Tuesday, March 10, 2015

Tướng Lê Văn Hưng


Hồi ức về phút cuối cùng
 của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng

Gần bốn mươi năm đã trôi qua, cuộc chiến năm xưa đã trôi vào dĩ vãng. Đúng vào ngày âm lịch: 19 tháng 3 năm Ất Mẹo ( nhằm ngày 30-04-1975 ) vào lúc 8 giờ 30 tối, có một vị Tướng của QLVNCH đã tự sát chết tại miền Tây. Như nén hương lòng thắp cho Người trong ngày giỗ, xin trích lại một số đoạn hồi ức của ông Huỳnh Quang Nghĩa, một cựu sĩ quan và nguyên chánh văn phòng của cố Chuẩn tướng Lê Văn Hưng. Kể lại cái chết ấy, nói lên được nhiều điều về tình cảm của con người trong lúc nguy nan với nhau. 

Lúc đó khoảng 8h30 tối ngày 30-4-75, bộ quân phục nghiêm chỉnh vẫn còn trên người Chuẩn Tướng và tôi. Bên trong phòng ngủ, ngay sát đầu cầu thang trên lầu, nụ hôn vĩnh biệt của Bà Chuẩn Tướng vừa kịp đặt lên má chồng, Ông đã vội đẩy Bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay người lại, còn thấy tôi trong phòng, giọng ông thảng thốt:
-Nghĩa! Mầy đi ra... 

Vừa nói Ông vừa nắm lấy tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo:
-Tôi ở lại cùng Chuẩn Tướng.
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hằng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn Tướng lạc đi, cái níu đẩy tôi ra ngoài, sự va chạm ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác cục nam châm đang cố gắng rút khỏi thanh sắt. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt oà khóc và cùng Bà Chuẩn Tướng quỳ mọp xuống nền cửa, bên tai còn vọng nghe tiếng rít khô khốc của tiếng then cài. Mọi sự  diễn ra không đầy một phút sau đó.
Tiếng nổ chát chúa vang lên đằng sau cánh cửa. Tôi hoảng hốt đứng bật dậy. Với tiếng nổ đó, tôi đau đớn nhận rõ chắc chắn sự gì đã xảy ra. Trong phòng Chuẩn Tướng không một tiếng động, tôi bước tới đưa tay thử lay mạnh cánh cửa, rồi lùi lại nhìn xuống chân cầu thang, tôi kêu lớn khi thấy có ba bốn cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên.
- Con dao... cạy cửa mau!
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to nhọn chạy nhanh lên và đích thân nạy cánh cửa bật ra. Mọi người cùng ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất, tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn Tướng, nơi nửa thân trên ông nằm ngửa trên tấm nệm trãi drap trắng, hai cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, màu máu tươi nhuộm thắm phần ngực trái chiếc áo thun trắng bên trong, cả phần chân Chuẩn Tướng buông thỏng bên ngoài, hai gót giày chấm đất. Có lẽ Chuẩn Tướng đã ngồi cạnh thành giường, một tay cởi hai khuy áo trên, tay kia đưa nòng colt 45 ấn vào làn da chỗ trái tim.

Chúng tôi đặt Chuẩn Tướng nằm lại ngay ngắn trên giường, gương mặt Ông xanh tái, lấm tấm mồ hôi. Chuẩn Tướng há miệng rướn đầu cố gắng lấy hơi thở mệt nhọc, đôi mắt biểu lộ sự đau đớn cực độ. Đầu Chuẩn Tướng vừa đặt lên gối cũng là lúc Bà Chuẩn Tướng vuốt mắt cho chồng. Chuẩn Tướng đã nghỉ yên. Viên đạn oan nghiệt theo vị trí nòng súng đã xuyên thật chính xác qua tim. Đứa con trai đầu lòng Lê Uy Hải khi đó vừa tròn 6 tuổi đã nhặt được đầu đạn đưa cho mọi người xem, rồi mím môi, khép năm ngón tay giữ chặt “kỷ vật”. Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm ấy rồi. Trước đó một tiếng đồng hồ, một anh trai và một em gái 3 tuổi còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của mình.

Ngay cả chính chúng tôi, những sĩ quan cận thuộc, Chuẩn Tướng cũng không hề nói hay biểu lộ điều gì cho thấy Ông sẽ tự sát nếu vùng IV lọt vào tay địch. Giờ đây sau hơn 30 năm, ngồi viết lại những dòng hồi ký này, tôi nghĩ mình đã có thể tự trả lời: là vì Ông không phải là vị chỉ huy cao cấp nhất có trách nhiệm thống lĩnh vùng IV như lúc Ông còn đảm trách chiến trường An Lộc.

Trở lại cái chết của Chuẩn Tướng Hưng, quả thật tôi chỉ biết rõ được quyết định của Chuẩn Tướng vào thời điểm Cần Thơ-thủ phủ Miền Tây-thật sự đã vô chủ.

Cần Thơ chỉ bước vào cuộc trong đêm 29-4-75. Mười giờ đêm tôi đang ngủ, điện thoại T.O.C/ Quân Đoàn gọi sang trình Chuẩn Tướng diễn tiến tình hình: Các trực thăng từ Quân Đoàn III, từ Sài Gòn bay lẻ loi về miền Tây đáp bất kỳ nơi nào đáp được. Từ đó tôi thức luôn đến sáng vì điện thoại gọi đến liên tục.

Mười hai giờ đêm, có tiếng xôn xao ồn ào ngoài cổng dinh, tôi bước ra và nhìn thấy hàng hàng người đang cuồn cuộn kéo đi trên đại lộ phía bên kia công viên. Cuộc diễu hành náo loạn như lúc ban ngày! Tôi kinh ngạc hỏi người lính gác cổng họ đi đâu vậy? Người trung sĩ, Trưởng toán bảo vệ tư dinh nơi đó cho tôi biết họ ra bến Ninh Kiều để lên tàu Hải Quân ra đi. Tôi ngỡ ngàng tự nhủ, như vậy là Phó Đề Đốc Thăng tự động dẫn đoàn tàu của ông di tản ư? (Cần nhớ là các lực lượng Không Quân, Hải Quân, lực lượng Đặc Chủng ở miền Tây đều nằm trong hệ thống điều động của BTL/ QĐ IV). Trong làn sóng người lục tục kéo đi, bất chợt tôi nhìn thấy xe của Chuẩn Tướng Chương Dzềnh Quây, Tham Mưu Trưởng QĐ IV. Tôi quay vào, gọi ngay cho Thiếu Tá Trưởng toán trực T.O.C hỏi ông có biết việc nầy không? Rồi vội vã lên lầu trình Chuẩn Tướng. Chính ông cũng đang thức như tôi. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi để nói chuyện cùng Đại Tá Trang, Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV sông ngòi. Tôi nhìn đồng hồ trên tường nơi phòng ngủ Chuẩn Tướng, lúc đó đã 3 giờ sáng ngày 30-4-75. Tôi đã thấm mệt nhưng vẫn cố nhướng mắt chịu đựng. Giờ nầy giá như có Trung Uý Phúc thì đỡ biết mấy. Phúc khoẻ mạnh, tháo vát, giỏi giang, nhưng giờ nầy Phúc đang ở Sài Gòn. Trước đó vài ngày, nhân cơ hội Đại Tá Nguyễn Đình Vinh trình mượn trực thăng Chuẩn Tướng về Sài Gòn đón gia đình đang chuẩn bị sẵn, rồi quay trở lại Cần Thơ ngay, Phúc trình Chuẩn Tướng xin tháp tùng cùng lý do, nhưng trở lại bằng đường bộ ngày hôm sau, vì Phúc chưa kịp thông báo cùng gia đình. Cũng đêm hôm đó, Cộng quân tấn công và cố cắt đứt quốc lộ Long An với Sài Gòn, trận chiến  đấu dằng dai nhiều ngày, đường bộ chưa khai thông được.

Bảy giờ ba mươi sáng ngày 30-4, tại phòng họp Bộ Tư Lệnh, như thường lệ, Phòng 3 thuyết trình về tình hình trong đêm trước hai vị Tướng cùng các quan chức. Lần nầy có vẻ nghiêm trọng hơn. Ngoài lực lượng Hải quân vùng 4 Duyên Hải di tản, lên tàu còn có Chuẩn Tướng Tham Mưu Trưởng; Đại Tá Chánh sở Tài chánh số 5, thiếu tá Đức chánh văn phòng tư lệnh QĐ, đại tá Diệp, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh (Cần Thơ). Sau năm 1975, có bài viết phát hành tại Hoa Kỳ, kể lại chuyến đi riêng của ông vào chiều 30-04; tuy nhiên ông đã rời BCH/TK từ ban sang. Vào giữa tháng 4/75 chính phủ đã ra thông tư ban hành quyết định đối với những quan chức “tự ý vắng mặt tại nhiệm sở. Do đó trong buổi họp sáng 30-04, thiếu tướng Nam đã tuyên bố những đơn vị trưởng vắng mặt không lý do đều là bỏ nhiệm sở”. Đại tá Diệp đã không có mặt tại buổi họp theo lệnh triệu tập của BTL và BCH/TK cũng không báo cáo được tình hình của ông.

Tám giờ ba mươi sau buổi họp, có thiếu tá Trịnh Đức Phương hiện đang cư trú tại Mỹ tháp tùng Chuẩn Tướng Hưng đưa Đại Tá Thiên đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Phong Dinh tạm thời đảm trách chức vụ Tiểu Khu Trưởng.

Chín giờ ba mươi, hai vị Tướng lãnh Quân đoàn gặp nhau trong phòng làm việc của Tư Lệnh Phó. Chuẩn Tướng bảo tôi gọi để ông nói chuyện với Chuẩn Tướng Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 đang chỉ huy giải toả quốc lộ Long An, kêu ông khẩn trương dùng trực thăng bay về Bộ Tổng Tham Mưu để biết rõ tình hình thực tại. Tướng Lạc trên đường bay không bắt liên lạc được với không phận Sài Gòn nên phải quay về. Chuẩn Tướng lệnh cho tôi gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để ông gặp Chuẩn Tướng Thọ, Trưởng Phòng 3. Tôi lạnh người khi nghe tiếng người tuỳ phái cho biết:
-Bộ Tổng Tham Mưu hiện không còn ai, Tướng lãnh và các sĩ quan cao cấp đang ở tại cơ quan MACV của Hoa Kỳ từ hôm qua (tức 29-4).

Tôi hiểu liền các vị ấy có mặt nơi đó để làm gì. Sau vị Nguyên thủ quốc gia, Bộ Tổng Tham Mưu cũng đã lặng lẽ đóng cửa, và như vậy, có nghĩa riêng QĐ IV phải tự định liệu lấy! Buông ống điện thoại xuống, tôi đứng ỳ tại chỗ, một cảm giác tê cứng chạy dọc thân thể: “Đất nước đã thật sự mất rồi ư?”

Tôi bước vào phòng trình hai vị Tướng, tôi thấy mắt Chuẩn Tướng hơi chùng xuống, rồi Ông gật gật đầu tỏ ý không cần thêm gì nữa. Tôi bước ra ngoài, người nhân viên văn phòng trao chiếc radio nhỏ cho biết Đài Phát Thanh Sài Gòn thông báo dân chúng chờ đón nghe thông điệp khẩn của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi trở vào trình Chuẩn Tướng. Lúc nầy Thiếu Tướng Nam đã trở qua văn phòng Ông, Chuẩn Tướng vội vã rời phòng bước xuống bậc thềm hướng về toà nhà Tư Lệnh. Mười lăm phút sau, tôi ghi vội nội dung lời phát biểu cuối cùng của Tổng Thống Minh, rồi bước ra ngoài định sang trình cùng hai vị Tướng. Đúng lúc đó Chuẩn Tướng đang bước xuống bậc tam cấp, tôi trao tờ giấy, vừa nói vắn tắt với Ông:
-Tổng Thống Minh đã đầu hàng...

Chuẩn Tướng nhanh nhẹn đẩy cửa vào Phòng Tư Lệnh.

Rồi mười lăm phút sau, Chuẩn Tướng trở lại văn phòng mình và bảo tôi gọi để nói chuyện cùng 16 Tiểu Khu Trưởng. Đó là kể từ giờ phút nầy, ban hành lệnh “Thiết quân luật” trên toàn lãnh thổ Quân Đòan IV. Các đơn vị dừng quân và bố trí tại chỗ chờ lệnh Quân Đoàn, nếu chúng nó “bung” thì làm lại liền! Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng gọi cho 3 vị Tư Lệnh Sư Đoàn 7, 9 và 21 để ban truyền lệnh trên.

Mặc dù nhận rõ thông điệp của Tổng Thống Minh, nhưng hai vị Tướng lãnh trách nhiệm sinh tử Vùng IV lúc nầy muốn ngăn trở những hổn loạn có thể xảy ra trong bối cảnh tối tăm nầy. Chính vậy, mà giờ phút nầy, Chuẩn Tướng vẫn liên lạc cùng Tướng Tần, Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân, hỏi ông về việc sử dụng đến bom CPU.

Tôi không rõ kết quả cuộc thảo luận của hai vị Tướng về việc nầy, nhưng một tiếng đồng hồ sau đó, sau khi rời phòng họp, Chuẩn Tướng Tần cùng các sĩ quan của ông đã lên các phi cơ rời căn cứ nối gót lực lượng Hải Quân.

Giờ phút đó, tôi đang giúp Chuẩn Tướng điều chỉnh lại bộ dây ba chạc trên người ông. Chuẩn Tướng đang tư thế đối đầu tại chiến tuyến. Cửa phòng chợt mở, có ba, bốn Đại Tá tất bật kéo nhau vào phòng. Các vị nầy ở trong bảy Đại Tá được Thiếu Tướng Tư Lệnh đề cử vào chức vụ Phụ Tá Tư Lệnh Phó đặc trách về Bình Định Xây Dựng, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân...Thấy điệu dạng họ như vậy, Chuẩn Tướng cười mỉm:
-Các ông làm gì vậy, tôi còn đây mà!

Thì ra các vị đến để yêu cầu Chuẩn Tướng trình Tư Lệnh xin để họ đảm nhiệm chức vụ Trung Đoàn Trưởng lấp vào chỗ các ông đã tự ý rời nhiệm. Thông thường, các Trung Đoàn đều được cấp trực thăng C & C sử dụng trong ngày. Tôi được biết Đại Tá Bùi Huy Sảnh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 33 cũng vừa rời bỏ chức, không rõ ông có di tản được không?

Khi ban hành lệnh thiết quân luật, Vùng IV có vẻ đang chuẩn bị đối phó với tình hình hơn là chấp nhận treo cờ rũ. Ngay khi hay tin Sài Gòn thất thủ, chợ búa, hàng quán, dân chúng Cần Thơ mua vội bán vội cố thu xếp nhanh chóng trở về nhà. Khuôn mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố giống như đang trốn chạy cơn mưa giông lớn.

Sau bức thông điệp đọc trên đài phát thanh của Tổng Thống Minh, mọi liên lạc viễn thông với Sài Gòn đều bị cắt đứt, chúng tôi không biết gì về tình hình thủ đô. Tuy vậy, cho đến trưa-gần mười hai giờ-tình hình Cần Thơ cũng như mười sáu tỉnh miền Tây vẫn yên tĩnh. Chưa có một nhóm Cộng quân nào vào các thị xã, các tiểu khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.

Buổi cơm trưa thật là lạnh lẽo. Tôi không thấy đói, nuốt vội qua loa, rồi để nguyên binh phục kể cả giày, ngả lưng trên giường, tôi biết rằng kể từ giờ phút nầy biến cố sẽ xảy ra bất kỳ lúc nào. Buổi sáng tôi đã tự ý gọi Đại Đội Trưởng Tổng Hành Dinh yêu cầu đổ đầy xăng chiếc Jeep Tư Lệnh Phó, xe tôi, xe Falcon Custom mang số ẩn tế dùng cho gia đình Chuẩn Tướng. Cho đến giờ phút này tôi chưa hề được Chuẩn Tướng ra lệnh lạc nào cả.

Mười ba giờ, chúng tôi trở vào Bộ Tư Lệnh cách tư dinh Tư Lệnh Phó chừng 300 mét. Tôi thấy xe Falcon đen cũng đưa bà Chuẩn Tướng cùng hai con rời cổng dinh nhưng rẻ trái, chạy ngược hướng chúng tôi. Tôi hơi ngạc nhiên và lo lắng, vào đến văn phòng tôi gọi về tư dinh để biết cho rõ xem Bà đi đâu. Có tiếng ồn ào phía phòng 2 Quân Đoàn, tôi bước vào hành lang để ra phía sau cho rõ sự tình. Mắt tôi chạm phải một núi giấy tờ đang được đốt cháy. Có lẽ nhân viên phòng 2 đang thiêu huỷ các hồ sơ quan trọng. Tôi không rõ Đại Tá Bình, Trưởng Phòng 2 có còn hiện diện, và việc thiêu huỷ giấy tờ nầy là do lệnh của ai? Ngay giờ phút nầy tôi cũng không rõ các trưởng phòng có còn đầy đủ hay không? Chuẩn Tướng cũng không gọi đến một vị nào cả, ngay cả Trung Tá Tòng, Trưởng Phòng 3. Tôi tự hỏi trong tình huống nầy, hai vị Tướng lãnh có còn chỉ huy cấp dưới được nữa hay không…

Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt, nghẹt thở.

Mười bốn giờ ba mươi Chuẩn Tướng trở về lại tư dinh. Ông bước lên bực thềm nhưng không bước vào như mọi ngày, mà đứng nơi hiên tiền đình nhìn mông lung ra khoảng sân phía trước. Tôi đứng bên trái Chuẩn Tướng, cách vài bước hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo Ông. Mới vào mùa hè mà cảnh vật như đã thu, đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàng phượng vĩ hoa nở đỏ ối giữa sân. Hình ảnh của Chuẩn Tướng bất động trước mặt, tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u buồn, tan tác. Bất chợt, Ông quay lại hỏi tôi:
- Cô đi đâu?
- Thưa Cô đến nhà thờ xin lễ rửa tội.

Tôi đang lúng túng sợ Chuẩn Tướng hỏi tiếp nhà thờ ở đâu thì cửa cổng dinh mở toang, chiếc Falcon trườn vào sân. Tôi thở ra nhẹ nhõm.

Thật sự mấy ngày nay tôi cảm thấy có chuyện hơi kỳ lạ ở trong dinh: Tình hình nguy ngập như vậy, mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho Bà Chuẩn Tướng cùng thân quyến. Bây giờ Bà và các con lại đi xin lễ. Tôi không bao giờ ngờ được Ông Bà Chuẩn Tướng đã âm thầm cùng bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn gia đình,và bà Chuẩn Tướng cũng đã dọn mình bằng chính cung cách riêng của bà. Chính Bà muốn khi từ giã cõi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa và bước vào áo quan bằng  bộ đồ mới tinh trong trắng. Chỉ đến giờ phút cuối khi thấy hai con ngây dại, Chuẩn Tướng mới thay đổi ý và năn nỉ Bà hãy ở lại đùm bọc hai con.

Buổi sáng, ngay sau khi bản thông điệp của Tổng Thống Dương Văn Minh vừa dứt, bà Chuẩn Tướng gọi điện thoại sang văn phòng tôi bảo tìm cho Bà càng nhiều càng tốt thuốc valium 5mg. Bà vốn bị bệnh mất ngủ đã lâu năm nên việc Bà cần loại thuốc nầy không có gì đặc biệt đối với tôi. Nhưng khi tôi gọi Trung Tá Lưu, Liên Đoàn Trưởng 74 Quân Y, ông khuyên tôi đừng nên can dự vào việc này để sau nầy lương tâm khỏi day dứt. Không nghe theo lời khuyên của ông, rốt cuộc tôi cũng xuống trạm xá Quân Đoàn và người sĩ quan trợ y đã dốc hết số thuốc còn lại trên trăm viên đưa tôi. Buổi trưa về tư dinh, tôi trao số thuốc đó cho Bà và Bà đón nhận rất điềm nhiên. Sau đó Bà đến nhà thờ xin Cha rửa tội.

Gương mặt Chuẩn Tướng thoáng chút mừng rỡ khi thấy vợ con về đến dinh an toàn. Ông bước đến bên xe đón Bà, trao đổi vài lời rồi lên xe trở lại Bộ Tư Lệnh.

Đã ba giờ chiều. Tôi được biết có cuộc hẹn gặp gỡ thảo luận về tình hình tiếp thu giữa BTL/QĐ IV và đại diện của phía Cộng quân vào giờ nầy. Mọi sự sẽ diễn ra tại văn phòng Tư Lệnh. Tôi không rõ ngoài hai vị Tướng còn có những ai khác, phía Cộng quân bao nhiêu người và ai sẽ thảo ra bản văn để đôi bên cùng đồng ý ký kết.

Bốn giờ chiều Chuẩn Tướng rời Bộ Tư Lệnh và đây cũng là giờ phút hiện diện cuối cùng của ông tại bản doanh nầy. Xe chúng tôi vừa ra khỏi cổng chánh, Chuẩn Tướng đã ra hiệu dừng lại và bước xuống xe tỏ ý muốn biết sự gì xảy ra phía trước. Bên kia đường đối diện vòng đai và cổng chánh Bộ Tư Lệnh có rất nhiều thanh niên. Kẻ quần tây, người quần đùi, ở trần đang nối đuôi thành hàng dài phóng chân rảo nhanh. Tôi ra hiệu cho người quân cảnh sang bên đường đón chận hỏi một người trong số họ. Thì ra những thanh niên nầy thoát ra từ trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ đã bỏ ngõ. Giờ phút nầy có lẽ không gì thần tiên bằng là họ đang được trở lại nhà. Hèn gì họ vừa chạy vừa biểu lộ vẻ vui mừng rối rít. Nhìn cảnh tượng trước mắt, tự dưng tôi thấy dâng lên trong lòng nỗi cô độc, trống vắng làm sao. Hình như giờ phút nầy chỉ còn mỗi xe Jeep chúng tôi độc hành trên con đường cũ mà bây giờ đang dài lê thê. Đến góc ngả tư nơi tiếp giao giữa Bộ Tư Lệnh với dinh Tư Lệnh Phó và dinh Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh, Chuẩn Tướng ra hiệu ngừng xe. Ông bước xuống nhìn bao quát có vẻ như đang sắp xếp một thế trận.

Tôi nhìn ra bốn phía lộ và nhận ra vẻ trống vắng rờn rợn. Lác đác vài xe gắn máy, xe thồ, người đi xe đạp đang hối hả gò lưng. Cả một góc phố im ỉm, thoi thóp khiến tôi liên tưởng đến những đoạn phim có cảnh tương tự mà tôi đã xem thời còn đi học: Les Sept Mercenaires, O.K Coral....Bổng từ phía chân cầu Nhị Kiều xuất hiện một chiếc xe Jeep lao nhanh về phía chúng tôi rồi ngừng lại cạnh xe Chuẩn Tướng. Người ngồi trên xe là Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tân Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Ông là một trong vài vị Tư Lệnh được Tổng Thống Thiệu ra sắc lệnh thăng cấp trước khi lên phi cơ rời khỏi Việt Nam. Trên xe bây giờ chỉ còn một mình Ông và người tài xế. Chuẩn Tướng Trường bước xuống xe trình cùng Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn điều gì tôi không nghe được, nhưng với vẻ hấp tấp và gương mặt đầy lo âu cộng với tình hình trước mắt, tôi đoán có lẽ Bộ Tư Lệnh của ông hiện đã tan rã. Chuẩn Tướng bảo Chuẩn Tướng Trường theo Ông về dinh.

Tại phòng khách, hai vị Tướng cùng ngồi trên ghế canapé. Với giọng cứng cỏi, quả quyết, Ông nói cùng Chuẩn  Tướng Trường rằng giờ nầy ông chỉ huy, và bảo Chuẩn Tướng Trường cùng Trung Tá Thành, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh đến đóng bản doanh tại dinh Tiểu Khu Trưởng. Chuẩn Tướng bảo Trung Tá Thành lệnh cho 2 chi đoàn thiết vận xa M.113 đang ở vùng quận lỵ Bình Minh lập tức quay về Cần Thơ và cho người đến tận bến bắc lệnh cho toán chuyển vận phải túc trực ưu tiên cho đoàn thiết vận xa vượt sông. Nói xong, Chuẩn Tướng đứng lên bước vào phòng rửa mặt. Chuẩn Tướng Trường cũng vội vã ra xe để đến dinh Tiểu Khu Trưởng. Lúc trở ra, Chuẩn Tướng cũng đến ngồi tại ghế tràng kỹ.

Đèn phòng vừa bật sáng, tôi giật mình ngó qua khung cửa sổ, bóng tối đã nhợt nhờ ngoài sân. Phía cuối phòng, Bà Chuẩn Tướng và gia đình đã ngồi vào bàn ăn có vẻ như an bình của một bửa cơm tối như mọi ngày. Một người lính phục dịch đặt trên bàn tiếp khách chỗ ngồi Chuẩn Tướng một cái dĩa, muỗng và hai quả trứng gà ngâm trong ly nước sôi. Đó là buổi ăn tối của Ông hôm nay.

Tôi đứng cạnh bàn viết đặt sát cửa sổ phòng khách, cách chỗ ngồi Chuẩn Tướng hơn 1 mét. Trên bàn có 2 máy điện thoại: một tự động và một qua tổng đài viên, tối nay tôi tăng cường thêm 1 PRC 25 mở tần số của BTL/SĐ 21 và Thiết Đoàn 9 để tiện việc liên lạc, theo dõi. Hình như hệ thống truyền tin của Bộ Tư Lệnh đã ngưng hoạt động từ 5 giờ chiều, vì từ giờ phút trên, tôi gọi không có tiếng người tổng đài viên trả lời, còn điện thoại tự động giống như bị cắt. Lúc nầy, Thiếu tá Trịnh Đức Phương bước vào và đến đứng phía sau chỗ ngồi Chuẩn Tướng. Cả ba chúng tôi im lặng hồi hộp nhìn về phía màn hình TV đặt sát đầu tủ cạnh bàn ăn. Đã bảy giờ tối, màn hình TV vẫn sáng im ỉm.

Phái đoàn hai bên rời Bộ Tư Lệnh/QĐ đã gần 2 giờ đồng hồ, và khoảnh khắc nầy là giờ qui định phát thanh. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu thêm, có tiếng nói vọng ra từ TV tự xưng là phát ngôn viên của BTL/QĐ và đọc bản văn thông báo “Bộ Tư Lệnh đã đầu hàng, các đơn vị phải buông trao vũ khí”. Bản văn vắn tắt nhưng thật rõ ràng, đầy đủ. Gấp rút đến đỗi TV lúc nầy cũng trở thành đài phát thanh. Nghe đọc bản văn như vậy, tất cả chúng tôi, những người hiểu rõ về nội dung bản văn chung đều chết điếng: Bản văn được hai bên ký kết đã bị tráo đổi!

Lập tức Chuẩn Tướng bảo tôi chuyển máy PRC 25 đến chỗ ông ngồi. Đích thân ông cầm ống liên hợp gọi “Hổ Cáp” (danh hiệu Trung Tá Thành trong đặc lệnh truyền tin) bảo ông dùng M 113 lái đến dinh để đi cùng Chuẩn Tướng đến đài phát thanh. Nghe đến đó, tôi vội lùi một bước về phía cửa lớn để ra hiệu cho Trung Sĩ Sao (cận vệ) chuẩn bị sẳn sàng di chuyển. Tôi bước về chỗ cũ vừa kịp nghe lời đáp của Trung Tá Thành vang lên trên loa khuếch đại, lời lẽ vẫn còn mang vẻ lễ độ của một cấp thừa hành, nhưng rõ ràng đó là lời chối từ thi hành mệnh lệnh. Thật ra khó mà đóan chắc có lực lượng đáng kể nào của Cộng quân đã có mặt ở thị xã hay Bộ Tư Lệnh hay chưa, nhưng với văn bản vừa phát ra, chắc sẽ hung hiểm vô cùng nếu tự nhiên xuất hiện một chiến xa rầm rộ di chuyển trong đường phố lúc nầy. Tôi tin rằng Chuẩn Tướng thừa hiểu rõ điều đó. Trong cảnh biến động nầy, tuy lòng có lo âu và hãi sợ nhưng nhìn thấy đức tính gan dạ, bất khuất của Ông-như một dũng tướng tới bước đường cùng vẫn tả xung hữu đột-tôi khâm phục Ông xiết bao. Với một tinh thần tự nhận trách nhiệm tối cao, hai vị Tướng Lãnh muốn được bảo đảm sự an toàn tốt nhất, cũng như lo lắng cho sinh mệnh những binh sĩ khi họ không còn được quyền cầm vũ khí trong tay nữa. Sau bản thông điệp của Tổng Thống Dương Văn Minh, có ai biết được chắc chắn về số phận của những đơn vị trước đó đang trực tiếp giao tranh ác liệt cùng các lực lượng Cộng quân, và rồi bỗng dưng họ phải buông súng trong cơn hận thù còn sôi sục của đối phương?

Đang miên man, tôi giựt mình khi điện thoại trên bàn chỗ tôi đứng reo vang. Nhấc ống nghe lên tôi vội chuyển liền cho Chuẩn Tướng khi nhận ra giọng trầm trầm của Thiếu Tướng Tư Lệnh đầu bên kia. Có lẽ Thiếu Tướng hỏi Chuẩn Tướng về bản văn đọc vừa rồi. Tôi nghe Chuẩn Tướng trình bày là mọi việc đã giao cho Đại Tá Sáu, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn, đại diện cùng đi với phe Cộng quân. Nhưng vì sao bản văn chung bị tráo và tình trạng Đại Tá Sáu ra sao duy nhứt chỉ một mình Đại Tá Sáu biết rõ mà thôi. Đặc biệt tôi không nghe Chuẩn Tướng báo với Thiếu Tướng Nam về việc Ông tính đến đài phát thanh. Cuộc điện đàm giữa hai vị Tướng lãnh kết thúc. Buông ống điện thoại xuống, Chuẩn Tướng thừ người bất động. Lần đầu tiên, tôi nhận rõ nét mệt mỏi tuyệt vọng trên gương mặt ông. Chỗ dựa cuối cùng đối với đơn vị và những đàn em thân tín ông từng chỉ huy giờ đã bật gốc! Trong một cử chỉ buông xuôi, Chuẩn Tướng đưa hai tay về phía trước và với giọng nói oai mãnh, bất khuất, ông đã quất về phía tôi và Thiếu Tá Phương một tràng lanh lảnh, đanh thép khiến tôi rụng rời, vì biết sắp phải xa Ông, vị Tướng tôi luôn quí kính. Tôi cúi đầu lặng thinh, cả một khoảnh khắc chơi vơi để ba chúng tôi mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

Chuẩn Tướng đứng lên bảo tôi tập hợp toán lính gác để Ông nói chuyện. Tiểu Đội bảo vệ tư dinh Tư Lệnh Phó do người Thượng Sĩ trưởng toán sắp xếp thành hai hàng bên hông dinh chỗ khúc sân lối ra vào. Bằng một giọng nói cảm động, chân tình, Chuẩn Tướng cám ơn họ vẫn ở bên Ông đến giờ phút nầy, và bảo anh em ai muốn rời dinh cứ tuỳ ý...Bỗng có tiếng người lính gác trên cao báo động có xe Cộng quân đến. Lập tức Chuẩn Tướng chạy vào trong nhà, tôi hô toán cận vệ vào vị trí rồi xách máy PRC 25 chạy theo Ông lên lầu. Chuẩn Tướng vào phòng ngủ rồi trở ra với khẩu XM 18 trên tay, chạy ra bao lơn nằm xuống nhìn ra phía đường. Lúc nầy tôi mới nhận ra đường phố tối đen. Điện toàn bộ thị xã tắt ngúm. Như vậy điện hiện có trong dinh là do đường dây từ máy phát điện của BTL/QĐ. Trong bóng đêm u uất đó, hai vệt sáng rực phát ra từ hai đèn pha chiếc xe Jeep vừa rời cổng dinh Tiểu Khu Trưởng, quét thẳng về phía chúng tôi trông thật ghê rợn. Nhưng ra đến ngả tư, ánh đèn lại rẻ trái theo đại lộ Hoà Bình hướng về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Họ không đến chỗ chúng tôi. Chuẩn Tướng đứng lui trở về phòng, tôi cầm ống liên hợp PRC 25 gọi danh hiệu của Chuẩn Tướng Trường và Trung Tá Thành. Tôi gọi hai ba lần đều không có tiếng đáp lại. Có vẻ như hệ thống máy đã ngưng. Chắc chắn phải có biến cố bên dinh Tiểu Khu Trưởng nơi Chuẩn Tướng Trường và Trung Tá Thành đến đóng bản doanh hồi chiều. Dinh Tư Lệnh Phó và Tiểu Khu Trưởng chỉ cách nhau hơn 300m, nếu có tiếng súng nổ chúng tôi phải nghe được, nhưng sự việc máy không lực không còn túc trực chứng tỏ tình trạng Chuẩn Tướng Trường rất bi quan, có thể ông và Trung Tá Thành đã bị bắt. Và như vậy tình hình trong dinh chúng tôi rất nguy ngập, không rõ địch sẽ xuất hiện lúc nào? Có lẽ Chuẩn Tướng nhận rõ được thì giờ đang rất cấp bách. Ông bước đến đẩy cửa vào phòng Bà và đây chính là giờ phút Ông thuyết phục Bà cần phải sống. Hai cháu bé lúc đó đang vô tư đùa giỡn cùng nhau trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch lối ra bao lơn. Tôi trở xuống nhà để tìm gặp dặn dò toán gác. Thật ra tìm họ cũng là tự trấn an tôi.

Mười phút sau Chuẩn Tướng gọi tôi lên lầu gặp Ông. Tại đây, tôi thấy ngoài tôi và Thiếu Tá Phương, còn hiện diện  đông đủ những binh sĩ đã từng phục dịch Chuẩn Tướng cùng gia đình rất lâu năm. Chuẩn Tướng đứng nơi phòng ngủ, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái ba tuổi để cho đầu cháu tựa vào má Ông. Bà Chuẩn Tướng đứng cạnh bên. Hai bàn tay măng non cháu bé hồn nhiên lùa trên tóc cha, làm lòa xòa vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn Tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến lòng tôi ngậm ngùi tê cứng. Bằng giọng nói tha thiết ân cần, Chuẩn Tướng gởi lại Bà cùng hai con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho đến sáng sẽ không có gì xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống Bà Chuẩn Tướng và hai đứa bé về Sài Gòn rạng sáng ngày mai 01-05. Đó là lời uỷ thác cuối cùng của Ông. Dù đã từng xông pha bao nhiêu trận mạc, nhưng trong giờ phút tử biệt cùng người thân, Chuẩn Tướng cũng không nén được nỗi uất nghẹn trong lời nói. Ông lấy lại trầm tĩnh thật nhanh, quát bảo tất cả trở xuống dưới nhà, chỉ còn mình tôi và Bà Chuẩn Tướng ở lại. Để rồi giây phút vĩnh quyết đã đến...

Lúc đó đã quá chín giờ đêm 30-4. Chúng tôi xúm quanh giường ngủ giúp bà Chuẩn Tướng lau rửa thân thể, thay y phục cho Chuẩn Tướng. Lúc đỡ lưng Ông lên, mọi người lại đau lòng rấm rứt khóc khi thấy vẫn còn máu tươi rỉ ra chỗ viên đạn thoát ra khỏi thân thể Ông. Tôi còn nhớ lúc Ông đã đảm nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 21, có một buổi chiều sau giờ nghỉ việc, tôi theo Ông thả bộ và dừng lại nơi nhà nghỉ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh. Không biết đang suy nghĩ gì, Ông cười cười quay lại nói với tôi: “Mày còn nhớ không, lúc ở Trung đoàn tuy ở bất kỳ vùng hành quân nào, trước khi đi ngủ, Đồng hoặc mày đều gọi về Chương Thiện để tao nói chuyện với cô. Ở mặt trận An Lộc cũng vậy, tối nào tao cũng gọi về Lai Khê nói chuyện với cổ” Chuẩn Tướng nói thêm: “Lúc đó tao chợt nghĩ nếu tao bắn vào đầu chắc cô không dám nhìn mặt, nên tao đã quyết ý có gì thì bắn vào tim”

Chuông điện thoại lại reo lên. Tôi lật đật mời bà Chuẩn Tướng đối đáp khi nhận ra giọng của Thiếu tướng Tư Lệnh. Bà Chuẩn Tướng sụt sùi báo tin Chuẩn Tướng đã ra đi...Cuối cùng bà nghẹn ngào cảm ơn Tư Lệnh đã gọi đến và thăm hỏi an ủi ...Để rồi tám tiếng đồng hồ sau, vào lúc 5h30 sáng ngày 01-05, hai vị Tướng cao cấp nhất lãnh thổ vùng IV đều đã gặp nhau ở bên kia thế giới. Chuông điện thoại lại thúc lên inh ỏi. Nhấc ống nghe lên tôi giật mình khi nhận ra tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện. Giọng ông thật khẩn cấp cần được nói chuyện cùng Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó. Tôi quyết định thật nhanh trong trí là sẽ không cho Đại Tá Cẩn biết Chuẩn Tướng đã tự sát. Hệ thống điện thoại hoặc đã bị ngắt, hoặc do đơn vị truyền tin nầy đã bỏ nhiệm sở từ chiều, không lý gì giờ nầy lại tái lập. Sau nầy, khi hồi tưởng lại tôi mới thấy mình thật ngu khờ, chỉ vì muốn bảo vệ thi hài Chuẩn Tướng mà tôi đã nói dối với Đại Tá là Chuẩn Tướng đang bận chỉ huy các đơn vị nên không thể rời máy được. Lúc ấy tôi nghĩ chỉ có cách đó mới ngăn được Đại Tá Cẩn thôi đòi gặp Chuẩn Tướng. Đồng thời tôi còn trả lời cùng ông rằng lệnh của Quân Đoàn do Chuẩn Tướng truyền đi hồi sáng vẫn không có gì thay đổi, khi Đại Tá hỏi đến điều nầy. Hậu quả là Đại Tá Cẩn cho  Tiểu Khu của mình tử thủ, để rồi ông bị bắt, sau đó đưa về Cần Thơ và Cộng sản đã đưa Đại Tá ra xử bắn trước đám đông dân chúng. Trong lúc chỉ huy chiến đấu Đại Tá đã bị kềm chế từ sau lưng do chính thuộc hạ của mình. Tôi tin rằng chính vì vậy Ông đã không kịp thực hiện điều mà Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó đã làm, khi tiểu khu Chương Thiện của ông thất thủ. Ông vốn là Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 9 tăng viện chiến trường An Lộc mùa hè 72, được vinh thăng Đại Tá và trở thành Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Chương Thiện sau đó.
......
Tôi bước trở lại phòng Chuẩn Tướng và nhìn thấy thân hình Ông ngời sáng trong bộ lễ phục với đầy đủ quân hàm trên hai cầu vai, cùng dây biểu chương, huy chương…Bà Chuẩn Tướng đang xếp gấp tư lá cờ vàng ba sọc đỏ và lần tay mở nút áo đặt lá cờ ngay ngắn chỗ phần ngực Ông. Xong xuôi bà ngước lên nói với tôi rằng Bà mong muốn lễ tang Chuẩn Tướng sẽ được tổ chức đúng lễ nghi quân cách. Tôi gật đầu im lặng. Trong bối cảnh nầy, tôi thấy mình cần phải hết sức giúp đỡ Bà, còn việc thành, bại thì tùy thuộc vào số phận rủi may.

Trời đã khuya, chỉ còn gần nửa tiếng nữa là đã sang 0 giờ ngày hôm sau. Thân nhân Chuẩn Tướng bên cạnh Ông. Có lẽ cũng không ai nhắm mắt được trong đêm nay. Tôi đến cầu thang trở xuống nhà dưới, theo cửa sau vòng ra sân, với đầu óc trĩu nặng lo nghĩ: “Khi hay tin Chuẩn Tướng tuẫn tiết như vậy, liệu Cộng Sản có chấp nhận để yên cho mai táng Ông hay không? Hay là đêm nay tìm nơi nghỉ cho Ông chính tại khuôn viên dinh nầy?” Tôi lắc đầu bỏ ý nghĩ đó, và dừng lại chỗ cuối sân, nhìn ra phía cổng sắt. Đêm đen ghê rợn phủ trùm vạn vật. Trời tối đến nỗi tôi không nhận ra cánh cửa cổng, còn vọng gác im sửng trên cao đen thui thủi không biết có còn ai gác hay không? Sự im lặng chết chóc khiến tôi hoảng sợ đứng ỳ tại chỗ, không dám nhích tới. Tôi có cảm giác đang bị bao vây, rình rập, dòm ngó từng động tác. Tôi trở gót theo cửa sau bước lên phòng khách nhìn quanh quẩn. Nơi đây cũng tối om, chỉ có chút ánh sáng của ngọn đèn trên lầu hắt xuống cầu thang cho tôi nhìn rõ nhà dưới trống vắng không còn người lính phục dịch nào ở đó. Tôi quyết định nằm nghỉ nơi đây. Đêm nay nếu có sự kiện gì xảy ra từ phía ngoài vào, tôi sẽ là người hay biết và đón nhận trước tiên. Trong bóng đêm cô tịch, tôi ngồi hồi tưởng lại những việc vừa xảy ra. Tất cả nhanh chóng kết thúc tưởng chừng như giấc chiêm bao! Sự đời như bọt nước bèo mây, tụ rồi tan, mới hạnh phúc đó đã tan vỡ, mới cười vui đó đã ôm nhau khóc! Lòng tôi bổng chơi vơi rung động nhớ lại lời nói ôn nhu của Trung Tá Nghiêm, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chánh Tri Sư Đoàn 21 khi ông giới thiệu một pháp môn tu thiền cho tôi vào những ngày cuối năm 73 tại văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn ở Chương Thiện. Sự thôi thúc dâng lên kỳ lạ, tôi xúc động ngồi lại ngay ngắn chắp hai tay trước ngực, thành khẩn hướng đến Đức Thầy Lương Sĩ Hằng xin Ngài thâu nhận tôi là môn sinh. Từ đó đến nay đã 24 năm trôi đi, không ngờ tôi vẫn tiếp tục đeo đuổi nỗi đam mê với môn tu tập nầy. Tôi tin chắc chính nhờ sự ổn định được tâm trí đã có thể giúp tôi viết lại bản anh hùng ca nầy một cách tuần tự, rõ ràng, nhớ rõ như mọi chuyện mới vừa xảy ra.
Sau đó tôi nằm xuống và tạm quên được mọi việc trong giấc ngủ. Lúc tôi trở giấc, trời vẫn còn tối, lòng tôi lại nặng trĩu khi đối diện với thực tại. Tôi bước ra sau về phòng mình.

Tôi trở lên lầu vào phòng Chuẩn Tướng, gặp Thiếu Tá Thuyên, Phụ Tá Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn, đang đứng cạnh giường Chuẩn Tướng thút thít khóc. Anh vừa mới đến. Như vậy nguồn tin về Chuẩn Tướng trong đêm đã lan truyền ra ngoài. Sự tao ngộ cũng thật vội vàng, ngắn ngủi. Anh rời dinh liền sau đó, lúc trời vẫn còn mờ tối. Đó là vị sĩ quan duy nhứt của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã đến nghiêng chào trước thi hài Chuẩn Tướng. Tôi bàn định cùng bà Chuẩn Tướng lo thu xếp những gì cần thiết mang đi, đề phòng trước nếu bị buộc phải rời dinh. Trong lòng tôi lúc đó đang nghĩ đến người bạn chí thân hồi cùng ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 31-Trung Uý Nguyễn Vĩnh Thành. Mấy năm nay Thành đã thuyên chuyển về Sở Hành Chánh Tài Chánh số 5 và cùng gia đình đang ở Cần Thơ, nhờ vậy chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Hiện tại chắc chắn tôi phải nhờ đến Thành rất nhiều. Trong lúc chờ đợi sáng, tôi bàn cùng Thiếu Tá Phương là anh đảm trách phần việc tại dinh, còn tôi ra ngoài tìm Thành và mua quan tài. Lúc đó gia đình Chuẩn Tướng còn ở trên lầu. Khi tôi tiến đến cổng chuẩn bị ra ngoài, tôi sững sờ khi thấy thái độ của mọi người. Trong ánh mắt của họ, tôi đọc được nỗi hoang mang, nghi ngại: dường như tất cả lo sợ rồi đây tôi sẽ không trở lại!

Tôi hé mở cánh cổng để vừa đủ đi qua, mắt tôi nhìn thấy Đại Tá C. một trong những Phụ Tá của Tư Lệnh Phó đang đứng nơi công viên Hoà Bình nhìn về phía cổng ra vào. Khi thấy tôi đã nhận ra ông, Đại Tá lật đật rảo bước đi mất, may mà tôi chưa kịp gọi ông! Tôi vòng bên trái dinh, theo đường tắt đến nhà Thành. Trên đường đi, tôi mừng rở khi thấy Đại Tá Vinh đang hàn huyên cùng với ba, bốn người tại trước cổng Bộ Tư Lệnh/Đặc Nhiệm 4 của ông (Chức vụ cùng danh xưng có tính cách điều hành nội bộ của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV do Thiếu Tướng Tư Lệnh đề ra nhằm giải quyết số sĩ quan cao cấp “ối động” tại BTL) Tôi thầm ngợi khen ông trông vẫn tỉnh táo và trẻ trung trong bộ áo quần thường dân. Trong buổi sáng hôm nay, không ai bảo ai, tất cả chúng tôi đều hoà nhập vào lớp thường dân. Gặp được Đại Tá, tôi đặt thẳng vấn đề Chuẩn Tướng đã chết và Bà Chuẩn Tướng muốn chôn ông đúng theo quân cách, xin Đại Tá với tư cách một sĩ quan cao cấp đến gặp họ (Cộng Sản) để nói giúp. Khi Đại Tá Vinh đoan quyết đó là trách nhiệm của ông trong lúc nầy, tôi có cảm giác mình vừa giải quyết được một gánh nặng to lớn.

Đến nhà cha mẹ vợ của Trung Uý Thành, tôi thật sự cảm động khi thấy mọi người trong gia đình đều ùa ra đón tôi. Tất cả đã biết tin Chuẩn Tướng mất nên rất lo cho số phận của tôi. Tôi kể sơ Chuẩn Tướng chết như thế nào, Ông dặn dò ra sao và tôi đang rất cần được giúp đỡ. May mắn là nhà vợ Thành có khoảng sân khá rộng, tôi xin được gởi chiếc Falcon và chiếc Jeep sơn xanh mang biển số ẩn tế dân sự. Trong cơn nguy kịch, tôi không biết làm sao hơn khi đã mang một bản án đến cho gia đình Thành. Rất may là những ngày sau đó, khi chúng tôi đã rời Cần Thơ, gia đình Thành vẫn yên ổn, không bị tố giác. Viết lại những dòng nầy, tôi muốn nói rằng tôi vẫn luôn ghi nhớ mãi tấm lòng của cả hai bên gia đình Trung Uý Thành đối với gia đình Chuẩn Tướng.

Tôi cùng Thành lên chiếc Vespa của anh đi đặt mua chiếc quan tài rồi trở lại Sở của anh. Do ý kiến Thành, tôi định tìm gặp Trung Tá Bia, Phụ Tá Chánh Sở Hành Chánh Tài Chánh số 5 để nhờ ông chỉ dẫn và giúp lo việc tẩn liệm Chuẩn Tướng. Ông hiện thay cho vị Đại Tá Chánh Sở đã vắng mặt, đang chờ đợi người của Cộng Sản đến để bàn giao. Trung Tá Bia hứa là ông sẽ đến dinh liền sau khi xong nhiệm vụ  ở đây và căn dặn tôi chuẩn bị những thứ cần thiết cho việc tẩn liệm. Tôi cùng Thành hướng xe về phía chợ. Khác với ngày 30-4, buổi sáng hôm nay là ngày 1-5, thị xã Cần Thơ thật ồn ào, rộn rịp. Gần như nhà nhà đều có người đổ xô ra đường. Có những con lộ nghẹt cứng, dân chúng đi bộ tràn ra cả lòng đường, chúng tôi phải xuống xe dẫn bộ, len lỏi tìm lối vượt qua. Tôi chợt nhìn thấy Trung Uý Việt, Tuỳ Viên Tư Lệnh đang đứng trong sân nhà của Trung Uý Minh, sĩ quan Quân Sử Bộ Tư Lệnh, tôi lật đật kéo Thành tấp vào. Gặp Việt, tôi hỏi ngay về tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tin Thiếu Tướng Nam tự sát tôi đã nghe vào buổi sáng trước khi rời dinh, nhờ một hạ sĩ quan văn phòng báo cho biết khi anh đến trao cho tôi tờ giấy ghi tên họ tôi đã “đăng ký trình diện”. Trung Úy Việt xác nhận với tôi điều đó. Anh cho biết xe cấp cứu Quân Y Viện Phan Thanh Giản do anh và Trung Uý Danh gọi, đã đến và mang Tư Lệnh về Quân Y Viện trong tình trạng Thiếu Tướng hấp hối. Việt kể lúc đó vào khoảng 5 giờ sáng, Thiếu Tướng đang ở dưới hầm, Ông tìm cách cho hai tuỳ viên lên nhà, rồi dùng Colt cá nhân tự sát ngay khi còn một mình. Tôi không tiện hỏi han thêm vì còn quá nhiều việc để làm. Xe chúng tôi chạy ngang qua nhà Thiếu Tá Q. Trưởng Phòng 1 Sư Đoàn 21, tôi nhìn thấy Thiếu Tá ngồi nơi bàn đặt ở ngoài sân đang hí hoáy ghi, một số người đang đứng vây quanh ông. Tôi vỗ vai nói Thành chạy chậm lại để kịp đọc được dòng chữ ghi trên tấm bảng đặt sát bàn viết “Nơi đăng ký trình diện Nguỵ quân”. Tôi ngờ ngợ, phải chăng Thiếu Tá Q. là do Cộng Sản đã cài đặt vào từ trước?

Ra đến khu chợ, tôi ghi nhận một điều là hầu hết các tiệm ăn đều chật cứng thực khách. Lúc đó tôi cảm thấy đói và nhớ ra từ đêm qua mình chưa có thứ gì vào bụng. Tôi cùng Thành ngồi để ăn sáng. Tiếng cười nói trao đổi giữa các thực khách vang lên ỏm tỏi, có hai người ngồi cùng bàn với chúng tôi nói với nhau: “Ăn cho đã! Ngày mai biết còn xài tiền được nữa không?”

Tôi để Thành nơi quán, một mình đi sâu vào chợ. Mắt tôi choáng ngộp trước toàn màu đỏ bày bán khắp nơi. Dân chúng nơi đây quả đã sớm “hội nhập” với hoàn cảnh mới! Tôi mua các thứ trà, đèn cầy, nhang, vải liệm...rồi cùng Thành phóng nhanh về dinh. Quan tài đã được đem đến và đặt trên hai giá gổ chính giữa nhà. Tôi hơi phập phồng khi thấy có hai cán binh Cộng sản miền Nam đang ở trên vọng gác. Họ không đả động gì tới bên trong dinh, hình như họ chỉ được lệnh ở trên đó mà thôi. Có lẽ cũng yên tâm phần nào, Bà Chuẩn tướng nói với tôi và anh Phương rằng Bà dự định quàng đám tang trong ba ngày. Tôi thấy cổ áo quan khá sơ sài, khiêm tốn. Tôi bàn Thành đến Quân Y Viện Phan Thanh Giản tìm xin một bộ ny lông. Tôi cũng muốn nhân dịp nầy để biết đích xác tình trạng của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Xe chúng tôi tới trước cổng Quân Y Viện, lác đác còn vài thương binh đang khập khễnh cùng thân nhân hối hả ra cổng. Những người nầy có lẽ vì thân nhân ở xa nên mới vừa đến kịp để đón họ. Khi vào trong sân tôi thấy nơi đây im lìm, trống vắng, y sĩ, nhân viên lẫn thương binh đều đã rời Viện tự bao giờ. Duy nhứt có một người đàn ông trạc tuổi tôi còn đang đứng trong sân cạnh chiếc xe gắn máy của anh. Tôi thầm hy vọng gặp đúng nhân vật có vai trò như Trung Tá Bia. Tôi liền đến gần và đánh bạo bộc bạch cùng anh mục đích việc tôi đến đây. Rất may tôi gặp đúng người. Anh trao cho tôi một bộ ny lông giấu nơi yên xe, kèm lời nói: “Thật may quá anh, chỉ còn một bộ duy nhứt. Từ sáng tới giờ tôi đã phát hết”
Tôi hỏi thêm:
-Thiếu Tướng Nam nằm ở đâu?

Anh chỉ phòng lựa thương cách đó chừng 30m và dặn dò tôi coi chừng, vì đã có “chúng nó”. Tôi cẩn thận nhìn quanh một lượt. Khi thấy chỉ có 3 chúng tôi, tôi cảm ơn anh lần nữa rồi lên xe bảo Thành chạy đến đậu sát bậc thềm căn phòng, xong ngồi trên xe chờ trong lúc tôi vào bên trong. Vừa bước đến cửa phòng, mắt tôi đã chạm phải một thi thể được phủ kín bằng tấm drap trắng chỉ ló ra ngoài chỗ bàn  chân vẫn còn mang đôi giày da quân đội. Thi hài để nằm trên chiếc băng ca đặt trên đầu hai cái giá sắt cao gần 1m. Một chiếc bàn nhỏ đặt trước đầu băng ca, trên có một lon nhôm đựng cát dùng thay bát hương, một hộp quẹt diêm và một thẻ nhang nhỏ đã bốc ra. Trong phòng vắng ngắt. Tôi đoán chắc đây là thi thể của Thiếu Tướng Tư Lệnh. Tôi bùi ngùi mục kích nỗi cô độc của Ông. Tôi bước tới đưa tay kéo nhẹ tấm vải phủ trên đầu để được nhìn thấy gương mặt Thiếu Tướng hiền từ như người đang ngủ. Một vết đạn khoét từ thái dương trái trổ một đường kính cỡ trái chanh nơi thái dương phải, vết máu đã thẩm đen chạy dài từ đó xuống gò má, đến cổ và đọng lại trên bâu áo làm lem lấm “hai ngôi sao” thêu màu đen. Toàn bộ quân phục tác chiến vẫn ôm kín trên người Thiếu Tướng. Tôi đốt một nén hương cắm trên lon cát đã có ba chân nhang của ai đó đã đến từ trước. Tôi kéo tấm vải phủ lại như cũ, rồi lặng lẽ rời Quân Y Viện, trong lòng nặng nề, mệt mõi như một người bệnh. Giờ phút cấp bách nầy tôi không thể làm gì hơn được cho vị Tướng Tư Lệnh quí kính. Nhưng tôi hy vọng quí vị quân y sĩ của bệnh viện sẽ không bỏ mặc Ông. Tôi trở về dinh để chờ đón Trung Tá Bia. Hai mươi  phút sau ông ấy  xuất hiện.

Sau lớp vải là đến chiếc túi ny lông ôm chặt thi thể Chuẩn Tướng. Chúng tôi đưa thi hài xuống nhà dưới. Trung Tá Bia bảo tôi nâng giữ phần đầu. Lễ tẩn liệm đơn sơ nhanh chóng do Trung Tá Bia chỉ dẫn cho tất cả mọi người trong dinh thực hiện. Tôi đứng ở đầu quan tài lặng nhìn Trung Tá Bia điều khiển mấy người lính trong dinh làm động tác cuối, từ từ đậy nắp áo quan. Bổng có tiếng la lớn uất nghẹn:
-Trời ơi...Ông “thầy” ơi!

Rồi bóng một người lao đến bên quan tài, cả người anh xúc động gần như quị xuống. Tôi nhận ra đó là Thiếu Tá Lành, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/33. Tiểu Đoàn của anh sáng nay cũng tuân lệnh giải giao vũ khí, cởi bỏ quân phục tại chỗ, từ trong vùng hành quân lội bộ ra lộ, ai nấy tự tìm phương tiện về nhà. Thiếu Tá Lành được tin cái chết của Tướng Hưng nên tìm đến tư dinh. Anh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, sau khi rời quân trường về Tiểu Đoàn 2/31 cuối năm 1968. Do đã từng phục vụ dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Hưng, thuở đó là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31, nên anh vẫn nhớ và kính vị “Thầy” của mình. Đúng lúc đó Phúc xuất hiện. Anh cùng vợ con đáp xe đò từ Sài Gòn xuống tới. Mọi việc xong xuôi, Trung Tá Bia từ giã chúng tôi để về nhà vì từ đêm qua 30-4, ông vẫn ở trong Sở theo lệnh cắm trại ban hành từ hơn một tuần nay của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Một người lính vào nói nhỏ cho tôi biết những gì anh nghe được, một nguồn tin rất bất lợi cho chúng tôi. Do vậy, tôi, Phúc và anh Phương thuyết phục Bà Tướng nên an táng ngay cho Ông và rời dinh càng sớm càng tốt. Chúng tôi phân chia nhau: Phúc cùng vài nhân viên đến khu đất nhà ở Cái Răng lo đào huyệt. Phần tôi lo xe tang. Thành đưa tôi đến Hội Mai Táng Từ Thiện của các chủ xe đò Cần Thơ. Rất may cho chúng tôi là người đại diện của Hiệp Hội ưng thuận cung ứng cho dù biết đó là đám tang của Chuẩn Tướng. Ông bảo là còn phải lo cho một đám tang khác lúc 3 giờ chiều, vậy chúng tôi cần phải chuẩn bị sẵn sàng, lúc xe tang đến là di chuyển liền. Từ lúc đó cho đến khi xe tang xuất hiện, chúng tôi lo thu xếp mọi thứ đem theo để khi rời dinh sẽ không trở lại nữa. Riêng phần gia đình Chuẩn Tướng, buổi sáng sớm sau khi gặp Thành tôi đã trở về hướng dẫn xe Falcon và xe Jeep dân sự đến gởi ở nhà bên vợ Thành với số hành lý chứa trong cóp xe. Giờ phút trôi qua chậm chạp trong nỗi lo lắng chờ đợi của tôi. Đến 4 giờ chiều, tôi bắt đầu sốt ruột, bức rứt không yên. Những mảng nắng chiều vàng vọt còn cố níu lại trên đỉnh hàng sao cao ngất. Đúng lúc tôi đang bối rối với chút mỏng manh hy vọng, bỗng có tiếng ồn ào, rồi hai cánh cổng dinh mở toang. Chiếc xe tang sơn màu đen đưa phần đuôi trườn lui vào sân. Các nhân viên trên xe nhanh nhẩu nhảy xuống chạy vào nhà. Đã chuẩn bị sẵn, chúng tôi cùng họ đưa quan tài lên xe. Năm phút sau tất cả chúng tôi bắt đầu rời dinh. Anh Phương, Phúc và tôi cùng gia đình bà Tướng ngồi trên xe tang. Thành và những nhân viên khác dùng phương tiện riêng chạy theo sau. Lúc xe rời cổng lớn độ một đoạn, tôi nhìn lại thấy có nhiều người đang chạy ùa vào dinh. Vĩnh biệt tất cả! Vĩnh biệt cả con chó berger chúng tôi đau lòng phải bỏ lại...Xe quẹo ra đại lộ Hoà Bình để hướng về Cái Răng.

Tại huyệt mộ, một cậu bé trạc độ 14 tuổi, nhưng đôi tay thật thông thạo, nhịp nhàng, miệng vừa hô điều khiển lên xuống đòn tay, vừa rút dây khéo léo đưa quan tài êm thắm đến đáy huyệt. Họ nhanh chóng phụ giúp chúng tôi lấp đất và đắp vung lên thành hình ngôi mộ. Chúng tôi ngậm ngùi chào từ biệt Chuẩn Tướng, để lại mình Ông nằm đơn độc như cố Thiếu Tướng Nam mà tôi đã gặp vào buổi sáng.

Chúng tôi về đến Cần Thơ thì trời đã tối. Bà Chuẩn Tướng  cùng gia đình Thiếu Tá Phương, Phúc đến nương náu tại một ngôi chùa. Sau nầy chính các vị sư ở chùa nầy đã giúp xây mộ cho Chuẩn Tướng. Tôi về nhà Thành để trông coi hai chiếc xe. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 8 giờ sáng ngày mai, 2-5 để cùng về Sài Gòn. Tôi khẩn khoản yêu cầu Thượng Sĩ Nhất Triệu, tài xế xe Falcon cố gắng giúp đưa gia đình bà Chuẩn Tướng về đến Sài Gòn, một lần nầy nữa thôi! Buổi tối, tôi mở tất cả va li trong cóp xe ra kiểm soát lại. Tôi đem thiêu huỷ tất cả những hình ảnh binh bị của Chuẩn Tướng. Ban chiều tôi đã trình bày cùng Bà Chuẩn Tướng là không nên giữ lại những gì sẽ có hại cho gia đình Bà, vì trên đường về chưa biết bất trắc ra sao. Hơn 10 giờ đêm, tôi vào giường thao thức không ngủ được. Tôi nghĩ đến chuyện di chuyển ngày mai. Nếu vì bất cứ lý do gì, người tài xế vắng mặt, thì tôi phải đảm trách phần việc khó khăn nầy của anh. Tôi chỉ lái xe Jeep mà chưa từng lái chiếc xe tương đối cồng kềnh nầy, khó khăn nhứt là lúc lên xuống bến bắc. Chiếc Jeep giao cho gia đình Thiếu Tá Phương, và Trung Uý Phúc.

Buổi sáng ngày 2-5, tôi vô cùng mừng rỡ và cảm động khi thấy Thượng Sĩ Nhất Triệu xuất hiện. Như vậy không chỉ riêng chúng tôi mà người hạ sĩ quan già trong thời gian chờ giấy xuất ngũ vẫn tận tuỵ với Chuẩn Tướng đến giờ phút hiểm nguy nhất. Đêm qua, khi về đến nhà Thành, Trung Sĩ Nhất Sao, hạ sĩ quan cận vệ của Chuẩn Tướng mới bịn rịn từ giã tôi ra bến xe để về với gia đình chắc chắn đang rất trông chờ anh.

Không biết có còn dịp gặp lại nhau nữa không, tôi nghẹn ngào chia tay người bạn tâm đầu ý hợp và gia đình Trung Uý Thành rồi lên xe đến điểm hẹn. Xe tôi đi đầu, xe Phúc theo sau, bắt đầu xuống bắc Cần Thơ trực chỉ Sài Gòn. Chúng tôi cùng chung tâm trạng mong nhanh chóng rời khỏi nơi đây. Qua bên kia bờ, mới đi được vài cây số, xe tôi gặp một toán Cộng quân miền Nam đứng rải trên đường chặn lại xét hỏi. Nhờ vậy xe Phúc thoát qua lọt. Một phụ nữ có vẻ là Trưởng toán, cổ quàng khăn rằn biểu tượng cán binh miền Nam, vai mang chiếc radio nhỏ đang phát vang rền âm điệu một bài ca vọng cổ. Cô ta tiến đến bảo tôi mở cửa xe. Thấy chiếc va-li, họ lôi xuống bảo mở ra xem. Trong đó chỉ toàn là quần áo. Tôi mừng thầm là họ không khám phá ra chỗ cóp xe. Đến lượt cái bóp tay của bà Chuẩn Tướng, trong đó có một xấp tiền độ một trăm ngàn. Tôi choáng váng khi thấy cô ta lôi ra một xấp hình ảnh, chú mục từng tấm. Toàn là hình của Chuẩn Tướng mặc quân phục tại chiến trường. Có tấm còn chụp chung với cố vấn Hoa Kỳ nữa! Không kịp trấn tỉnh, tôi trả lời họ đây là vị Tướng đã chết rồi. Thế là họ ra lệnh bắt giữ bà Chuẩn Tướng và tôi với những tang vật đó. Trong lúc rộn ràng, tôi lấy cớ đến đóng cửa xe, rồi ra dấu bảo tài xế rồ máy chạy đi, mặc cho bà Chuẩn Tướng và tôi. Tôi hy vọng, khi không thấy xe tôi, Phúc sẽ ngừng xe lại chờ.

Chúng tôi bị đưa về Bộ Chỉ Huy quận Bình Minh hiện do Cộng sản chiếm giữ. Cùng chung số phận bị bắt còn có đôi nam nữ tuổi trạc 20-25 với lý do rất ngộ nghĩnh: họ mang theo người số tiền gần 40 ngàn mà không có...“đăng ký”. Tại Bộ Chỉ Huy quận, nữ cán binh áp giải chúng tôi đứng ra “Tố giác tội trạng” chúng tôi trước hơn chục dân chúng hiếu kỳ. Vốn bản chất chất phác của người miền Nam, họ chưa quen hình thức “đấu tố” nầy bao giờ nên chỉ trố mắt đứng nghe. Thao thao đã mồm, cô ta giao cả bốn chúng tôi cho một ông già, nói là cô đi dùng cơm trưa. Trong phòng bây giờ chỉ còn lại một nhân viên nầy. Tôi thầm khấn nguyện Chuẩn Tướng linh hiển độ trì cho chúng tôi sớm rời được nơi đây. Một lát sau, bổng dưng ông già trông giữ chúng tôi đem giao trả mọi thứ và cho chúng tôi đi. Có lẽ ông ta không phải là Cộng sản chính gốc. Chúng tôi lập tức lên xe thồ ra quốc lộ đón xe đò hướng về Vĩnh Long. Ngồi yên trên xe đò, tôi mới lần dò kiểm lại các thứ: Mặc dù số tiền có bị vơi đi, nhưng tôi vẫn chia lại cho đôi nam nữ số tiền họ bị mất trắng. Trước đó, tôi đã thầm ước nguyện có mất tiền cũng được miễn sao được tự do thì thôi.
....
Chúng tôi về đến Phú Lâm đã gặp Phúc đứng chờ. Xe Phúc đã chờ gặp xe Falcon và cùng nhau về đến Sài Gòn an toàn. Tuy vậy chiếc xe Jeep bị giữ lại và “Xung vào tài sản nhân dân” khi gần đến Mỹ Tho.

Rốt cuộc, tất cả chúng tôi cũng đã đến được Sài Gòn đông đủ. Ngày hôm sau 03-05, đến lượt xe Falcon cũng rời chúng tôi. Tôi không tiếc rẻ chi việc đó. Người tài xế thông báo xe đã bị giữ và nhắn lại lời từ giã để trở lại Cần Thơ trong lúc tôi vắng nhà.
Khi bà Chuẩn Tướng và  gia đình tạm có chỗ ở, thì cũng đúng lúc đó tôi phải đi vào “Trại cải tạo”. Buổi trưa ngày 26-6-1975, thời hạn cuối, tôi cùng em trai tôi, Trung Úy Huỳnh Quang Trung, Phòng 2 Tiểu Khu Kiên Giang thu xếp hành trang gọn nhẹ lên đường. 

Hùynh Quang Nghĩa