Saturday, August 31, 2013

Warren & Peter Buffett

KHI CÓ CHA LÀ TỶ PHÚ....
 
 
Là con trai thứ hai của nhà tỷ phú huyền thoại Warren Buffett, nhưng nói tới Peter Andrew Buffett người ta nhớ tới ngay một nhạc sĩ kiêm nhà soạn nhạc nổi tiếng. Dấu ấn duy nhất nhà tỷ phú này khắc lên con đường trở thành người nổi tiếng của con mình chỉ là sự tin tưởng…(Hình phải : 2 cha con Buffett)

Năm 19 tuổi, Peter nhận được số tiền thừa kế… 90,000 Mỹ kim. Gần 100,000 đô, “not bad” nếu như bạn xuất thân trong một gia đình bình thường. Nhưng nếu có cha là tỷ phú có khối tài sản hàng chục tỷ đô thì bạn nghĩ sao?
 
Và đây là tài sản thừa kế duy nhất của anh em nhà Buffett nhận được từ người cha nổi tiếng của họ.
 
Số tiền $90.000 mà ông Warren cho họ là tiền bán một trang trại của gia đình, họ cũng chẳng được nhận tiền mặt. Tiền được đổi thành cổ phiếu của công ty Berkshire Hathaway mà tỷ phú Warren làm chủ tịch và Peter được cha trao cho kèm với lời dặn dò: “Hãy thận trọng với món quà này. Vì con sẽ không bao giờ nhận được thêm gì nữa”.
 
Và con của nhà Buffett quả là con nhà tông. Trong cuốn hồi ký mới của mình Life Is What You Make It, Peter giải thích rằng ông may mắn vì cha mình đã không để lại tài sản cho con cái một cách dễ dàng. Để trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng với giải thưởng Emmy, điều Peter cần là những hỗ trợ tinh thần chứ không phải tiền bạc.
 
Sau đó Peter đã bán cổ phiếu lại cho cha mình để lấy tiền mặt chi xài trong thời gian học tại Đại học Stanford và bắt đầu sự nghiệp sáng tác nhạc.
 
Để thành danh trong lĩnh vực nghệ thuật không phải chuyện một sớm một chiều và đòi hỏi sự đầu tư tiền bạc khá lớn. Vậy mà ngoài số tiền thừa kế, tỷ phú Warren đã nói thì như đinh đóng cột, nhất quyết không cho con thêm bất cứ thứ gì nữa, kể cả cổ phiếu trong công ty của ông.
 
Một lần khi 20 tuổi, Peter hỏi vay cha tiền nhưng bị từ chối. Điều này khiến anh thấy tổn thương và cha con họ không liên lạc với nhau một thời gian dài. Chỉ tới khi gặt hái được thành công, Peter mới hiểu rằng quyết định của cha lúc ấy là hoàn toàn đúng đắn. “Nếu tôi có một đống tiền từ cha tôi thì có lẽ cuộc sống của tôi đã không có ý nghĩa như ngày hôm nay. Tôi tin rằng những gì cha tôi làm xuất phát từ tình yêu thương. Ông đã từng nói với tôi rằng: Cha tin con vì con là con trai của cha. Con sẽ vẫn thành công mà không cần sự giúp đỡ của bất kỳ ai ”.
 
Cách dạy con của ông tỷ phú càng đáng nể hơn nếu biết $90.000 là tài sản thừa kế duy nhất mà Peter Buffett cũng như anh chị em của ông nhận được, nhưng bù lại, họ được cha trao cho khoảng 1 tỷ đô để làm từ thiện. Peter và vợ ông đã dành nhiều năm để nghĩ cách làm từ thiện sao cho hiệu quả nhất.
 
Cuối cùng, họ đã thành lập Novo Foundation - một tổ chức phi lợi nhuận dành cho phụ nữ và trẻ em trên toàn thế giới. Hai người con còn lại của tỷ phú Warren cũng có những đóng góp đáng kể trong hoạt động từ thiện. Howard Buffett thành lập tổ chức giúp đỡ những nông dân nghèo khó tại các quốc gia kém phát triển với mục tiêu tăng cường sản xuất lương thực ngăn ngừa nạn đói. Susie Buffett thì thành lập quỹ hỗ trợ hoạt động giáo dục cho trẻ em và thúc đẩy việc tuyên truyền phòng chống mang thai ở trẻ vị thành niên.
 
Warren Buffett là cổ đông lớn nhất, kiêm Chủ tịch Tập đoàn Berkshire Hathaway và đứng trong top 3 những người giàu nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Những gì các con ông đạt được cho thấy, điều ông dạy họ không phải là tiền bạc và cách kiếm tiền mà đơn giản chỉ là cách sống. Peter tin rằng mình đã được cha “đầu tư” đúng mực với cách giáo dục tốt nhất mà nhiều người ước ao. Ông hóm hỉnh: “Điều mà tôi ngưỡng mộ nhất ở cha tôi là sự tin cậy. Sự tin cậy là điều quan trọng nhất ”.
 
Warren rất ít khi nói chuyện với các con về chuyện làm ăn. Ông quan tâm tới những triết lý của cuộc sống, chẳng hạn như: “Các con không cần phải thử sức trên tất cả các lĩnh vực. Khi con đã sẵn sàng để đầu tư (ví dụ như nhà đầu tư cổ phiếu), con chỉ cần tưởng tượng nó giống một quả bóng tròn đang di chuyển từ từ”.
 
Đối với Warren, việc tìm cho các con một công việc ở Wall Street hay công ty Berkshire Hathaway của ông để duy trì đế chế của gia đình Buffett hoàn toàn đơn giản. Vậy mà ông lại chứng tỏ mình là một người cha tuyệt vời khi để các con trưởng thành theo cách riêng.
 
Peter Buffett nói rằng món quà lớn nhất có thể tặng cho cha là đi theo bước chân của ông, bằng cách tin tưởng vào chính mình. Năm 1977, khi Peter còn nhỏ, Berkshire Hathaway của Warren Buffett đã mua lại tờ The Buffalo Evening News bất chấp thực trạng ngành báo in đang điêu đứng, lượng phát hành và quảng cáo đã giảm nghiêm trọng. Giờ thì tờ báo này đã là The Buffalo News bề thế.
 
Đối với Warren Buffett thì những thứ cũ, lỗi thời cũng không làm ông lay chuyển lối sống. Peter vẫn đến thăm cha tại Omaha, Nebraska. Cha ông vẫn sống trong ngôi nhà mà Peter từng lớn lên, bất chấp sự giàu có vô biên của ông.

Cũng chính nhờ bài học lớn của người cha về niềm tin mà Peter Buffett (Hình phải) đã có những quyết định sáng suốt cho cuộc sống của mình. Sau khi soạn nhạc cho Dances with Wolves (Khiêu vũ với bầy sói), phim đoạt giải Oscar, ông nhận được khá nhiều lời mời từ các hãng phim của Hollywood. Họ sẵn lòng mời gia đình ông chuyển từ Milwaukee đến Los Angeles nếu ông muốn trở thành một nhà soạn nhạc phim lừng danh.

Peter từ chối, vì “Tôi đã nghĩ về cha mình. Tại sao cha tôi không chuyển đến New York, để gần Wall Street hơn? Khi xem lại cách thức cha tôi làm việc trong những năm qua, tôi nhận ra rằng không nên chọn một công việc nào đó chỉ bởi vì việc đó nhìn hấp dẫn hơn ”.
 
Giờ đây, các con của tỷ phú Warren Buffett hiểu rằng “nếu tin cha sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi mình gặp rắc rối về tài chính thì bất cứ thành công nào đạt được không còn giá trị nữa ”. Và đến bây giờ, mọi người đều biết rằng, những gì con cái nhà Warren có được chẳng hề liên quan đến sự giàu có của cha họ.
 
Phạm Hoàng
(Theo Yes Magazine, DNSG)

Friday, August 30, 2013

Lịch sử



Người Pháp đã nhận ra “toan tính” của Trung Quốc đối với Việt Nam từ năm 1909

Tại khu vực Biển Đông, Trung Quốc đang công khai các hoạt động vi phạm chủ quyền của Việt Nam, leo thang quân sự. Còn ở đất liền thì công dân Trung Quốc lại có các hoạt động làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hội của người Việt. Đây thực ra không phải là những hành động mới thực hiện mà trên thực tế, những toan tính này của Trung Quốc đã được người Pháp nhìn ra và đánh giá từ năm 1909.  (Chợ Lớn những năm 1900, Ảnh: lichsuvn.info)

Phan Châu Trinh Qua Những Tài Liệu Mới (Quyển I, Tập I)Songmoi.vn xin được trích một vài đoạn từ cuốn “Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới”. Quyển 1 tập 1. NXB Đà Nẵng – 2001. Cuốn sách này, như tên gọi của nó mục đích không phải giới thiệu những tư liệu của người Pháp nói về người Trung Hoa, mà nói về cụ Phan Châu Trinh. Tuy nhiên, trong phần Thăm Ấn Độ và Đông Dương của cuốn sách, Viện sĩ người Pháp De Brieux đã thể hiện rất rõ cách nhìn nhận và đánh giá của mình đối với người Trung Hoa trong mối quan hệ với người An Nam và cả khu vực Đông Dương.

Viện sĩ De Brieux đã có cách nhìn rất thực tế và bao quát:

Phải nghĩ và làm quen với ý nghĩ là dù chúng ta (người Pháp) có làm gì đi nữa cũng không thể mãi mãi giữ Đông Dương được.

Nếu chúng ta không trả cho người An nam thì có kẻ sẽ giành lấy.

 Và kẻ đó chính là nước Trung Hoa.

 Và ngày mà ở châu Âu chúng ta phải đương đầu với một cường quốc thì ngày đó người Trung Hoa sẽ nhẹ nhàng chiếm Đông Dương như người Ý năm 1870 đã chiếm lấy đất đai của Giáo hoàng. Nếu người Sài Gòn muốn chống lại thì với 100 nghìn người Trung Hoa ở chợ Lớn họ không cần súng ống cũng trị được. Ở đâu trên đất Đông Dương cũng vậy, cứ 1 người Pháp thì đã có 20 người Trung Hoa.

 Và ngay người An Nam, nếu ta không cảm hóa, họ cũng sẽ đưa tay ra đón những người Tàu mà họ gọi là “các chú”, mà quên mất những người đó đã là chủ cũ của nước này.

Nhưng Trung Quốc có cần xâm chiếm không? Đông Dương đã là của họ rồi. Chúng ta là chủ danh nghĩa, họ là chủ thật sự. Chúng ta đưa lính đến, họ đưa con buôn đến. Chúng ta mơ có thuộc địa để đến làm giàu, nhưng chính họ thực hiện giấc mơ đó. Chúng ta cai trị thuộc địa, họ khai thác nó.

 Ta coi người nông dân An nam là xa lạ, họ quen biết, họ nói cùng tiếng nói, họ dùng tiền mua thóc lúa non, lúa già, mua trả sòng phẳng. Họ biết tính để cho người nông dân đủ sống để cày cuốc làm ra thóc gạo.

 Thương nghiệp nằm trong tay họ. Họ tuồn thóc gạo cả xứ theo các kênh rạch về các hãng xay xát ở chợ Lớn và, bán gạo xong họ nhét tiền đầy túi, trở về xứ sở nằm nghỉ.

 Sức mua bán của dân tộc này thật kỳ quặc. Trong một làng nghèo đói không mua bán gì, có một người Tàu đến, nhận làm  thuê vất vả… Chỉ 2 năm sau, y có một cửa hàng nhỏ, cả làng đều vay mượn y. Và những người Tàu khác sẽ đến theo.

 Sự đoàn kết của họ ngoài sức tưởng tượng: trong cửa hàng, đến giờ ăn họ xúm lại quanh bàn, ở trần như nhau, không phân biệt chủ và người làm. Ăn xong là làm việc, kỷ luật ra trò. Họ biết chia nhau quyền lợi, không tranh chấp, đoàn kết chặt chẽ. Ví dụ ở Rangoom họ quyết định không để cho người Tàu kéo xe, thế là không có người Tàu kéo xe. Thợ Tàu đến được dùng vào làm việc khác.

 Họ không sợ khổ, không sợ chết. Họ chèo thuyền ra đánh cá trong lúc sóng to gió lớn…

Họ bất chấp toán học và vẫn tính toán đâu vào đấy. Họ thông minh và rất nhạy cảm với cái mới. Cái gì họ không mời nước ngoài đến làm là họ tính để tự làm. Quân lính họ sử dụng vũ khí thành thạo, hành quân cả sư đoàn…

 Làm sao ta có thể bảo vệ Bắc Kì khi họ cảm thấy bị chật chội hay buôn bán khó khăn và đưa một quân đoàn vượt qua Lạng Sơn? Suốt dọc biên giới chúng ta không có thành lũy pháo đài nào để chống trả cả.

 Với biển người của họ, ta làm sao chống được bằng mấy tiểu đoàn? Nếu có thủy quân họ sẽ vào thẳng Nam kỳ, qua Cap Saint Jacques có khó hơn chút ít thôi. Chúng ta không có phòng thủ gì hết trên sông Sài Gòn…

 Trong khi tính toán tất cả các vấn đề đó, chúng ta phải cố gắng đặt dấu ấn trên người An nam, càng sâu càng tốt để sẽ còn một cái gì đó của trí tuệ chúng ta tiếp tục được duy trì…”

 Sau một thế kỷ thăng trầm, những gì người Pháp đã viết vẫn làm cho chúng ta phải suy ngẫm. Phải chăng người Việt vẫn chưa biết cách rút kinh nghiệm từ lịch sử của chính mình!

 Sống Mới
@songmoi.vn 

 Đọc thêm :  yeuhannom  -      bshohai   -   tuoitre  -   thanhnien

Thursday, August 29, 2013

Coca Cola

Sau 127 năm, Coca Cola có gì thay đổi?
 
ATLANTA, GeorgiaCoca-Cola Company, trụ sở chính ở Atlanta, cam kết rằng loại nước giải khát nổi tiếng của họ giữ nguyên thành phần qua lịch sử 127 năm qua của mình.

Công thức của Coke, tên gọi chính thức có bản quyền từ 1941, lưu giữ trong một căn hầm
có hình vòm bằng thép được bảo vệ với đèn báo động đỏ và máy thu hình an ninh hoạt động thường trực để giữ bí mật tuyệt đối.Coca-Cola vẫn giữ vị trí hàng đầu trong các loại nước ngọt giải khát. (Hình: Scott Olson/Getty Images)

Nhưng một nhân viên bảo vệ tại nhà bảo tàng World of Coca-Cola này ở thành phố Atlanta, nhìn nhận rằng tất cả những thứ đó chỉ là kịch bản, để giúp cho ngành công nghiệp có doanh số bán  hàng tỷ dollars này giữ được danh tiếng trên thị trường thế giới. Mỗi năm có 1 triệu du khách đến thăm nhà bảo tàng này, tự do chụp hình kỷ niệm, và cũng chưa có trường hợp kẻ nào tìm cách xâm nhập đánh cắp bản công thức bí mật của Coke cả.

John Ruff, chủ tịch Institute of Food Technologists, tổ chức chuyên nghiên cứu về các món hàng ẩm thực, nói: “Cái công thức bí mật ấy chỉ là huyền thoại. Tôi sẽ phải hết sức kinh ngạc nếu thấy một hãng lớn nào không thay đổi công thức sản xuất theo từng thời kỳ.” Theo ông, sự thay đổi trong thành phần sản phẩm là chuyện phải làm vì nhiều nguyên nhân, từ nhu cầu phù hợp với những quy định mới cho đến giá cả các nguyên liệu và những lý do khác về quy trình sản xuất hàng loạt.

Ông Ruff nêu lên một loạt các trường hợp làm ví dụ. Twinkie, loại bánh thường ăn khi uống cà phê, quen thuộc với dân Mỹ từ nhiều năm, mới đây vắng mặt trên thị trường 9 tháng do công ty mẹ Hostess Brands phá sản, và nay hoạt động trở lại. Một đại diện của Hostess cho biết Twinkies bây giờ vẫn theo công thức cũ nhưng khác xa trước kia. Từ ngày thành lập năm 1930 đến một năm  trước đây, 25 thành tố trong bánh chỉ để lâu được 26 ngày, bây giờ có thể giữ được tới 45 ngày.

KFC (Kentucky Fried Chicken) với 18,000 tiệm ở 120 quốc gia trên thế giới do đại tá Harland Sanders sáng lập năm 1930 và phát triển nhanh nhờ áp dụng phương pháp tiếp thị khéo léo bền bỉ. Chủ nhân Sanders đã nhuộm trắng bộ râu của mình để tạo nên hình ảnh tiêu biểu. KFC đặt làm một chiếc két 770 pounds được bảo vệ chắc chắn và có máy kiểm soát an ninh canh giữ để chứa công thức bí truyền về món gà chiên. Qua thời gian khi KFC được bán cho người khác, phương pháp làm và ướp gà cũng thay đổi nhưng công ty vẫn khẳng định giữ công thức cũ.

Coca-Cola do dược sĩ John Pemberton sáng chế ở Columbus, Georgia, cuối thế kỷ 19. Thoạt đầu Pemberton làm một loại rượu chát mang tên Pemberton’s Wine Coca phỏng theo coca wine ở Âu Châu. Đến khi Atlanta và Fulton County có luật cấm rượu, ông tìm cách chế ra loại nước giải khát không có chất cồn, bắt đầu từ tháng 5 năm 1886. Lúc đó ở Hoa Kỳ, nước uống có hơi, carbonated water, được coi là tốt cho sức khỏe.

Pemberton quảng cáo sản phẩm Coca Cola có hiệu quả như một loại nước thuốc, elixir, chữa trị nhiều chứng bệnh. Hai năm sau, Pemberton hợp tác với những người khác trong việc kinh doanh sản phẩm, người con trai của ông không tích cực theo đuổi việc làm ăn nên Aga Candler, một trong những đối tác của ông, tới 1892 thành lập ra “The Coca-Cola Company,” công ty tồn tại đến ngày nay.

Công ty này đưa ra một huyền thoại là chỉ có 2 giám đốc biết công thức của sản phẩm, và mỗi người giữ một nửa công thức. Thật ra công ty có nỗ lực bảo vệ bí mật thật, nhưng nhiều người trong ban giám đốc biết cách chế tạo Coca-Cola.

Nguyên thủy, Coca-Cola là một loại nước ngọt giải khát trong đó 2 hoạt chất (ingredient) có tác dụng kích thích là cocaine và caffeine. Cocaine do từ lá coca và caffeine từ hạt kola, chữ ‘k’ được thay bằng chữ ‘c’ với mục đích tiếp thị đơn giản hơn.

Lúc đầu, hàm lượng cocaine khá cao khi dùng lá coca tươi. Từ 1904 Coca-Cola bắt đầu dùng lá đã chế biến và chỉ còn dấu vết cocaine không có tác dụng gì của chất ma túy này. Hiện nay Coca-Cola dùng lá coca do Tepan Company ở Maywood, New Jersey, công ty duy nhất ở Hoa Kỳ được chính quyền liên bang cho phép chế hóa lá coca mua từ Peru và Bolivia để  lấy chất cocaine ra làm nguyên liệu dược phẩm trong y khoa. Về caffeine, Coca-Cola được phép dùng nhưng phải ghi rõ hàm lượng trên nhãn hiệu sản phẩm và cũng càng ngày càng được giảm bớt.

Như vậy cocaine và caffeine không còn là vấn đề gì nữa. Tuy nhiên người ta cho rằng calories quá nhiều ảnh hưởng tới tình trạng mập phì nhất là ở trẻ nhỏ. Thành phố New York đã ban hành biện pháp cấm bán các chai nước ngọt, không chỉ riêng coca-cola, cỡ lớn, nhưng tòa án không chấp thuận lệnh cấm này.

Từ thập niên 1980, Coca-Cola cũng như hãng đối thủ quan trọng nhất, PepsiCo, không dùng đường mà thay thế bằng corn syrup làm chất ngọt. Gần đây hai công ty này cũng thay đổi cách pha màu dùng caramel để tránh luật mới ở California đòi hỏi phải ghi trên nhãn hiệu những chất có thể gây bệnh ung thư (carcinogens).

Tóm lại Coca-Cola, và nhiều sản phẩm khác của nó, đã thay đổi rất nhiều chứ không phải là hoàn toàn giống như 127 năm trước, năm 1888 khi mới ra đời. Từ hơn một thế kỷ, Coca-Cola đã là một biểu tượng của Hoa Kỳ trên thế giới và một phần trở thành phương tiện truyền bá văn hóa Mỹ. Các hãng được bản quyền của Coca-Cola ở hải ngoại nhận sản phẩm cô đặc để pha chế theo đúng công thức quy định rồi đóng chai hay lon bán ra thị trường địa phương.

Một đôi khi sản phẩm này cũng được nhập cảng trở lại vào Hoa Kỳ. Chẳng hạn do không thỏa thuận về giá cả, công ty Costco đã có lúc ngưng bán Coca-Cola, nhưng các chợ Costco ở Arizona và New Mexico tiếp tục bán với hàng nhập cảng từ Mexico.

Đối thủ đáng kể nhất của Coca-Cola là Pepsi, tại một vài thị trường, Pepsi được ưa chuộng vì ngọt hơn Coke. Tại Ấn Độ, doanh số của Coca-Cola chỉ đứng hạng ba sau Pepsi-Cola và hãng nước ngọt địa phương Thums Up và sau đó Coca-Cola mua Thums Up năm 1993. Ở Trung Đông Coca-Cola bị các nước Á Rập tẩy chay vì hoạt động tại Israel trong khi Pepsi-Cola không gặp sự ngăn cản ấy.

Trên bình diện quốc tế, Coca-Cola đứng hàng đầu về hoạt động tiếp thị, góp phần trong hầu hết các hoạt động thể thao và là bảo trợ viên thường trực trong hai sinh hoạt thể thao lớn nhất thế giới là Thế Vận Hội và FIFA World Cup.

Năm 1985, Coca-Cola đưa ra một sản phẩm mới mang tên New Coke nhưng sản phẩm này không thành công và sau đó Coca-Cola Classic vẫn là căn bản. Tới gần đây chữ classic được bỏ đi vì không còn New Coke nữa và những mặt hàng khác như có mùi chanh, cam, vanilla, raspberry, … ra đời nhưng Coca-Cola (classic) vẫn là chính ngoài Diet Coke. Một số những hãng khác như Big Cola ở Mexico hay RC Cola của Pepper Snapple Group dù có cạnh tranh nhưng chỉ chiếm được một thị phần rất nhỏ và Coca-Cola vẫn bảo vệ khá vũng chắc vị trí của mình.(HC)

Wednesday, August 28, 2013

Anh Phương Trần Văn Ngà

Từ Thành Ông Năm-Hóc Môn đến Sơn La...

Hơn 33 năm đối với đời người quả thật dài. Những vui buồn của ngày tháng cũ trong ký ức theo thời gian dài phải bị xóa nhoà, nhưng đối với những người chiến sĩ QLVNCH bị gác súng tức tưởi mà kẻ thù chụp cho cái mũ có nhiều “nợ máu với nhân dân và cách mạng,” chúng trả thù thật ác độc, hèn hạ, làm sao quên được?
 
Ban Quân Quản Sài Gòn ra lệnh gom hết những người có nhiều nợ máu vào đợt “học tập cải tạo” đầu tiên, sĩ quan cao cấp từ tá đến tướng. Bên chính quyền với những công chức đầu não cùng với các vị dân cử trong Quốc Hội, Hội Ðồng Tỉnh, các giới chức lãnh đạo các đảng phái chính trị và các tu sĩ có thành tích chống cộng... Sau đó chúng lùa hết quân cán chính VNCH vào rọ. Trại tù cải tạo được thiết lập trên khắp lãnh thổ từ miền cuối Việt Cà Mau đến tận vùng cực Bắc Lào Cai, Sơn La... và cả nước là một nhà tù khổng lồ. Ðây quả là một giai đoạn lịch sử bi thảm nhất trong hơn 4 ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.
 
Những ngày đầu vào tù
 
Theo thông báo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam từ ngày 30 tháng 4, 1975, những thành phần có nhiều nợ máu phải trình diện 3 ngày 13, 14, 15 tháng 6 năm 1975 (tôi có thể nhớ sai ngày dương lịch), nhưng, chắc chắn là trong 3 ngày trình diện đó có ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch năm Ất Mão, vợ chồng chúng tôi trình diện vào buổi chiều ngày này.
 
Cư ngụ ở quận 8 nên chúng tôi trình diện một lúc với các anh em khác cùng cấp bậc thiếu tá ở các quận 6, 7 (hình như có thêm quận 9 mới thành lập không lâu ở bên kia sông Sài Gòn-Thủ Thiêm) tại trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký ở đại lộ Cộng Hòa. Còn những quý vị khác tùy theo cấp chức trình diện ở các địa điểm khác, hầu hết là các trường học. Thông cáo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam nói rõ là chúng tôi phải mang theo tư trang và đóng đủ tiền ăn 1 tháng, khoảng trên 13 ngàn mấy trăm (bằng 1/3 lương của một thiếu tá. Sau đó, trình diện đi tù đợt 2: sĩ quan từ đại úy trở xuống đóng tiền ăn 10 ngày...)

Sĩ quan cấp thiếu tá trình diện ở trường Trung Học Pétrus Ký ít hơn các nơi khác, trên dưới 100 người, vì các quận 6, 7, 8... nằm ở ven đô-thủ đô Sài Gòn. Người nữ quân nhân duy nhất tại điểm tập trung này, Thiếu Tá Trần Thị Bích Nga, chỉ huy trưởng Trường Xã Hội Quân Ðội (trường nằm trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Ðô). Thật đúng là hoa lạc giữa rừng gươm tua tủa của hai phía ta và địch.

Ngày đầu tiên trình diện, chúng tôi được “cách mạng” cho thưởng thức cách trị bệnh thần sầu quỷ khốc, nằm dài trên ghế học trò, được nhỏ nước tỏi tươi nồng nặc vào hai lỗ mũi. Ngày sau, trước khi có “lệnh hành quân” chuyển đến trại tù chính, chúng tôi được nhà hàng sang trọng Ngọc Lan Ðình ở Chợ Lớn đưa bàn ghế tới, cứ 10 người một bàn như “nhập đại tiệc,” có đến 7 món ăn mà chúng ta thường gặp trong các tiệc cưới... Khi nhân viên nhà hàng thân quen Ngọc Lan Ðình đến “thết đãi,” tự dưng tôi chảy nước mắt vì tháng 2 năm 1962, khi tôi được các giáo sư và nhà trường Phước Kiến (266 ÐL. Khổng Tử, sau đổi tên là trường Phước Ðức, vụ Tết Mậu Thân, trực thăng xạ kích lầm nơi này làm chết và bị thương nhiều sĩ quan cấp tá) tổ chức một bữa tiệc linh đình để tiễn đưa tôi nhập ngũ khóa 13 Thủ Ðức tại nhà hàng Ngọc Lan Ðình. Lúc bấy giờ tôi là giám học trường trung học này [kể cả học sinh trung tiểu học có (3000 hay 5000 em?), học 2 thứ tiếng Việt và Tàu mà tôi làm giám học đặc trách về các môn học Việt ngữ, Tiến Sĩ Tăng Kim Ðông làm hiệu trưởng, sau TS Ðông làm tổng trưởng Giáo Dục thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc]. Tôi được TS Tăng Kim Ðông mời phát biểu lời từ giã, sau vài lời cám ơn giáo sư và nhà trường, tôi sực nhớ đến 4 câu thơ xưa của Tàu và lên giọng to:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
 
Tự nhiên tôi chảy nước mắt và khi đó có một giáo sư người Hoa rất quý mến tôi, anh cảm kích đọc lại bài thơ này bằng tiếng Hoa (Quan Thoại), cả thực khách đến mấy trăm người dự tiệc như lắng đọng, cảm kích chia sẻ với tôi “cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.” Ðó cũng là dấu ấn khó quên trong đời đi dạy học của tôi từ tiểu học đến trung học. Sau hơn 13 năm đi lính, nay cũng chính nhà hàng Ngọc Lan Ðình đãi tiễn chúng tôi vào một một ngày mai mờ mịt... nên tôi xúc động thật sự. Bài thơ tứ tuyệt ấy lại đến với tôi và câu cuối cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi, 13 năm trước cho đến ngày vào tù, tôi vẫn sống và thăng quan tiến chức. Tôi như thầy bói suy luận, biết đâu câu thơ này sẽ vận vào cuộc đời ở tù của tôi từ đây...
Trình diện “học tập cải tạo,” một danh xưng bịp của bọn CSBV mà chúng tôi tự ý đưa thân nạp mạng cho loài quỷ dữ, đúng ngày Tết Ðoan Ngọ, mồng 5 tháng 5 năm Ất Mão (1975).

Hai vợ chồng đèo trên 1 chiếc xe đạp, người tài xế trung thành của bà xã tôi, từ Hóc Môn đạp xe xuống để tiễn đưa. Khi chúng tôi mang ba lô vào cổng trường Pétrus Ký, chú Nhuận tên người tài xế thân thương trung thành đó, một tay lái xe, một tay cố kềm đưa chiếc xe đạp thứ hai về nhà. Chúng tôi ở khu lao động, dốc cẩu Chữ Y, đường Hưng Phú - đường đi đến lò heo Chánh Hưng, 4 đứa con nhỏ của chúng tôi, từ 3 đến 9 tuổi, được cha mẹ chúng để lại chiếc xe đạp làm phương tiện và là một tài sản sau cuộc đổi đời này.

Viết đến đây, ký ức của tôi bỗng nhiên như thấy cảnh tượng hoang mang, lo sợ, dao động của hơn 33 năm trước như hiện rõ.

Khi thủ đô Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, thời mạt vận của chánh thể VNCH đã ập đến nhanh quá. Nỗi nhục nhã ê chề của những người lính từng cầm súng chống quân xâm lược cộng sản Bắc Việt, nay đến thời điểm lâm vào cảnh cá chậu chim lồng. Tất cả chiến sĩ anh hùng của QLVNCH phải buông súng và sống trong cảnh phập phồng chờ đợi kẻ thù công bố chính sách đối xử với tù hàng binh mà CSBV rêu rao ra rã hàng ngày trên các hệ thống truyền thông suốt 2 tháng 5 và 6.1975. Sự phập phồng, lo âu như cảnh tượng quân Khơ Me đỏ sau những ngày tiến chiếm Thủ Ðô Pnom Penh (Nam Vang) nhốt và giết sạch kẻ thù của chúng. Ý nghĩ này đã xâm nhập vào tâm tư tình cảm của mọi người, một tương lai mờ mịt u buồn, thê lương tràn ngập trong suy tư của từng người từng gia đình mà gia đình chúng tôi cả hai vợ chồng đều là lính, bốn đứa con nhỏ dại sẽ nương tựa vào đâu để sống?

Thành Ông Năm - Liên Ðoàn 5 Công Binh Kiến Tạo
 
Một trăm thiếu tá trình diện ở trường Pétrus Ký, khi chuyển đến thành Ông Năm ở Hóc Môn (bản doanh của Liên Ðoàn 5 Công Binh Kiến Tạo) được chia thành 2 đội 34 và 35. Tôi ở đội 34, đội 35 có 5 y sĩ thiếu tá, bà Thiếu Tá Bích Nga nhập cùng với quý chị cấp tá khác ở đội nữ, cách đội 34, 35 chỉ một con đường và gần sát hàng rào kẽm gai. Hàng ngày, chúng tôi có thể trông thấy nhau dùng ánh mắt chia xẻ sự lo âu sâu xa về tương lai của 4 đứa con nhỏ dại...

Những ngày đầu, nhiều chuyện quan trọng đã xảy ra tại lán của đội 34 và 35 ở trại tù Thành Ông Năm-Hóc Môn:
Chuyện khó tin, nhưng có thật, một tên cán bộ y tá, mặt rỗ khá rõ đến lán đội 34 và 35, tập hợp 5 ông thiếu tá bác sĩ quân y, dẫn ra khỏi lán bảo đứng nghiêm, 5 ông là bậc thầy của chúng, nghe tên cán ngố này giảng về vệ sinh phòng bệnh... Hắn dẫn 5 ông bác sĩ tội nghiệp của chúng ta phải đi xem “thanh sát” các đường mương, nhà cầu, cách làm sạch các chỗ này. Chưa hết cán ngố còn chỉ bảo cách chửa bệnh nữa cơ làm 5 ông bác sĩ phe ta cứ ngẩng mặt mà nhìn chịu trận, nín thở qua sông. Về lán, anh Bác Sĩ Tôn Thất Thận (lớn tuổi nhất trong 5 ông BS) nằm gần tôi, kể lại cho chúng tôi nghe mà cùng nhau cười ngất.

Chuyện mà tôi cũng khó quên, anh Hoàng Xuân Ðịnh (hiện ở San Jose), thiếu tá Quân Cụ, anh em thúc bá với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên Tư Lệnh QÐ1& QK1, đứng ra nhận lãnh chức trưởng Ban Văn Nghệ của trại tù Thành Ông Năm (Liên Ðoàn 5 Công Binh Kiến Tạo do Ðại Tá Dương Công Liêm làm liên đoàn trưởng). Không biết ai giới thiệu với anh Ðịnh, chọn tôi vào ban văn nghệ, sung vào thành phần đóng kịch vì hát xướng, giọng vịt đực của tôi bù trất. Sở dĩ, tôi chấp nhận sự chọn lựa này vì hoàn cảnh bi đát của tôi, vợ chồng đều bị đi tù, ở gần nhau mà chẳng nói được lời nào với nhau. Tôi luôn bị ám ảnh tình cảnh 4 đứa con nhỏ dại làm sao mà sống với bà mẹ vợ già cả và thường bị nhiều thứ bệnh. Hơn nữa, trước khi đi tù, có tin, nhà đang ở của gia đình sẽ có một tiểu đội bộ đội CSBV “xin” được đến đóng chốt, làm sao mẹ vợ của tôi từ chối, các con chúng tôi sẽ chịu cảnh ở chật chội, mất tự do. Tôi cần phải làm cái gì để tạm quên sự lo âu dằn vặt đang ăn sâu vào tâm trí, tôi vào đội văn nghệ để giết thì giờ. Suýt chút nữa, ban văn nghệ của anh Hoàng Xuân Ðịnh được cách mạng “chiếu cố” cho vào cùm vì có vỡ hài kịch mà anh Ðịnh viết nói về những ngô nghê, ngu dốt của đám khỉ từ rừng mới về Sài Gòn hoa lệ làm cuộc đổi đời, dân chúng từ sung túc xuống bần cùng. Dù anh Ðịnh viết rất khéo, nhưng đến buổi phúc khảo, có người trong phe ta làm ăng-ten lập công (nghe anh em kể lại) phân tích tỉ mỉ cái ý nghĩa của vỡ hài kịch “trình” với cán bộ “răng đen mã tấu” ngu dốt “đì” chúng tôi. Nhưng, lúc đó cán bộ cộng sản còn “nới tay” vì mới chiếm Sài Gòn, lòng dân còn nhiều hoang mang và người “tù cải tạo” vừa đóng tiền nhập trại tù chưa lâu nên toán văn nghệ chúng tôi thoát hiểm “trong đường tơ kẽ tóc” chỉ bị cảnh cáo dằn mặt và đuổi về đội.

Chính đội 35 “nổi tiếng” vì có hai chiến sĩ can đảm anh hùng nhất của chúng ta lúc bấy giờ. Ai bị nhốt ở Thành Ông Năm thời điểm đó đều nghe danh 2 thiếu tá của QLVNCH là anh Quách Hồng Quang, cư ngụ ở vùng cầu Nhị Thiên Ðường, Tiểu Ðoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân ( tôi không nhớ rõ: TÐ 42 hay TÐ 44, có tên là Cọp Xám hay Cọp Ba Ðầu Rằn, 2 tiểu đoàn vang danh anh dũng của vùng đồng bằng sông Cửu Long-V4CT, cộng quân khiếp sợ). Người thứ hai là Thiếu tá Phạm Hữu Thịnh, đơn vi cuối thuộc Ban Liên Hợp 4 Bên ở Sài Gòn, anh gốc là An Ninh Quân Ðội, cư ngụ ở Dạ Nam Cầu Chữ Y. Cả hai chiến sĩ anh hùng của chúng ta đã can đảm “trốn trại” đầu tiên, tìm đường vượt thoát khỏi cảnh tù đày nhục nhã vào một đêm có gần nửa vành trăng trên bầu trời. Ðây là vụ trốn trại đầu tiên khi CSBV lùa quân cán chính VNCH vào rọ tù của chúng, có thể nói là vô tiền khoáng hậu mà tôi chứng kiến.

Tôi chơi rất thân với hai anh Quang, Thịnh, vốn tôi quen biết anh Quang từ miền Tây, lúc ấy tôi là sĩ quan báo chí của QÐ4 từng theo ông tướng tư lệnh QÐ4 đến thăm viếng đơn vị khi anh Quang còn là trung đội trưởng. Anh Thịnh ở phía bên kia cầu Chữ Y, gia đình tôi ở phía bên này cầu Chữ Y, cả hai anh đều nhỏ hơn tôi 5-6 tuổi và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Ðức sau tôi nhiều khóa. Hai anh thiếu tá trẻ này xem tôi là niên trưởng, năm 1975, tôi đã qua tuổi 40.

Trước khi thực hiện chuyện phi thường, liều lĩnh, anh Quang bị đau liên tiếp nhiều ngày, tôi có tặng nhiều viên thuốc cảm và trị sốt rét mà anh Quang cần. Còn anh Thịnh, hàng ngày mải mê tập thể dục, anh Thịnh còn tự chế một cái tạ để tập, hai tay của anh cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Một lần, tôi hỏi, anh Thịnh nói tôi tập tạ nhằm luyện cho thật khỏe 2 tay để có ngày sử dụng và ngày ấy là ngày N, giờ G, giờ định mạng của cả hai anh Quang và Thịnh?

Khoảng từ 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng của một đêm có mưa lất phất, trên nền trời và cảnh vật, ánh trăng sáng lờ mờ, hai anh Thịnh và Quang đi ra hướng cầu tiêu ở gần hàng rào kẽm gai, chọn thời điểm thích hợp này thực hiện cuộc vượt thoát. Nhiều tiếng súng nổ vang trong đêm khuya vắng lặng và tiếng kẻng báo động vang dội khắp nơi xa gần, đánh thức mọi người. Tôi choàng ngồi dậy bước ra cửa coi xem có chuyện gì xảy ra, lính tráng đơn vị canh gác trại tù này, rầm rập chạy với súng cầm tay la hét om sòm, bảo phải tắt đèn và mọi người ở trong lán không được đi ra ngoài...

Sáng hôm sau, cán bộ quản giáo cho biết có 2 anh trốn trại thuộc đội 35, một anh bị bắn chết tại vòng rào trại, một anh bị thương và bị bắt đang nằm ở y xá. Trong những ngày kế tiếp, chuyện trốn trại của 2 anh Quang, Thịnh đã được sáng rõ thêm. Khi quản giáo hỏi đội 34 và 35 có anh nào đem thức ăn cho anh Thịnh đang bị thương, không ai lên tiếng. Tôi tình nguyện mang thức ăn chánh thức của trại đến tiếp tế cho anh Phạm Hữu Thịnh. Sau khi mỗ lấy viên đạn còn ghim trong người ra, nay hồi tĩnh, anh Thịnh lại bị nhốt trong 1 connex, để gần chòi gác, còn bi thảm hơn, ngày thì nóng như thiêu như đốt, đêm khuya lạnh lẽo đến tận xương tủy. Mỗi lần đưa thức ăn đến anh Thịnh, trong đầu, tôi xếp sẵn những câu hỏi, phải thật nhanh và ngắn gọn vì lính gác trên chòi canh lúc nào cũng nhìn theo dõi tôi khi mang thức ăn đến connex. Nhờ vậy, tôi biết được khá nhiều về gia cảnh Thịnh, anh còn bà mẹ già, vợ anh gốc người Hoa. Anh Thịnh còn cho biết sở dĩ anh bị bắn trọng thương vì anh quay lại cứu bạn mình, anh Quang, quần áo đang bị vướng dây kẽm gai mà anh gỡ ra còn nhùng nhằng. Lính gác trên chòi canh phát hiện bắn anh Quang nhiều phát đạn, anh bị thương và nằm dán chặt vào hàng rào. Trong khi anh Thịnh đã chạy đến cây mít (chúng tôi thường thấy các chị ở Sài Gòn lên kiếm thăm chồng? đứng lấp ló ở khu cây mít này), cách hàng rào trại chừng trăm mét. Vừa tới hàng rào dây kẽm gai, anh Thịnh nghe tiếng súng nổ liên hồi vội quay lưng chạy và một viên đạn cấm vào lưng anh, té quỵ. Theo lời anh Thịnh kể vắn tắt, anh Quang chỉ bị thương còn sống và cái áo của anh còn dính với mấy móc kẽm gai, đám cán độ trại đến nã bồi thêm vài phát đạn nữa, kết liễu một đời oanh liệt của một chiến sĩ BÐQ ưu tú can trường, Quách Hồng Quang, lúc nào 2 chữ sát cộng cũng đến với binh chủng anh dũng này.

Nếu gia đình chị Thịnh may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ, xin liên lạc, tôi kể lại những ngày cuối cùng của anh Thịnh từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn cho đến trước 1 ngày anh Thịnh bị xử bắn tại trại Suối Máu-Biên Hòa mà tôi “làm gan” trò chuyện với anh đang ngồi hớt tóc. Anh Thịnh linh cảm sẽ khó sống vì đám cán bộ chấp cung thường tỏ vẻ muốn giết anh để dằn mặt đám tù còn lại. Anh Thịnh còn nhân mạnh với tôi, CSBV tàn ác lắm, chúng muốn giết anh, khi mỗ lấy đạn không có thuốc tê, thuốc mê gì cả. Anh đau đớn quá chết ngất không còn biết gì nữa, chúng muốn làm gì thì làm, may mà anh còn sống đến ngày bị xử bắn (Email của tôi: tranvannga@hotmail.com & Tel: 916.427.6638).

Thành Ông Năm ở quận Hóc Môn, trại tù đầu tiên đã nhốt chúng tôi, nhưng trại này chỉ là trạm trung chuyển, sau mấy tháng lại chuyển tất cả bò tứ, bò ngũ (thiếu tá, trung tá) về Suối Máu. Ðây là doanh trại của trung tâm giam giũ tù phiến cộng của Quân Khu 3 để trao trả với phía bên kia.

Cũng chính trại tù Thành Ông Năm, sau ngày ra tù, một bác sĩ Quân Y/QLVNCH, Y sĩ thiếu tá Trần Ðông A, đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản khiếp phục vì tài mổ 1 cặp song sinh dính lại mà nhiều nước, lúc bây giờ, thập niên 80 không dám mõ tách ra. BS Trần Ðông A nhờ đào tạo dưới chánh thể VNCH đã tiến hành ca mổ thành công và đến nay BS Trần Ðông A vẫn là một trong những bác sĩ giỏi và nổi tiếng nhất của Việt Nam.

Trại tù Suối Máu

Từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn chuyển về Suối Máu, con đường dài 40-50 cây số, với đoàn xe quân sự có hộ tống nghiêm chỉnh, theo lẽ di chuyển một tiếng hay tối đa 2 tiếng đồng hồ là đến nơi rồi. Ðàng này, chúng tôi phải “khẩn trương” tập hợp hành quân từ 6-7 giờ tối mãi đến hơn 7 giờ sáng hôm sau mới trại Suối Máu-Biên Hòa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần chúng tôi bị ”bầm vập” thể xác và tinh thần. Chúng dồn nén đám tù này như con vật, một chiếc xe tải Molotova nhét cả 1 đội 50 người cùng với đồ đoàng lỉnh kỉnh, chen chúc ngồi bó rọ, giẫm trên chân trên người nhau. Các xe đều bỏ bạt phủ kín, không đủ không khí để thở, chỉ một cái đánh rấm của một anh nào đó kể như mọi người lãnh đủ cái mùi khó chịu không ai thích.

Lần chuyển trại đầu tiên, từ trường Trung Học Pétrus Ký chuyển đến Thành Ông Năm ở Hóc Môn, chúng tôi đã lãnh đủ cái cơ cực khổ sở của cái vụ chuyển trại bi thảm này. Ðược lệnh hành quân khẩn trương, từ 9 giờ tối đã có tiếng tu-hít (còi) thổi gọi tập họp mọi người. Từ trường Pétrus Ký đến Liên Ðoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, mười mấy hai chục cây số. Cái dễ sợ nhất là mỗi đội chúng tôi bị nhốt trong một chiếc xe bít bùng, tiểu tiện phải đi trong quần vì từ 9 giờ tối đã lên xe, hành quân kiểu gì không biết của đám khỉ học làm người, mãi đến 6 giờ sáng mới tới Thành Ông Năm ở Hóc Môn.

Tại Suối Máu, tưởng tôi đã “bỏ mạng sa trường” vì cái bệnh kiết lỵ.
Xin nhắc lại, tôi từ giã ông Yamoto “đi cải tạo,” khoảng giữa tháng 5, 1975, ông là trưởng văn phòng nhật báo Asahi (Asahi Shimbun) tại Sài Gòn, một tờ báo lớn của người Nhật, có số phát hành gần 10 triệu số mỗi ngày. Tôi đã cộng tác với ông Yamoto trên 3 năm, qua tài liệu, ông đã hiểu hơn tôi về chế độ “tù cải tạo,” ông biếu tôi vài trăm đô và đặc biệt tặng 2 “túi cứu thương” để tôi dấn thân vào cõi chết mà ông chỉ nói úp mở. Lúc bấy giờ, thời chiến cực kỳ khốc liệt, mỗi ký giả ngoại quốc ở Sài Gòn, gọi là ký giả chiến trường, đều kè kè bên mình một túi cứu thương, gồm đủ các thứ thuốc, trong đó có nhiều thuốc trị bệnh kiết lỵ, tiêu chảy... May mắn cho tôi, ông Yamoto và người phụ tá của ông có 2 túi cứu thương, ông tặng hết. Nhờ có nhiều thuốc nên ở trong trại tù, nhiều bác sĩ phe ta khám bệnh cho anh em, biết tôi có thuốc tốt, phụ nhĩ với bệnh nhân, đến tìm anh Ngà xin thuốc, tôi trở thành dược sĩ bất đắc dĩ mà chẳng cần học trường Dược ngày nào.
Khi tôi bị bệnh kiết lỵ ngặt nghèo, từ cầu lê lết về đến lán, tôi bước lên thềm không nổi phải bò mới vào được chỗ nằm và vận dụng hết sức lực còn lại mở túi balô lấy thuốc trụ sinh trị kiết lỵ uống 2 lần từ tối đến khuya, tôi không đi cầu nữa.

Tại trại Suối Máu, tôi gặp anh Phạm Ðăng Có, thiếu tá Quân Cảnh, chỉ huy trưởng trại giam tù phiến Cộng này. Anh Có là em ruột của Ðại Tá Phạm Ðăng Tấn (đã từ trần cách nay chừng 4 năm ở Virginia, vợ chồng tôi có đến phúng viếng, tiễn đưa), nguyên là tham mưu trưởng QÐ4 &V4CT thời Trung Tướng Ðặng Văn Quang làm tư lệnh, đó là hai ông sếp lớn của tôi. Người anh kế của anh Có là Trung Tá An Ninh Quân Ðội Phạm Ðăng Năng, có vợ là bạn học với tôi ở Châu Ðốc (anh Năng hiện còn ở VN). Anh Có rù rì với tôi, tụi VC này ác quá, hồi tôi làm sếp ở đây, đám cán binh của chúng được nằm giường sắt 2 tầng đàng hoàng, nay chúng cho bọn mình ăn chay nằm đất.

Tại trại Suối Máu, trước ngày lên đường đi ra miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” chúng tôi gồm bò tứ và bò ngũ, được học tập chính sách “khoan hồng nhân đạo” 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để thông suốt mà hồ hởi phấn khởi ra miền Bắc nghèo mạt rệp. Cũng chính lúc này, một tòa án quân sự của quân khu 7 VC được thiết đặt, gần cổng ra vào trại. Cán bộ trại bắt loa gọi anh em “trại viên” lắng nghe theo dõi buổi xử án 2 người trốn trại, có trực tiếp truyền thanh. Mỗi đội phải cắt cử 2 người (thường là đội trưởng và đội phó) đi tham dự phiên xử anh Phạm Hữu Thịnh và một anh Thiếu tá nữa (quên tên) là Trưởng phòng nhì Tiểu khu Ðịnh Tường cũng trốn trại. Anh này trốn được ra khỏi trại Suối Máu, đi xe đò bị chận bắt ở một chốt kiểm soát nào đó, chưa về tới Sài Gòn. Chúng tôi đang ngồi nghe ngóng, phiên xử khai mạc, nghe rất rõ, khi gọi tên anh trưởng phòng nhì TK Ðịnh Tường ra xử. Sau khi luận tội và kêu án tử hình, vẫn trong tư thế bị còng 2 tay, anh chiến sĩ anh hùng của chúng ta hô lớn đả đảo cộng sản trước tòa, anh vừa mới nói đả đảo tiếp theo chắc là đả đảo hồ chí minh. Hai tên bộ đội dùng tay bịt miệng và sau đó anh bị nhét giẻ vào miệng, kéo sền sệt ra khỏi phòng. Chừng 2 phút sau nghe tiếng súng AK nổ một loạt mà anh em có tham dự chứng kiến từ đầu. Trong lúc đó, bất ngờ, dù còn nắng trời đổ mưa như sụt sùi khóc cho một chiến sĩ anh hùng của QLVNCH bị giết dã man trước họng súng của quân xâm lược. Ðược biết, đám cán binh VC không lôi anh chiến sĩ anh hùng này đến pháp trường cát đã thiết đặt trước mà chúng bắn anh khi ra khỏi nơi xét xử trước một ụ đất . Buổi chiều, bọn xét xử, rút kinh nghiệm buổi sáng, khi chúng luận tội, anh Phạm Hữu Thịnh bị nhét giẻ đầy miệng không cho nói lời nào và đưa đến pháp trường cát kết liễu đời anh, tội nghiệp anh Thịnh bị hành hạ đày đọa mấy tháng trong connex, thân hình tiều tụy, da bọc xương tái mét, nhưng sắc mặt anh vẫn bình thản, lạnh lùng và vui vẻ khi tôi hỏi chuyện.

Cộng quân đã đem xử bắn 2 anh em của chúng ta để dằn mặt đám tù còn lại, trốn trại bắt được là xử bắn, không có khoan hồng nhân đạo gì ráo trọi.
 
Chuyến tàu thủy ra Bắc
 
Qua 2 lần chuyển trại trước đây, nay lại chuyển trại lần nữa vào đêm 12 tháng 6 năm 1976, nghĩa là sau 1 năm chúng tôi nằm tù cộng sản ở miền Nam. Nay lại ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa mạt rệp, cũng tập họp từ 7 giờ tối, bị kiểm tra tư trang, chúng tịch thu vô số đồ dùng cũng như thuốc men của anh em chúng tôi. Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi được dồn lên xe chật ních cũng như 2 lần chuyển trại trước, mãi đến 6 giờ sáng mới bị dẫn xuống tàu nhỏ, cũ kỹ bẩn thỉu, loại tàu chở vật dụng, heo, trâu, bò... đậu tại tân cảng Sài Gòn, gần cầu Sài Gòn, trên xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa.

Mỗi chiếc tàu loại nhỏ đó chỉ chở 5-7 chục người là nhiều, đàng này chúng dồn hình như xấp xỉ 3 trăm người vì chúng tôi chỉ nhìn thấy đầu đen và người nào người nấy, ở trần trùn trục, mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi mà ngồi chen chúc chịu trận vì không có đủ chỗ nằm. Tôi mạo hiểm lấy ra một cái võng tự chế khi còn ở Hóc Môn, leo lên thành tàu cao hơn 2 mét mới có chỗ buộc dây 2 đầu căng võng nằm, còn ở sàn tàu, không ai có thể đặt lưng nằm được. Bắt chước làm theo tôi có đến cả chục người nữa mà đám bộ đội áp tải không nói năng gì.

Cái khổ nhất trần gian lúc bấy giờ là đi tiểu tiện trong 2 cái thùng thiếc miệng tròn dành cho mấy trăm người. Mỗi ngày, từ trên boong tàu mở nắp ra, thòng dây xuống để chúng tôi buộc vào thùng phân và nước tiểu lần lượt kéo lên. Vì ở trên cao, cách hơn 5-6 mét, cái thùng lại nặng, 2 tên bộ độ ì ạch kéo lên khơi khơi, làm chiếc thùng đầy lượn đảo qua lại bắn nước dơ tung tóe, rơi xuống trúng người nào người đó chỉ biết kêu trời, lãnh đủ, nước không đủ uống làm sao mà có nước rữa nên phải “khắc phục.” Mỗi lần xếp hàng chờ “lấy tài” để tống hai cái của nợ, mất vài tiếng như chơi. Rủi hơn nữa tới phiên mình được phép trút cái nợ đời ra là lúc chiếc thùng đầy ắp, còn chỗ đâu mà chứa, đành gọi khan cổ xin kéo thùng lên. Chờ “bề trên” trông xuống hỏi lý do gì mà kêu cứu, họ mới thòng dây xuống kéo thùng lên, phải đổ xuống biển, còn rữa nữa mới thòng thùng xuống lại, thêm một lần nữa, thùng mới rữa lại văng nước tung tóe. Anh em có dịp la lên chí chóe, nhưng nước văng lần này tương đối “ thơm tho” hơn lần trước từ dưới kéo lên. Trong 4 ngày ở dưới hầm tàu này, có nhiều lần vì đợi tới phiên lâu quá, tôi lại không đi cầu được, đành rút lui để cho người khác làm “nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa.”

Sau 4 ngày ngất ngư con tàu đi, nhiều người bị say sóng ói mửa tới mật xanh, may cho tôi, thể trạng tốt không bị ói mửa nên đỡ tiều tụy hơn nhiều anh em khác. Cũng vì cái còn khỏe đó mà tôi lãnh cái búa tạ, khi tàu cặp bến Vĩnh Linh-Ðồng Hới, tôi được một thằng bạn mắc dịch lớn giọng đề cử tôi làm Ðội trưởng để “quản lý” anh em trên toa xe lửa khi có 1 tên bộ đội bảo anh em đề cử đội trưởng.
 
Chuyến tàu hỏa định mệnh trên đất Bắc

Trời đã bắt đầu tối, từng chiếc tàu cặp bến cầu, đổ người lên đông nghẹt, xếp hàng đôi “2 hàng dọc, đàng trước thẳng” lần lượt tiến bước có 4-5 con chó trận vừa sủa vừa dẫn đầu. Ðèn dầu, đuốc được các người dân nghèo khổ cầm đứng 2 bên đường với các tên du kích cầm súng trường CKC có gắn lưỡi lê sáng loáng như hù dọa đám tù đói khổ đang lê lết từng bước nặng nề, sau 4 ngày nổi trôi lênh đênh trên sóng biển. Không biết họ đứng trên con đường này bao lâu để “chào đón” chúng tôi. Họ nói chuyện râm ran, bàn tán, chửi đổng... rất ồn ào, bọn tù chúng tôi uể oải, mệt lả, lầm lũi bước đi như kẻ không hồn.
Ðến ga xe lửa, cứ 50 người lên 1 wagon (toa), hàng mấy chục cái toa, loại toa tàu lửa để chở súc vật, đồ đạc, không có ghế ngồi và hoàn toàn kín mít, không có một cái cửa sổ nhỏ nào cả. 50 người ngồi bó gối chen chúc nhau và cái văn minh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đường rầy xe lửa quá cũ kỹ từ thời Pháp thuộc để lại, những thanh sắt ngang, nay biến đâu mất tiêu, chắc cán bộ hỏa xa gỡ đem đi bán sắt vụn để “cải thiện' đời sống. Thay những thanh sắt ngang bằng những thanh gỗ, khi bánh xe cán lên nghe âm thanh phập phình, khập khễnh, chúng tôi có cảm tưởng đường rầy sẽ “banh xà rông” và tàu hỏa sẽ trật bánh, đưa bao nhiêu con người cùng khổ xuống sông, xuống ruộng... Tàu hỏa chạy suốt đêm, đến gần trưa tới Nam Ðịnh, ngôi giáo đường Công Giáo giữa thị xã Nam Ðịnh loang lổ phong sương như các tín hữu của tôn giáo này đã từng bị chế độ cộng sản vùi dập không thương tiếc.

Vì tôi là “xếp” toa này, nên được ngồi ngay cửa lên xuống mở hé, có 2 tên bộ đội ngồi chĩa súng ra ngoài, đó là ân huệ và cũng cái khổ cho tôi. Ðến trưa, trời tháng 5 âm lịch, miền Bắc nóng khủng khiếp, hôm ấy có thể đến 100 độ F hay cao hơn, toa tàu đóng kín, qua khỏi Nam Ðịnh 2 tên bộ đội biến đâu mất và cửa này hoàn toàn bị đóng khóa chặt ở ngoài. 50 anh em chúng tôi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, có người ngất xỉu vì thiếu oxy. Tôi nảy ra sáng kiến kêu gọi anh em nào có vật gì bén nhọn như cọng dây kẽm... ngồi xuống nạy các khe gỗ ở sàn tàu, may ra có kẽ hở để gió lọt vào mà thở.

May quá, trong balô của tôi còn sót một cái lưỡi cưa nhỏ xíu và cọng thép dài hơn 1 tấc mà khi còn ở Hóc Môn, tôi dùng trong việc chạm trổ trên các cái lược bằng nhôm, đám cán binh xét tới xét lui, tịch thu biết bao cái “của quý” loại này rồi, nay còn sót 2 món bảo bối quý hiếm đó. Tôi miệt mài khơi cạy chừng 10 phút , tàu lửa ngừng lại một ga xép để nhận tiếp tế và tù được nhận 1 thùng nước để uống mà đội trưởng nhảy xuống toa tàu, khi 1 tên bộ đội đến mở cửa, phải chạy thật nhanh mang thùng nước về. Khi tôi ra khỏi toa, tên bộ đội lại khóa cửa, anh em luân phiên cạy, nạy, móc ra từng mảnh rác nhỏ, đất cát... và may mắn có luồng gió mát thổi vào khi tôi mang thùng nước nặng 20 lít đưa lên tàu vừa lúc tiếng còi tàu ré lên, từ từ lăn bánh. Anh em mừng quá vừa có nước uống đỡ khát vừa có luồng gió mát thổi vào một cái khe nhỏ bằng đầu chiếc đũa và dài hơn 1 tấc, gặp thanh gỗ bắt ngang nên tắc tị không “khựi” thêm được nữa. Bây giờ là cái khổ của người đội trưởng, ai cũng cần khí trời để thở cho khỏe nên anh em khó nhường nhau mà người đau yếu, nhất là các anh bị suyễn kinh niên ốm yếu chỉ nằm chờ chết, làm sao chen giành lại với các anh khỏe hơn? Tôi bèn có quyết định, lựa 4 anh to con như tôi hoặc to khỏe hơn tôi, ngồi chung quanh cái lỗ thông hơi cứu tinh này. Ai ngất xỉu được ưu tiên chuyển tới lỗ thông hơi hít thở vài phút, nhường chỗ cho anh khác tới thay. Nhờ anh em toàn là cấp chỉ huy cũ nên dễ thông cảm và tự thấy mỗi người có trách nhiệm giúp đỡ nhau trong cảnh cùng cực này. Dù vậy, càng về trưa, càng oi bức mà trời lại đứng gió nên có nhiều anh em ngất xỉu, tôi phải vỗ cửa bình bịch kêu cứu khi xe ngừng lại tại một ga nào đó. Nhiệm vụ của đội trưởng là phải dìu hay phải cõng anh bị xỉu chạy nhanh đến toa cấp cứu. Toa này chỉ là toa có nhiều cửa mở toang 2 tên bộ đội ngồi ghìm súng trên đó, anh nào may mắn được đưa đến đây đều được thoát chết vì được thở không khí ở ngoài tràn vào. Tôi gặp một anh bò ngũ đang nằm tại đây và anh cho biết Trung Tá Ngô Văn Hùng, trưởng Khối Kế Hoạch Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã tắt thở, không đưa kịp đến toa cấp cứu này và xác anh ấy bộ đội áp tải cho khiêng xuống rồi, cách đây 1 trạm. Tôi vốn quen biết Trung Tá Hùng, vì khi ông đi làm đều phải đi ngang qua Khối Thông Tin Giao Tế mà tôi đang phục vụ, ở số 2 ter Ðại lộ Thống Nhất-Sài Gòn. Sau này, tôi nghe còn có thêm vài bò tứ hay bò ngũ cũng qua đời trong chuyến tàu lửa định mệnh này. Nhờ những cái chết oan khiên của các anh ấy mà từ đó về sau khi chạy ngang Hà Nội cho tới ga cuối cùng Yên Bái, các cửa lên xuống đều được mở toang để có không khí lùa vào toa. Nhiệm vụ đội trưởng quá vất vả của tôi cũng chấm dứt tại bến phà Âu Lâu của tỉnh Yên Bái, sau đúng 1 ngày 2 đêm “nhậm chức.”

Ðường lên Sơn La gian khổ
 
Ðến nhà ga Yên Bái gần sáng, ngày 16 tháng 6, 1976, bên này bến phà Âu Lâu, chúng tôi được lùa đi cũng 2 hàng dọc đàng trước bước. Cán bộ giữ tù thông báo: Các anh được nhân dân địa phương đón tiếp và mời các anh uống nước vối cho mát để tiếp tục cuộc hành quân đến các trại. Hai bên vệ đường, có nhiều thùng nước vối đang còn lửa cháy phừng phực. Trong đời, lần đầu tiên tôi được thưởng thức nước vối có mùi khói phảng phất của đất Bắc, uống vào chả ra làm sao và tôi ao ước nếu có một chén nước trà nóng trong đêm buồn thảm này uống chắc đã lắm. Ði bộ xuống phà, nghe nhiều tiếng gà gáy sáng xa xa, báo hiệu một ngày mới nhục nhã và gian khổ đang chờ đón.

Lên bến bên kia thuộc địa phận khác, có nhiều đoàn xe molotova chờ sẵn, những người lính áp giải không phân biệt đội nào, cứ lùa tù lên đầy xe là được, hàng trăm xe lăn bánh đưa chúng tôi người về Hoàng Liên Sơn, người lên Sơn La, mãi đến chiều, tôi đến Sơn La, rừng núi ngút ngàn bất tận, đúng ngày 16 tháng 6, 1976. Sau 6 ngày hành quân kỳ cục và khổ nhọc nhất, tôi đã nhận rõ tương lai mờ mịt của những người tù bị lưu đày lên xứ “nước Sơn La ma Hòa Bình,” đã đến đây chắc khó trở về sum họp với vợ con?

Ðoàn xe tù chúng tôi chừng vài chục chiếc, ước đoán cả 5-6 trăm người được đưa đến tận chân núi, nơi có 2 nhà tù lớn do Pháp khoét sâu vào vách núi, xây mấy chục năm trước để nhốt tù chánh trị. Sau này CSBV nhốt tù binh Mỹ và Ðại Hàn mà vết tích còn ghi trên vách đá, nay nhốt chúng tôi. Trong đoàn tù này gồm toàn bò tứ, bò ngũ bên Quân Ðội, bỗng dưng có một xe toàn bò tam cũng đổ xuống, ngành cảnh sát đặc biệt, làm thành một đội riêng.

Chừng 2 tuần sau nhiều đợt tù kế tiếp được chuyển tới và tiếp tục chuyển tới nữa mà đa số là những anh em thuộc quân khu 9 của cộng sản, ở miền Tây. Chuyển từ Cần Thơ ra đây và nhiều anh em cấp đại úy trở xuống trình diện đợt 2 ở Sài Gòn cũng được chuyển đến xã Mường Cơi này, nơi mà không có đủ nước sinh hoạt hàng ngày cho cả chục ngàn tù binh mà CSBV gọi chúng tôi khi mới đặt chân lên xứ này.

Ðợt tù đầu tiên đến đây lại gặp gần 100 anh em tù bị bắt từ mùa HEợ đỏ lửa 1972, ở trận Hạ Lào và đặc biệt có Trung Tá Khương, chỉ huy trưởng Tiếp Vận V1CT bị bắt hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Tình cờ, trong khi tôi đi lao động cất nhà mới để đón tiếp các anh em chuyển ra sau, gặp lại anh Nguyễn Văn Thuế, thiếu tá Pháo Binh cùng học với tôi tại trường Sinh Ngữ Quân Ðội ở đường Nguyễn Văn Tráng Sài Gòn, cuối thập niên 60 để chuẩn bị đi du học Hoa Kỳ, khi đó chúng tôi còn đeo lon Ðại úy. Anh Nguyễn Văn Thuế bị bắt loại hàng binh trong mùa hè đỏ lửa 1972 được CSBV cho ăn bánh vẽ, nghe nói cũng “le lói” trong hàng ngũ bộ đội CSBV cũng đeo “quân hàm” thiếu tá... Sau xin đổi qua diện tù binh để được trao trả theo Hiệp Ðịnh Ba Lê nên bị cộng sản đì, không những không trao trả mà còn bị nhốt tù để cùng với những anh em khác cất thêm trại chờ đón chúng tôi.

Một chuyện hi hữu và thương tâm làm nhiều anh em chúng tôi không cầm được nước mắt. Một anh Trung tá (quên tên) cùng ở một nhà với nhà thơ Hoàng Ngọc Liên, Tô Kiều Ngân, Văn Quang ở bên kia hàng rào, nhà bên này, nằm cạnh tôi có nhà báo Phan Lạc Phúc (đang ở Úc), chúng tôi chứng kiến một cuộc trùng phùng hi hữu giũa hai bố con trước cổng trại. Khi chúng tôi xếp hàng ra ngoài lao động “đốn tre đẵn gỗ trên rừng,” anh Trung tá gặp lại đứa con trai yêu quý của anh, cấp bậc Thiếu úy đã bị ghi nhận là mất tích trong một trận chiến mùa hè đỏ lửa 72, nay lù lù xuất hiện nhận diện được cha mình cùng đang ở tù chung trại.

Cũng tại trại Sơn La này, người tù chết đầu tiên là nhạc sĩ Thục Vũ, tôi lại quên tên, anh là Trung Tá làm Trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ hay là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh chết vì đau và sau khi hút được 1 điếu thuốc lào thoải mái, anh thanh thản ra đi. Người chết kế tiếp cũng tại K1 có 2 nhà tù đá kiên cố này là anh Trung tá Tường, nguyên Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Ðoàn 4 ở Cần Thơ mà tôi gặp anh hàng ngày khi chúng tôi cùng làm việc tại đây. Anh Tường chết vì uống thuốc tự tử, anh chán đời, chán cảnh tù khổ sai không biết ngày nào được thả ra...

Trại tù Sơn La, khi chúng tôi đến “tạm trú” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 2 nhà đá có từ trước. Với chừng 100 anh em tù cũ gồm có Biệt Kích nhảy ra Bắc bị bắt hàng chục năm trước còn sống sót cùng với anh em bị bắt vào mùa Hè đỏ 1972, cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào, cấp bậc từ hạ sĩ quan đến trung úy, cấp cao nhứt là Trung Tá Khương bị bắt 1968 tại Huế. Chính toán tiền đạo tù cũ hướng dẫn anh em chúng tôi cách “lao động xã hội chủ nghĩa” cất thêm doanh trại mới để nhốt tù lần lượt sẽ được chuyển tới từ trong Nam ra tiếp, trong phạm vi chừng 10 cây số vuông. Liên trại 2 Sơn La lúc cao điểm có đến 6 trại được phân định nhốt tù rõ rệt từng cấp bậc. Khu nhà đá gọi là K1, ở sâu trong núi “chuyên trị” nhốt tù có cấp bậc cao nhất ở đây là Trung Tá, K5 ở đồi chè Mường Cơi, gần đường lộ chính lên hướng huyện Phù Yên, gồm toàn bò tam và K6 nhốt toàn bò tứ trong đó có tôi, K6 cũng nằm gần trục lộ chính huyết mạch của tỉnh Sơn La. Còn K2, 3, 4 mới cất vội vã sau này nhốt các anh em ở các trại giam từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tập trung tại các trại giam Cần Thơ và từ đó chuyển đến Sơn La. Tội nghiệp cho các anh em này đến Sơn La cũng là nơi trung chuyển để Liên trại ở Hoàng Liên Sơn cất thêm đủ chỗ, các trại K 2,3,4 của Sơn La sẽ chuyển về đó. Ở tù cộng sản, trại nào cũng khổ, nhưng mỗi trại tù có cái khổ nhiều ít khác nhau. Các anh ở miền Tây chuyển trại liên tục và đường lại xa hơn chắc chắn mệt khổ hơn chúng tôi từ Sài Gòn lên thẳng Sơn La.
 
Trại tù Hồng Ca-Yên Bái
 
Chuyện ở tù cộng sản, chúng ta viết hoài viết mãi cho đến chết cũng chưa có thể chấm hết được. Có đến 1001 chuyện khổ nhục về sự đối xử dã man tàn bạo của chế độ lao tù CS, cùng hung cực ác dành cho những người ngã ngựa của chính thể VNCH.

Ðến năm 1978, có tin Trung Cộng sẽ dạy cho CSBV một bài học, như chúng ta biết hồng quân TC đã xua hàng chục sư đoàn bộ chiến cùng với không yểm và pháo yểm đã tấn công vào các tỉnh cực bắc VN, giáp biên giới TC vào năm 1979. Ba trại 1, 5 và 6 ở Sơn La đã có lệnh “di tản chiến thuật” trước từ gần cuối năm 1978. Một nửa trại 6 chúng tôi được chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái do công an quản lý. Ðó cũng là thời điểm, chúng tôi được chuyển sang diện tù thường không còn là diện tù binh như chúng tôi đến Sơn La được học tập chính sách 8 điểm của bộ đội cộng sản đối với tù hàng binh. Chúng tôi thấy có sự khác biệt rõ rệt. Bộ đội quản lý trại tù có phần dễ dãi đôi chút hơn là đám công an dùng kỷ luật sắt đối với chúng tôi, mỗi lần di chuyển bằng xe thì 2 người bị chúng khóa chung 1 cái còng số 8, còn bên bộ đội khi chuyển từ Nam ra Bắc không bị còng, ngoài trừ quý vị đi bằng máy bay. Tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng bị công an xén bớt, ăn sắn quanh năm thay cơm. Chính sắn tươi quy ra gạo cũng bị công an tính gian lận. Thí dụ 1 ký gạo ở bên bộ đội quy ra thành 4 ký sắn tươi hoặc 2 ký sắn lát khô. Còn bên công an cứ 3 ký sắn tươi quy ra 1 ký gạo, có nơi công an chỉ tính có 2 hoặc 2 ký rưỡi sắn tươi thành 1 ký gạo, còn sắn lát khô, cứ 1 cân (ký) quy ra thành 1 cân gạo. Tiêu chuẩn về cung cấp đường, thuốc lá, thuốc lào bên công an cũng rút bớt của tù để chúng bồi dưỡng hoặc mua bán đổi chác với các hợp tác xã trong vùng.

Tóm lại, tại các trại do công an quản lý bắt người tù lao động cật lực chết bỏ, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm và có thể lao động cả ngày chủ nhật nữa mà bên bộ đội ít có xảy ra.

Chúng tôi ở trại 6 Sơn La, hơn một nửa chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái, số còn lại được chuyển về Nghệ Tĩnh. Còn trại 1 bò ngũ và trại 5 bò tam cũng vậy một số lớn chuyển lên trại Phù Yên gần quận lỵ Phù Yên-Sơn La, cách chỗ cũ chừng 20 cây số và một số chuyển về đâu đó, hình như cũng ở Nghệ Tĩnh.
 
Trại Tân Lập-Vĩnh Phú khó quên

Bi đát nhất của cuộc đời ở tù cộng sản của tôi, gần đúng 10 năm, là K1 và K4 liên trại Tân Lập ở Vĩnh Phú. Vì vậy tôi không thể viết qua loa đại khái giai đoạn này, xin dành cho 1 bài khác vậy. Ở đây, chúng tôi chỉ tóm gọn, ở tù trại nào cũng khổ mà ai từng ở tù trại Tân Lập so sánh với các trại tù khác, quả trại này là địa ngục trần gian.
 
Từ Sơn La về Hồng Ca-Yên Bái, đây cũng là trạm trung chuyển, ở được vài tháng, ăn được một cái Tết tại Hồng Ca, tất cả “trại viên” được cho ăn 1 bữa khá no còn được tặng thêm gần 2 ký sắn luộc lại có kèm thêm đường cát trắng của Cuba.
 
Ôi! hạnh phúc biết bao! vì bao năm tháng ở tù cải tạo, lần đầu tiên tôi được ăn một bữa no và còn có sắn và đường để mang theo bồi dưỡng cho cuộc hành trình mới, chưa biết lành dữ thế nào?. Ngoài cổng trại Hồng Ca có nhiều chiếc xe đò loại nhỏ chừng 20-30 chục chỗ ngồi đậu sẵn để chở chúng tôi về trại Tân Lập Vĩnh Phú. Cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8, tôi cùng đeo chung đồng hồ với Linh Mục Trần Quý Thiện, ngài cùng ở chung với tôi tổ, đội 8 ở trại 6 Sơn La. Nay tôi được ngồi ghế gần ngài có dịp tâm sự nhỏ to suốt lộ trình dài nên cũng đỡ lo nghĩ, sốt ruột. Khi xe đến bến phà Âu Lâu, chúng tôi xuống xe và đi bộ hai người dung dăng dung dẻ có cặp song hành, lần lượt xe qua hết thì chúng tôi lại lên xe. Trên đường đi ngang qua khu chợ đang họp vào buổi sáng gần bến phà, bỗng nhiên tôi bị đau bụng quặn thắt dữ đội. Báo cáo cán bộ áp giải xin đi ngoài, tên này không cho, tôi làm liều lôi Cha Thiện vào cái nhà nhỏ bỏ hoang cạnh đường, xin Cha thông cảm giúp tôi cởi quần cho nhanh và chưa kịp ngồi xuống là cái của nợ của một bữa ăn no và cộng thêm sắn bồi dưỡng cùng với đường cát trắng biểu tình lần lượt dzọt ra tới tấp. Tội nghiệp Cha Thiện chỉ biết nhìn trời hiu quạnh mà hít phải mùi chua lòm của tôi vừa phóng ra. Quả Cha Thiện rất gentleman ngài xé 1 mảnh báo Nhân Dân có sẵn trong túi đưa tôi làm nhiệm vụ sạch sẽ cuối cùng.

Lên xe, tôi cứ tiếc mãi được một bữa ăn no lại có thêm bồi dưỡng, nay của thiên trả cho địa mà thân xác tiều tụy của tôi chắn có hấp thụ được chút chất bổ dưỡng nào.

Về trại Tân Lập với các đồi sắn chập chùng vô tận do các người tù đến trước trồng trọt, đám tù sau tiếp tục sự nghiệp đào hóc trồng sắn mệt nghỉ và ăn sắn quanh năm. Một năm chỉ có 5 lần được ăn 1 chén cơm vào các ngày chiều 30 Tết, trưa Mồng Một Tết, lễ Lao Ðộng 1.5, ngày 2.9 cái gọi là quốc khánh của CSBV và ngày 1 Tháng Giêng dương lịch (Tết Tây).

Cái khó quên của tôi, đội 16 rau xanh sau qua đội 5 trồng sắn mà tôi là thành viên, có 2 anh cùng đội chết vì trời nắng gắt, Trung tá Nguyễn Văn Lạc, Trưởng phòng An Ninh QÐ2, Thiếu tá Nguyễn Xuân Hường Trưởng khối CTCT Liên Ðoàn 1 BÐQ. Một ngày nắng cực gắt ấy làm cho các cây sắn như muốn rũ lá, chúng tôi mắt nổ đom đóm như bị ngộp thở. Ai cũng đội nón đàng hoàng thế mà anh Lạc, anh Hường và 1 anh trung tá nữa lăn quay ra chết và còn một anh cũng bị say nắng được chuyển về trạm xá, đến tối mới chết. Chỉ một ngày bị say nắng đã 4 con người vô tội đáng thương từ giã cõi đời. Chính nhờ có 4 cái chết oan khiên của các anh ấy đã giúp chúng tôi từ đó về sau, không còn cảnh lao động trong lúc trời đổ nắng đom đóm nữa. Ðây là cảnh trại K1 vừa kể ở trên, tôi ở Tân Lập từ K2 qua K1 rồi bị chuyển sang K4 và sau cùng là K3 rồi được chuyển về Nam từ tháng tư năm 1982, trại Z 30D, thuộc huyện Hàm Tân-Thuận Hải, trại này ở khu vực có tên là Rừng Lá. Ðến cuối năm 1984, tôi được thả ra cùng với một số đông gần 200 người gồm nhiều cấp tá mà trước đó cấp tá thả ra rất hiếm hoi.

Trại tù chót: Z30D-Hàm Tân (Rừng Lá)
 
Ðến năm 1982, khi tôi được quy hồi miền Nam, đóng chốt ở trại Z30D-Hàm Tân (Rừng Lá), gặp lại nhiều anh em bò tứ bò ngũ trong lần chuyển ra đất Bắc đầu tiên ngày 1 tháng 6, 1976. Khi tàu hỏa đến ga chót là Yên Bái, ai đi toa nào phải sang sông qua phà Âu Lâu sẽ trực chỉ Hoàng Liên Sơn và Sơn La, toa nào ở lại Yến Bái thì có xe tải đến đón đưa về các trại ở Yên Bái.
 
Ðợt đi đầu tiên ra đất Bắc, gồm toàn những người mà cộng sản đã xếp loại nợ máu nhiều, khó mà được thả ra trong vòng 5 năm như tin đồn đoán, hầu hết là cấp tá đến cấp tướng bên Quân Ðội và bên hành chánh là những công chức cao cấp đến hàng tổng trưởng, các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo, dân cử...

Bên Quân Ðội, những vị từ cấp đại tá đến tướng được đi bằng máy bay C130 của ta “bỏ của chạy lấy người,” cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8. Bên công chức cao cấp cũng vậy được đi bằng máy bay và cũng đeo đồng hồ như bên quân sự. Còn cấp thiếu tá, trung tá, hàng Giám đốc nha sở trở xuống, các đại úy thuộc Cảnh sát đặc biệt hay nhiều người cấp chức nhỏ nhưng lọt mắt xanh xếp loại nợ máu nhiều của chúng cũng được ra Bắc đợt đầu.

Cái bịp của CSBV, không những chúng bịp các người tù mà chúng còn bịp đối với mọi người dân lương thiện trong nước và ngay cả nhiều thành phần cán bộ của chúng, quốc tế cũng bị chúng cho ăn quả lừa bịp.
Trước khi chuyển tù ra Bắc, tại trại Suối Máu-Biên Hòa, CSBV thiết lập tòa án quân xử bắn 2 anh thiếu tá trốn trại. Tiếp theo, chúng cho tù học tập chính sách 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mọi người tù an tâm hồ hởi phấn khởi sợ mà ở yên “học tập tốt, lao động tốt.”

Sau này, CSBV dùng tàu lớn như tàu Sông Hương chở 1 lần mấy ngàn người tù đổ xuống bến ở gần cảng Hải Phòng để có xe lửa hoặc xe tải đưa đến các trại tù khắp đất Bắc.

Tại Z30D có 2 K1 và K2 mà tôi được “biên chế” về K2 ở trong sâu, còn K1 là nơi có BCH trại làm việc nữa. Z 30D là khu rừng lá buông bạt ngàn, người ta lấy lá làm đủ thứ chuyện. Ðường vào K1 và K2 có trồng thật nhiều xua đũa tha hồ mà ăn bông, nếu ăn bông xua đũa nhiều quá dễ bị “tào tháo” đuổi chạy trối chết.

Ðược chuyển trại về tới miền Nam, dù ở trại nào, tôi cũng vững tin là mình sẽ còn sống, lúc ấy quả thật chúng tôi rất hồ hởi phấn khởi thấy được đoạn cuối của con đường hầm tối tăm bắt đầu có ánh sáng hé lộ. Khí hậu thời tiết không còn khắc nghiệt như các tỉnh ở vùng rừng núi miền Bắc, gần gia đình dễ thăm nuôi và được thông báo những tin tức hấp dẫn, tù cải tạo sẽ được thả hết qua sự vận động của Bà Khúc Minh Thơ với chánh quyền Hoa Kỳ. Tất cả tù cải tạo sẽ được qua Mỹ... Nghe vậy chỉ biết vậy và chúng tôi vẫn bán tín bán nghi, chắc gì Mỹ chịu rước của nợ các ông tù cải tạo bệnh tật đem qua nuôi báo cô. Chuyện gì đến đã xảy đến tốt đẹp cho mọi gia đình tù cải tạo từ 3 năm trở lên hoặc ở tù 1 năm và nếu có tu nghiệp ở Mỹ bất luận bao lâu, cũng được xếp vào diện HO ra đi đàng hoàng, ngẩng đầu mà đi dưới con mắt khó chịu của cộng sản.
 
Kết luận
 
Ai đã vào tù cộng trên đất Bắc từ Lào Cai, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Sơn Tây... ở tận cùng miền Bắc xuôi vào Nam qua Nam Ðình, Nghệ Tĩnh, về miền Trung Bình Trị Thiên, Cao Nguyên, miền Ðông Nam Bộ cho đến miền Tây đến vùng cuối Việt Cà Mau, CSBV đã thiết đặt hàng trăm trại tù lớn, khắc nghiệt, lao động khổ sai, thiếu ăn thiếu mặc, hàng ngàn tù lần lượt ra đi về bên kia thế giới. Chưa muốn nói là chánh sách nhân đạo của CSBV xuyên suốt nhằm trả thù cái vụ chúng sinh Bắc tử Nam trong thời chiến vì chúng đi xâm lược miền Nam nên chúng phải trả giá.
 
Nay miền Nam sụp đổ, CSBV trả thù một cách hèn hạ, tinh vi để cho những người ngã ngựa chết lần chết mòn trong các trại tù đói khổ, lao động khổ sai và bị hành hạ bỏ đói, đau không thuốc chữa trị...
Chuyện tù cộng sản không có bút mực nào mà viết hết và vì vậy mà tội ác của chúng tạo nên căn nghiệp mà luật quả báo của nhà Phật chỉ rõ “chủng quả đắc quả, chủng đậu đắc đậu” và tội nghiệp cho người dân lương thiện Việt Nam ở quê nhà cũng bị vạ lây vì luật nhân quả này.

Anh Phương Trần Văn Ngà

Tuesday, August 27, 2013

nhqblog

- Bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi
 
Trong bài phỏng vấn do Trà Mi thực hiện, Nguyễn Phương Uyên, cô gái 21 tuổi được nhiều người xem như một “biểu tượng” của lòng can đảm và của tuổi trẻ, nêu lên một ý nguyện, đồng thời cũng là một tham vọng của em: “Tôi không muốn mắc phải căn bệnh rất khó trị ở các thanh niên cùng tuổi tôi. Tôi muốn làm một bài thuốc để thanh niên Việt Nam nhìn thấy mà làm hết mình, ‘cháy’ hết mình, không còn bị vô cảm và sợ hãi vốn đã bị tiêm nhiễm ngay từ bé.”

Tôi không biết hiệu quả của “bài thuốc” ấy thế nào. Nhưng tôi nghĩ Phương Uyên đã bắt đúng căn bệnh kép không phải chỉ của giới trẻ mà còn của người Việt Nam nói chung lâu nay: bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi.

Bệnh sợ hãi, thật ra, là một bệnh lâu đời. Chế độ phong kiến, ở đâu cũng vậy, bao giờ cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng chính: sự sùng bái và sự sợ hãi. Sự sùng bái được xây dựng trên hai nền tảng chính: tư tưởng thần quyền (nòng cốt là tư tưởng thiên mệnh) và các nghi lễ đầy tính đẳng cấp trong xã hội. Sự sợ hãi được tạo thành và được duy trì chủ yếu bằng một biện pháp chính: khủng bố. Trong các tội trạng, tội nặng nhất là tội phản nghịch. Hình phạt dành cho tội này thường là tử hình, có khi không phải tử hình một cá nhân mà còn tử hình nguyên cả một dòng họ (tru di tam tộc). Tử hình không phải chỉ nhắm đến việc giết chết tội nhân. Mà còn nhắm đến việc giết chết mọi ý đồ phản nghịch của những người còn sống bằng cách khiến họ phải sợ hãi. Do đó, người ta bày ra đủ thứ kiểu giết người, từ kiểu chặt đầu, treo cổ đến kiểu cho voi giày, ngựa xé, ném vào vạc dầu sôi, tùng xẻo, v.v.. Bởi vậy, chuyện ngày xưa dân chúng thường xuyên sống trong sợ hãi là điều dễ hiểu.

Sau này, chế độ cộng sản tiếp tục duy trì sự sợ hãi ấy bằng các trại cải tạo và nhà tù, hơn nữa, bằng chế độ lý lịch: Con cháu những người bị xem là phản động trở thành một thứ con ghẻ, thường xuyên bị nghi kị và kỳ thị, có thời gian, lại là thời gian khá dài, còn không được nhận vào đại học. Bây giờ, do sự phát triển của kinh tế thị trường, chế độ lý lịch ấy đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, hệ thống nhà tù thì vẫn dày đặc. Mà không cần nhà tù, chỉ cần sự hiện diện của công an, mọi người đã khiếp sợ.

Tất cả những sự khủng bố và đe dọa ấy khiến mọi người nếu không run sợ thì ít nhất cũng thu mình lại, né tránh mọi đụng chạm đến công an hoặc rộng hơn, đến chính trị, từ đó, làm nảy sinh ra một thứ bệnh khác: bệnh vô cảm.

Nếu sợ hãi là một căn bệnh lâu đời, vô cảm lại là một căn bệnh rất mới. Trước, hầu như không ai nói người Việt vô cảm bao giờ. Thậm chí, ngược lại, hầu như ai cũng cho người Việt sống bằng tình cảm nhiều hơn lý trí. Với tư cách cá nhân, người ta quan tâm đến nhau; láng giềng quan tâm đến nhau; cả làng quan tâm đến nhau. Chuyện một người biến thành chuyện của cả tập thể. Sự quan tâm lớn đến độ lấn át cả sự riêng tư của từng cá nhân một.

Vậy mà, những năm gần đây, hầu như bất cứ người nào để ý đến xã hội Việt Nam một chút, cũng đều nhận thấy ngay một hiện tượng: người ta đối xử với nhau thật vô cảm.

Ngoài đường, nhìn người khác bị cướp giật, hầu như mọi người đều dửng dưng; thấy có ai đó bị tai nạn nằm giãy đành đạch, phần lớn vẫn đứng trố mắt nhìn. Trồng trọt hay buôn bán thực phẩm, biết việc sử dụng nhiều hóa chất có thể gây nhiễm độc hay bệnh hoạn cho xã hội, người ta vẫn mặc kệ. Làm các dịch vụ du lịch, biết việc chụp giật hay lừa đảo có thể gây ấn tượng xấu cho cả đất nước, khiến du khách ngoại quốc khinh bỉ và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, người ta vẫn bất chấp.

Chưa hết.

Hiện tượng con cái đánh đập hoặc đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà càng lúc càng phổ biến. Chỉ giận hờn hay cãi cọ nhau một chút là học sinh, có khi là nữ sinh, đã đánh nhau một cách tàn nhẫn. Để cướp một chiếc nhẫn, thay vì trấn lột, người ta nghĩ ra một biện pháp cực nhanh: chặt đứt nguyên cả cánh tay. Ăn trộm một con chó cũng bị cả làng xúm vào đánh chết.

Dù sao, ở trên cũng là những chuyện… nhỏ.

Lớn hơn là những chuyện liên quan đến số phận của cả đất nước. Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng ư? Người ta nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Nạn tham nhũng hoành hành, các công ty quốc doanh thi nhau phá sản để lại những núi nợ nần không những cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ sau này nữa ư? Người ta cũng nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!”

Quan trọng nhất là chuyện chủ quyền. Hầu như ai cũng biết Trung Quốc đang toan tính cướp biển và cướp đảo Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống của nhiều ngư dân Việt Nam, chi phối tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam. Ai cũng biết vậy. Nhưng phần lớn đều nhún vai: “Làm gì được?”. Rồi thôi.

Người Việt vẫn thường tự hào về truyền thống yêu nước, bất khuất và anh dũng của mình. Nhưng thời gian gần đây, nhìn đâu cũng thấy những cái nhún vai bất cần, kiểu sống chết mặc bay như thế.

Tại sao?

Lý do, thật ra, khá đơn giản. Một phần vì sợ, như đã nói ở trên. Phần khác, vì đó là chính sách của nhà cầm quyền. Dưới mọi hình thức tuyên truyền, nhà cầm quyền chỉ muốn mọi người vô cảm. Bày tỏ sự quan tâm của mình đối với chủ quyền của đất nước dưới hình thức biểu tình thì bị đạp vào mặt hay bắt thảy vào các nhà tù; dưới hình thức bài viết trên các blog thì bị vu cho tội… trốn thuế.

Trước, mọi nhà độc tài đều duy trì chế độ của mình trên sự sợ hãi của người dân; sau này, ngoài sự sợ hãi, người ta sử dụng một biện pháp nữa: làm cho mọi người trở thành vô cảm.

Tôi không biết hiệu quả của bài thuốc trị sự vô cảm và sự sợ hãi của Phương Uyên như thế nào. Nhưng ít nhất, nhìn ánh mắt, dáng dứng và những câu phát biểu của em trước tòa, cả tòa sơ thẩm lẫn tòa phúc thẩm, và đặc biệt, nhìn cả trăm người từ khắp nơi đến tham dự phiên tòa phúc thẩm của em, tôi nghĩ, ít nhất cũng có nhiều người đã vượt qua được hai căn bệnh hiểm nghèo ấy.
 
 
Nguyễn Hưng Quốc