1975: Việt Nam có thắng Mỹ?
Trong bài “Thắng và bại”, từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, tôi nêu lên nhận định: Thắng và bại là một vấn đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định. Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh; có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Trong bài “Thắng và bại”, từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, tôi nêu lên nhận định: Thắng và bại là một vấn đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định. Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh; có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.
Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay,
hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt
Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay
người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua
trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số
một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh
Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war)
hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.
Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp
nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.
Một, một số người cho, về phương diện quân sự,
quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương
vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người
chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ
phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở
cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; và trong
chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua… những màn ảnh tivi hằng ngày
chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người
Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không
thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài
chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận
và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ
thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người
Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên
tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy,
trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta
thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể
thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng
quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế
giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc
Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã
thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo
Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!)
(tr. 61).
Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi
Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên
con đường tư bản hóa. Họ khẳng định: “Chúng ta đã chiến thắng cuộc
chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”
Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không
hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối
với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ
đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu
lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến
tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối
năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn
27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở
Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và
khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận
chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc
giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu
hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc
chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?
Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở
trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua
cuộc.
Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không
hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu
ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.
Có hai mục tiêu
chính:
Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong
cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.
Hai, ngăn chận làn sóng
Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam
Á.
Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt
Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.
Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục
tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều
sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta
không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có
thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm
xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc
đến.
Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ
thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng
của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ
nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu
phụ.
Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất
hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý
thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi. Dựa
trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản,
Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất
khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước
khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế,
chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.
Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này – mục tiêu
ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á – không thể nói là chính phủ Mỹ thất
bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon,
Mỹ đã thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao
giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như
trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước
đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau; và ba, làm giảm bớt sự
ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt.
Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi
Trung Quốc và Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó,
cũng không còn quá nguy hiểm như trước.
Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á.
Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á.
Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.
Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với
họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ
nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một
ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.
Thắng ở ba
điểm:
Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi
biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn
bình an trước hiểm họa Cộng sản.
Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa
Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu
ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên
tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó,
dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về
đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở
Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và
tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp
nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá
trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây
phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên
tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như
Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam
vượt biên.
Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường
Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc
chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa
Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.
Nhìn vào ba sự thành công ấy,
khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc
Việt Nam đã thắng Mỹ.
Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản
chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược
gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một
cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe
Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là
ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống
Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của
người chiến thắng.
Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh
và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh
lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau
nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không
biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong
chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và
đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi
nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng.
Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến
thành chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến
tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do
đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính
trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến
lược.
Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:
Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ
không hề muốn bênh vực cho Mỹ.
Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố
tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam
Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng
ta.