Monday, October 22, 2012

AN

Từ Trần Trịnh đến Trịnh Lâm Ngân

Tháng vừa qua có nhiều cái tang cho giới văn học nghệ thuật. Ðầu tiên là nam danh ca Andy Williams của Hoa Kỳ vào cuối Tháng Chín, rồi chúng ta mất nhà thơ bị cầm tù Nguyễn Chí Thiện và gần đây là nhạc sĩ Trần Trịnh.

Không là người chuyên viết “điếu tang”, người viết chỉ có vài ghi nhận về nhạc sĩ Trần Trịnh cùng một số ít tác giả khác của nền tân nhạc Việt Nam trước năm 1975.

Như nhiều lần Quỳnh Giao đã viết, cho đến nay tân nhạc Việt chỉ có khoảng 70 năm mà thôi.

Trong mấy chục năm của thuở ban đầu, các nhạc sĩ của chúng ta có nhiều khuynh hướng sáng tác và mỗi người một cá tính riêng. Nhưng rất hiếm thành phần soạn ra các tác phẩm nghệ thuật, loại nhạc kén người hòa âm, người hát và kén người thưởng ngoạn. Ðứng đầu nhóm là Dương Thiệu Tước, Vũ Thành, Nguyễn Văn Quỳ, một vài bài của Văn Cao (như Thiên Thai, hay Trương Chi) hay của Phạm Duy (như Chiều Về Trên Sông, Ðường Chiều Lá Rụng), Cung Tiến (trừ mấy bài đầu tay như Thu Vàng và Hoài Cảm). Trong số nhạc sĩ xuất hiện về sau thì có Lê Văn Khoa và Hoàng Quốc Bảo.

Họ sáng tác cho giới tri âm, có hiểu biết về âm nhạc và nhạc thuật. Họ không nhắm vào đa số nên dù ca khúc đạt cao điểm về nghệ thuật mà lại hiếm người thưởng thức vì ít người phổ biến.

Ngược với nhóm nhạc sĩ khó tính ấy, một số đông đảo các tác giả đã viết cho nhiều thành phần thính giả hơn. Nhạc của họ cũng giá trị về nghệ thuật, nhưng trình bày không quá khó, dễ nghe và được nhiều người biết hơn. Nếu kể từ ngày đầu thì chúng ta có tác phẩm của Văn Cao, Phạm Duy, Lê Thương, Nguyễn Xuân Khoát, Thẩm Oánh, Võ Ðức Thu, Phạm Ðình Chương Lương Ngọc Châu, Tô Vũ, Hoàng Giác, Hoàng Quý, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Thiện Tơ, Văn Chung, Ðặng Thế Phong, Hoàng Trọng. Sau 1954 chúng ta có Văn Phụng, Nhật Bằng, Nguyễn Hiền, Ðan Thọ, Xuân Lôi, Xuân Tiên, Châu Kỳ, Y Vân, Tuấn Khanh, Minh Kỳ, Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Anh Hoa, Thanh Bình, Anh Bằng, Hoàng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Trịnh, Nhật Ngân, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trần Thiện Thanh, Anh Việt Thu, Trầm Tử Thiêng và sau này là Ðức Huy, Trúc Hồ, v.v.

Người viết chỉ đơn cử thôi chứ không thể ghi hết ra đây, nên xin độc giả thứ lỗi nếu còn thiếu sót nhiều tên tuổi. Chỉ lưu ý độc giả là mình kể về những nhạc sĩ của miền Nam sau 1954 mà thôi.

Sau 1954, không khí sáng tác trong Nam mở ra nhiều chân trời mới, với các nhạc sĩ tham gia đông đảo và lại có phương tiện phổ biến rộng lớn hơn từ đài phát thanh. Ra khỏi thời “cải cách”, tân nhạc Việt Nam cũng hết thu vào thành phố mà lan tỏa khắp nơi nhờ làn sóng điện. Chúng ta khó quên được thời kỳ hưng phấn ấy, nó cũng trùng với nền Ðệ Nhất Cộng Hòa.

Nhưng chỉ mươi năm sau Genève 54, chiến tranh bùng nổ và một thế hệ khác lại lên đường bảo vệ miền Nam tự do. Nhiều thanh niên được động viên ra chiến trường và trong quân đội cũng có các nhà văn, nhạc sĩ. Ðã có người lính thì phải có em gái hậu phương. Rồi thôn quê thiếu an ninh khiến nhiều người rời tỉnh đi vào thành phố, họ đem theo tâm tư, cảm nghĩ và cả sự thưởng thức âm nhạc rất bình dân, có âm hưởng chân quê mà nhiều người trong thành phố cứ gọi là “Nhạc Sến”! Y như các đài phát thanh trước đó chục năm, phong trào sản xuất đĩa nhạc, băng nhạc cũng góp phần phổ biến các tác phẩm này trong quần chúng.

Bây giờ, mấy chục năm sau mà nghe lại, chúng ta vẫn thấy thương yêu gần gũi với loại nhạc ấy, và phải nói là còn ưa thích hơn những sáng tác thời nay!

Thực ra, nghệ sĩ nào cũng có thể muốn hai điều hơi trái ngược.

Là phải có tác phẩm cao sang về nghệ thuật mà cũng muốn có tác phẩm phổ thông cho đám đông và thành công về thương mại. Loại nhạc quá cao sang về nghệ thuật thường khó nuôi nổi tác giả nếu người nhạc sĩ không có một nghề khác. Loại nhạc kia thì đã từ làn sóng điện tràn ngập mọi khu phố cho mọi người cùng thưởng thức và được nhiều nghệ sĩ khai thác hơn. Nét chung của các ca khúc này là theo tiết điệu Boléro dễ nghe dễ hát, trên âm giai Thứ khá lâm ly ủ dột.

Có lẽ đứng đầu loại nhạc này là Trúc Phương. Anh nổi tiếng như cồn. Từ đầu sân đến cuối ngõ, radio và trẻ con đều hát theo “Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm...” Thấy sự thành công của loại nhạc này, nhiều nhạc sĩ cũng sáng tác theo. Trong đài phát thanh, đám nghệ sĩ chúng tôi không gọi là “Nhạc Sến” như giới thính giả mà gọi là nhạc thương mại vì sức bán của các ca khúc này.

Những nhạc sĩ như Mạnh Phát, Hoài Linh, Minh Kỳ, Tuấn Khanh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Dzũng Chinh, Anh Thy, Thanh Sơn, Châu Kỳ, v.v. đều có sáng tác đứng đầu danh mục bán chạy.

Tuy nhiên, dù viết loại nhạc phổ thông này để mà sống, các nhạc sĩ không “bỏ” loại sáng tác nghệ thuật kia. Khi viết “Biệt Kinh Kỳ”, Minh Kỳ vẫn có “Nha Trang” hay “Giòng Thời Gian”. Tuấn Khanh vẫn soạn “Chiếc Lá Cuối Cùng”, hay “Mộng Ðêm Xuân” cùng với bài “Quán Nửa Khuya”. Trần Thiện Thanh vẫn viết “Chân Trời Tím”, “Người Yêu Tôi Khóc” khi đã ăn khách với những ca khúc như “Rừng Lá Thấp” hay “Hoa Trinh Nữ”...

Riêng có hai nhạc sĩ lại phân thân, là soạn ca khúc nghệ thuật với tên tuổi chính và viết ca khúc thương mại với biệt hiệu mới! Ðó là Trần Trịnh và Nhật Ngân.

Trần Trịnh đã có những sáng tác bất hủ như “Lệ Ðá” hay “Những Nụ Gai Mòn”, với lời từ rất đẹp của nhà thơ Hà Huyền Chi. Anh cũng có bài “Tiếng Hát Nửa Vời” thật cao sang và thanh thoát.

Ở ngoài đời và trong nhà Nhật Ngân là cậu họ của người viết, theo cách gọi của người Mỹ là “second cousin” đấy. Cậu Ngân có những tuyệt tác như “Tôi Ðưa Em Sang Sông”, “Hai Màu Tóc Ðợi” hay “Ðêm Nay Ai Ðưa Em Về”, v.v. Thế rồi khi cùng làm việc trong Cục Tâm Lý Chiến, Trần Trịnh cùng Nhật Ngân ráp lại, người soạn nhạc, người viết lời, và người thứ ba là Lâm Ðệ làm công việc thu thanh và phát hành. Cả ba lấy tên chung là Trịnh Lâm Ngân.

Bộ ba này có những nhạc phẩm rất thành công, như Cảm Ơn, Mùa Xuân Của Mẹ, Mùa Phượng Tím, Người Tình và Quê Hương, Xuân Này Con Không Về, Yêu Một Mình, và nhất là “Qua Cơn Mê”...

Nhạc sĩ Nhật Ngân tạ thế vào Tháng Giêng năm nay. Chưa đầy một năm, đến lượt Trần Trịnh cũng giã từ chúng ta vào Tháng Mười. Một năm có quá nhiều mất mát...

Quỳnh Giao