yuitsu giữ chức Toàn quyền Đông Dương để thu hồi chủ quyền ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Nam Bộ. Cuộc thương thuyết thành công. Ngay ngày hôm sau, ba thành phố được giao hoàn cho Việt Nam. Còn về Nam Bộ, thì chỉ chờ Thủ tướng Trần Trọng Kim vào Nam hoặc cử một đại diện vào Sài Gòn, người Nhật sẽ làm lễ bàn giao ngay. Vào lúc đó, Hồ Chí Minh chưa về Hà Nội, nhưng đã đưa thủ hạ đánh phá phủ huyện khắp nơi, khiến quân đội Nhật phải bắt giữ rất đông. Nhân dịp ra Bắc này, vị Thủ tướng họ Trần cũng xin Nhật thả những thanh niên theo Việt Minh bị quân đội Nhật giam giữ.

Vào lúc đó, áp lực của VMCS rất mạnh. Trần Trọng Kim muốn biết chủ trương của chúng nên mới bảo Phan Kế Toại tìm cho ông một vài người Việt Minh để bàn chuyện. Phan Kế Toại đưa đến một thanh niên Việt Minh. Rất tiếc Trần Trọng Kim không ghi lại tên tuổi của người nầy, nhưng cuộc đối thoại giữa hai người rất l‎‎‎‎‎‎ý thú. Xin trích nguyên văn cuộc nói chuyện được ghi lại trong Một cơn gió bụi, hồi k‎ý chính trị của Thủ tướng Trần Trọng Kim, bút hiệu Lệ Thần:

“Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói:

- Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ‎‎ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?”

Người ấy nói:

- Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn Độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.

- Sự mưu cầu cho nước được Độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.

- Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn Độc lập chứ không có hai.

- Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.

- Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia”.

Thủ tướng Trần Trọng Kim thuật tiếp rằng sau đó người thiếu niên ấy đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của “đảng Việt Minh”. Thấy thái độ của người Việt Minh như vậy, biết không lấy nghĩa l‎ý nói chuyện được, ông mới nói:

- Nếu các ông chắc lấy được quyền Độc lập cho nước nhà, các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?

- Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.

- Các ông chắc là các nước Đồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?

- Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm!

- Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.

Người thiếu niên ấy hẳn là một cán bộ cao cấp đã được học tập và thấu hiểu đường lối “Kách mệnh”. Bởi lẽ một tháng sau đó, quả nhiên Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội. Vận mệnh của Đất nước, than ôi, đã lọt vào tay của nhóm kẻ chủ trương “Dù người trong nước mười phần chết mất chín, cũng sẽ lập một xã hội mới với một phần còn lại, còn hơn với chín phần kia”. Sau ngày 30-4-1975, cuộc Kách mệnh của Hồ Chí Minh thành công, lời nói trên được ứng nghiệm, xã hội mới chỉ gồm có ba triệu đảng viên của Hồ Chủ tịch, Dân tộc với 80 triệu người còn lại thì không được nói, còn bị bịt mắt bịt tai, thì sống cũng như chết! Lời nói của Thủ tướng Trần Trọng Kim vào tháng 7-1945, “Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử”, bây giờ đã là thế kỷ 21, trên 50 năm đã trôi qua, lời nói ấy có còn vang vọng trong lương tâm của ai không?

Những lời tâm huyết của Cựu hoàng trong Chiếu Thoái vị

Người đi tìm chân lý trong lịch sử, đọc lại Chiếu Thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại, mới hiểu tấm lòng cao cả hy sinh cả ngai vàng của Cựu hoàng vì Cựu hoàng có viễn kiến muốn cứu Dân tộc, muốn Dân tộc thoát khỏi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Ngày 25-8-1945, khi trao quyền cho chính phủ Hồ Chí Minh để được làm Công dân Vĩnh Thụy, Cựu hoàng chỉ có ba điều mong ước, đó là Ba điều tâm huyết của Cựu hoàng! Xin Dân tộc hãy đọc kỹ những Lời vàng ngọc trong Chiếu Thoái vị để suy ngẫm và hiểu tấm lòng của Cựu hoàng:

1- Đối với tông miếu và lăng tẩm của liệt thánh, chính phủ mới nên xử trí thế nào cho có sự thể.

2- Đối với các đảng phái đã từng tranh đấu cho nền Độc lập quốc gia, nhưng không đi sát phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết và tỏ rằng chính phủ dân chủ Cộng hòa nước ta đã xây đắp trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân.

3- Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết cả các giai cấp, các đảng phái, cho đến cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ, giữ vững nền Độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và hoàng gia mà sinh chia rẽ.

Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng chấm dứt với hàng chữ “Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước Độc lập”. Những lời sau cùng này thật đẹp tợ bông hoa thêu kết vào bức gấm tô điểm cho vị thế của vị Hoàng đế cuối cùng trong sách sử lưu truyền cho đời sau.

Người đi tìm chân lý trong lịch sử sẽ nhận rõ rằng đối với bản Tuyên ngôn Độc lập do chính Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên đọc, ông còn lếu láo dùng làm chiêu bài để lừa phỉnh Dân tộc thì những yêu cầu chính đáng của Cựu hoàng muốn Chính phủ Dân chủ Cộng hòa của ông xây đắp trên sự đoàn kết để cùng nhau kiến thiết quốc gia, ông nào có coi ra gì! Cảm thương thay cho Cựu hoàng đã hy sinh cả ngai vàng để cứu Dân tộc thoát khỏi vòng chinh chiến mà không được toại nguyện! Cựu hoàng đã giao trứng cho ác rồi! Phong cách hành xử vương đạo không tham quyền cố vị của Cựu hoàng cao cả bao nhiêu, thì tâm địa tranh bá đồ vương theo lối bàng môn tả đạo của HCM lại hèn hạ ty tiện và ác độc bấy nhiêu! Thật đáng buồn cho Dân tộc!

Ngay khi Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng còn chưa ráo mực, thì bộ đội của Hồ Chí Minh mở cuộc tấn công vào căn cứ Nga My, Ninh Bình của đảng Đại Việt Duy dân (ngày 1-9-1945), và trong mười ngày đầu tháng 9-1945, Võ Nguyên Giáp nhân danh Bộ trưởng Nội vụ ký một loạt sắc lịnh giải tán các đảng Đại Việt Quốc gia Xã hội và Đại Việt Quốc dân đảng và bắt giam lãnh đạo Thanh niên Ái Quốc hội vu cáo là Việt gian. Ngày 11 tháng 9 Hoàng Minh Giám, Xử l‎ý Bộ trưởng Nội vụ k‎ý nghị định kiểm soát báo Ngày nay của Quốc dân đảng. Ngày 22 tháng 9 Trần Huy Liệu ra thông cáo áp dụng chế độ kiểm duyệt báo chí, và đến ngày 1 tháng 10, ra thông cáo đặt các cơ sở in ấn dưới quyền kiểm soát của nhà nước, ăn cướp nhà in Ngày Nay của nhóm Tự lực Văn Đoàn. Tất cả là những hành động sát hại và đàn áp những người quốc gia yêu nước chống Pháp, vậy mà ngoài miệng Hồ Chí Minh cứ mãi hô hào: “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết!” Theo dõi mãi hành tung đạo tặc và tâm địa tráo trở của Hồ Chí Minh, theo dõi mãi cũng phát chán!

Công nghiệp hiển hách của Triều đại Nguyễn Phúc

Giờ xin bình tâm hướng về công nghiệp hiển hách của các vua chúa Triều đại Nguyễn Phúc, gồm 9 Chúa và 13 Vua. Khởi từ dinh Ái Tử ở đất Thuận Hóa là mảnh đất đầu tiên Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên vào trấn nhậm (năm 1558), đến chín đời sau là đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (năm 1744), thì lãnh thổ Đàng Trong gồm đến mười hai dinh (từ 1 dinh tăng lên thành 12 dinh), trải dài đến tận Hà Tiên và Cà Mau. Chưa hết, lãnh thổ còn vươn dài ra biển Nam Hải và vịnh Thái Lan với các đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Côn Sơn và Phú Quốc. Đến khi vua Gia Long thắng nhà Nguyễn Tây Sơn, thống nhứt Đàng Trong với Đàng Ngoài thì Đất nước Đại Nam dưới triều đại Nguyễn Phúc rộng lớn nhất kể từ 4000 năm lập quốc. Về viễn kiến của vua Gia Long đối với vấn đề chiến lược, xin trích dẫn bài Quần đảo Hoàng Sa Trường Sa của cựu đại úy Thái Văn A thuộc Bão biển Đệ nhị Hải sư, hiện định cư ở Melbourne (Bài đăng trong đặc san Nguyễn Đình Chiểu-Lê Ngọc Hân 2002, xuất bản ở Sydney):

“Đến khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế năm 1802, chọn Huế làm kinh đô, Ngài cảm thấy cần bảo vệ cho Đế đô từ phiá đông bằng cách cho hải quân ra chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, đồng thời cho người vẽ lại bản đồ chi tiết quần đảo nầy. Khi sai sứ xin tấn phong ở Bắc Kinh đã cho nộp luôn cả bản đồ vùng Hoàng Sa. Nhà Thanh nhận những tài liệu nầy, đồng thời cũng nhận luôn chủ quyền của nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa”.

Đối với những người Pháp theo giúp vua Gia Long trong công cuộc thống nhứt đất nước như Chaigneau, Vannier và Despiau, thì vua phong làm quan tại triều và ban cho mỗi người 50 lính hầu, tuy đến buổi chầu thì không bắt lạy mà thôi. Dải giang sơn gấm vóc 23 Trấn 4 Doanh dưới triều vua Gia Long, trong thơ văn và tình tự Dân tộc, đã đi vào tâm khảm người Việt thành chuỗi từ thân thương thật đẹp: Dải đất hình cong như shữ S chạy dài từ Ải Nam Quan đến tận Mũi Cà Mau. Học lại lịch sử cho thấu đáo, ta mới biết rằng công cuộc thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài của vua Gia Long để cho sông Gianh không còn là ranh giới ngăn cách Bắc Nam hẳn là cuộc thống nhất thật đẹp trong lịch sử. Và trường nữ Trung học Gia Long của thành phố Sài Gòn không phải đặt theo tên vua Gia Long. Những nhà giáo dục tiền bối ở miền Nam không phải là không cân nhắc khi chọn tên để đặt cho ngôi trường nữ trung học lớn nhất ở Sài Gòn: thực sự tên trường Gia Long là kết tự của “Gia Định và Thăng Long” để biểu dương cho sự thống nhất Đất nước. Vì mang ý nghĩa thật đẹp như thế cho nên tên trường nữ Trung học Gia Long phải được bảo tồn bằng bất cứ giá nào!

Nhắc lại công nghiệp huy hoàng của triều đại Nguyễn Phúc để hiểu Cuộc Thoái vị của Cựu hoàng Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng, là một Quốc sách cứu Dân tộc thật cao cả và đầy ý nghĩa. Vất bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vào sọt rác lịch sử và đọc lại Chiếu Thoái vị, tức là những Lời Tâm huyết của Cựu hoàng, ta hãy đọc lại từng chữ, nghiên cứu lại từng hàng, nghiền ngẫm lại từng câu, ta mới thấy rõ sự phi lý cùng cực của cuộc chiến tranh do Hồ Chí Minh gây ra để đánh Dân tộc. Tác giả Minh Võ phê bình quyển Vision accomplished? The enigma of Ho Chi Minh của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Huyên đã cho biết lập trường của hai vị hoàng thân sau đây (Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp, trang 207):

“Hoàng thân Bửu Hội, nhà bác học duy nhất của Việt Nam lúc ấy, nhân danh hoàng tộc, khuyên Pháp nên điều đình với chính phủ Hồ Chí Minh và hoàng thân Ưng Úy, thân sinh của nhà bác học Bửu Hội, bỏ thành phố ra vùng kháng chiến với Việt Minh.”

Hoàng hậu Nam Phương dứt khoát không chịu tiếp các vị đặc sứ do Đô đốc Thierry d’Argenlieu cử đến, lúc đó d’Argenlieu giữ chức Cao ủy Đông Dương thay thế chức Toàn quyền thời Pháp thuộc. Ngay cả vị Khâm sứ Tòa thánh đến khẩn khoản thỉnh cầu hoàng hậu đổi ý, Nam Phương hoàng hậu không nói một lời mà lại đến chiếc dương cầm cử bài Tiến Quân ca của Văn Cao lúc đó là bản quốc thiều của Việt Minh. Bằng một phong cách thật đẹp và duyên dáng, vị Hoàng hậu cuối cùng của Đất Việt biểu hiện tấm lòng vâng thuận theo Chiếu Thoái vị của Cựu hoàng, nhất định không chấp nhận đưa hoàng tử Bảo Long lên ngôi hoàng đế và Hoàng hậu giữ quyền Nhiếp chính. Đó là đề nghị của d’Argenlieu đưa ra (Trích bài phê bình quyển The Struggle for Indo-china của Ellen Hammer do tác giả Minh Võ, trang 323, sđd).

Lập trường tán thành chính phủ Dân chủ Cộng hòa và ủng hộ Hồ Chí Minh của Nam Phương hoàng hậu và của các hoàng thân Bửu Hội và cha là Ưng Úy thật quang minh chánh đại. Lập trường của các vị trong hoàng tộc đối với Hồ Chí Minh thuận lợi như vậy, thế thì Hồ Chí Minh ứng xử ra sao? Ông đã tàn ác ra lịnh ám sát hai người thân tín của Cựu hoàng. Đó là vị Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Bắc Việt Bác sĩ Trương Đình Tri và Khâm sai Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm. Hai người nầy bị giết cách nhau không đầy 24 giờ, một ở trong Nam, một ở ngoài Bắc! Hồ Chí Minh nhìn vào Dân tộc, thấy ai ai cũng là kẻ thù của mình!

Bây giờ, rà soát lại lịch sử, ta tìm ra chân lý là chính Hồ Chí Minh là người đã gieo trồng mầm mống nội loạn và hạt giống chiến tranh ngay từ năm 1924, cả mười mấy năm trước khi nhạc sĩ phản chiến Trịnh Công Sơn chào đời! Nào ai có biết! Cuộc chiến tranh Việt Nam đã được đặt cho rất nhiều tên: nào là cuộc chiến Quốc Cộng, nào là cuộc chiến Giải phóng Dân tộc, nào là cuộc thánh chiến Đánh Mỹ cứu Nước, cuộc chiến tranh Đông Dương lần Thứ nhất, cuộc chiến tranh Đông Dương lần Thứ hai, cuộc Chiến tranh Mười ngàn ngày, sử gia Vũ Ngự Chiêu dùng một từ Hán Việt là Tam Thập Niên Chiến (1945-1975)... biết bao nhiêu là tên. Thêm một tên gần sát với thực trạng là cuộc chiến tranh Đông Dương của Hà Nội. Vâng, đúng là “của Hà Nội”, do Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội phát động để đánh miền Nam. Trong bài bàn về Quân lực Việt Nam Cộng hòa: 1968-1975, sử gia Bill Laurie, một chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam đã nhận xét như vậy. Nhưng nếu xét về quan điểm Hồ Chí Minh là kẻ quyết tình gieo trồng vun xới hạt giống chiến tranh, và Dân tộc Việt Nam từ Bắc chí Nam là nạn nhân phải gánh chịu, chúng ta phải trả chân lý lại cho lịch sử, cuộc chiến tranh phải được định lại cho đúng chính danh là: CUỘC CHIẾN TRANH CỦA HỒ CHÍ MINH ĐÁNH DÂN TỘC
Đọc toàn tập 1- tập 2 - tập 3

Nhóm TÂM VIỆT
Nguồn vietnamexodos.org