Kiên Giang,
tác giả Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím:
Lối viết cải lương mang đậm chất thơ
tác giả Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím:
Lối viết cải lương mang đậm chất thơ
Video Hoa trắng thôi cài lên áo tím
Miệt U Minh đã sản sinh ra hai cây bút lừng danh trong đời sống văn hóa Nam Bộ, đó là nhà văn - nhà nghiên cứu Sơn Nam và nhà thơ - soạn giả Kiên Giang. Nếu Sơn Nam là nhà văn “rặc ròng” Nam Bộ, thì Kiên Giang cũng là nhà thơ Nam Bộ “rặc ròng”.
Chất thơ và chất Nam Bộ đã thấm sâu trong tâm hồn Kiên Giang, để khi ông bước vào lĩnh vực sáng tác cải lương, ông đã tạo được cho mình một lối sáng tác rất riêng: lối sáng tác mang đậm chất thơ.(Nhà thơ kiêm soạn giả Kiên Giang (DR)
Kiên Giang
tên thật là Trương Khương Trinh, sinh năm 1929, tại làng Đông Thái, huyện An
Biên, tỉnh Kiên Giang. Ông lấy tên quê hương để làm bút danh cho mình. Kiên
Giang là bút danh khi ông làm thơ, còn khi viết báo và soạn tuồng, thì ông lấy
tên là Hà Huy Hà.
Tuy vậy, cái
tên Kiên Giang đã trở nên quen thuộc và mọi người vẫn quen gọi ông là Kiên
Giang - Hà Huy Hà, hay chỉ đơn giản là Kiên Giang. Tuổi thơ của Kiên Giang trải
qua những nhọc nhằn ở vùng U Minh Thượng, nơi cha mẹ ông phải tảo tần gian khó
để nuôi ông ăn học.
Nhà thơ chân
quê Nam Bộ
Cái tên Kiên
Giang bắt đầu được biết đến trên thi đàn miền Nam Việt Nam từ năm 1955. Kiên
Giang đã để lại cho đời nhiều bài thơ thuộc hàng tuyệt tác. Nét đặc sắc ở thơ
Kiên Giang, đó là nó « rặc ròng » Nam Bộ. Lời thơ chân chất, bình dị, nhưng rất
diễm tình, rất nên thơ. Thử đọc lại mấy câu sau đây :
Chiều chiều
gió đẩy gió đưa,
Nhìn xem lá
mạ mà mơ duyên nồng.
(Quán giữa đồng)
Hay là :
Ngày thơ xé
mắm ăn bần chín
Bóng mát
lung linh chở khẳm xuồng
(Chậu nhỏ đựng
đầy hồn cố thổ)
Thật không
thể nào Nam Bộ hơn được nữa! Và cũng thật không thể nào tả những điều bình dị
mà nên thơ hơn được nữa ! Trong rất nhiều bài thơ của Kiên Giang, mỗi khi nhắc
về ông, người ta nghĩ ngay đến hai tuyệt tác: Hoa trắng thôi cài trên áo tím và
Tiền và Lá. Đây là hai chuyện tình buồn, rất buồn, nhưng đẹp và rất đẹp. Người
mộ điệu làm sao khỏi thấy lòng tê tái khi đọc những vần thơ :
Xe tang đã
khuất nẻo đời
Chuông nhà
thờ khóc đưa người ngàn thu
Từ đây tóc
rũ khăn sô
Em cài hoa
trắng lên mồ người xưa
(Hoa Trắng
thôi cài trên áo tím)
Hay như :
Kiếp tôi là
kiếp làm thơ,
Vốn riêng chỉ
có muôn mùa lá rơi.
Tiền không
là lá em ơi!
Tiền là giấy
bạc của đời in ra.
Người ta giấy
bạc đầy nhà,
Cho nên mới
được gọi là chồng em.
(Tiền và lá)
Cả hai bài
thơ này đều đã được phổ nhạc và được nhiều thế hệ ca sỹ thể hiện. Riêng về cổ
nhạc, hai bài thơ cũng đã được chuyển lời vọng cổ và được nhiều người yêu mến.
Soạn giả cải
lương : Thơ trong nhạc, nhạc trong thơ
Bên cạnh sự
nghiệp thi ca, Kiên Giang còn là một soạn giả lừng danh một thời với Năm Châu,
Viễn Châu, Hà Triều - Hoa Phượng, Quy Sắc. Đặc biệt, hai soạn giả Hà Triều -
Hoa Phượng được xem là đệ tử của ông.
Cũng giống
như các soạn giả khác, những vở cải lương của Kiên Giang thường là những chuyện
tình buồn. Thế nhưng, nét đặc sắc của Kiên Giang đó là, lời văn trong các vở tuồng
lúc nào cũng đơn giản, mộc mạc, gần gũi với bà con Nam Bộ. Một điều đặc biệt
hơn cả, mà mỗi khi người ta nghe là biết ngay tuồng tích của Kiên Giang, đó là
: lời văn chân phương mộc mạc nhưng thấm đẫm chất thơ, những chuyện tình buồn gần
gũi với đời thường nhưng lại rất thi vị.
Trong nhiều
vở tuồng thành công của Kiên Giang, nổi tiếng nhất là hai vở Người vợ không bao
giờ cưới và Áo cưới trước cổng chùa. Người
vợ không bao giờ cưới hay còn được gọi là Sơn nữ Phà Ca, là câu chuyện tình của
một công tử miền xuôi tên là Mộng Long cùng với cô sơn nữ kiều diễm Phà Ca.
Chàng trai miền xuôi trong một chuyến đi săn đã gặp gỡ và phải lòng cô sơn nữ.
Thế nhưng,
do sự phân chia giai cấp và những mưu tính lợi danh mẹ cha, mà hai người không
được trọn chữ đá vàng. Phà Ca nuốt lệ vào lòng để nhìn người yêu đi cưới cô vợ
giàu sang. Người mộ điệu vẫn còn thấy
lân lân với những câu thơ khi hai người hội ngộ:
Đói lòng ăn
nữa trái sim,
Uống lưng
bát nước đi tìm người thương.
Hoặc còn
nghe văng vẳng đâu đây lời than xé lòng của Phà Ca khi Mộng Long đi lấy vợ:
Ngày mai đám
cưới người ta,
Cớ sao sơn nữ
Phà Ca lại buồn.
Trái sim là
một loại trái rừng, có vị ngọt nhưng hơi chát. Ăn Sim xong là phải uống nước
ngay để tránh bị nghẹn. Một điều bình thường và bình dị như thế mà khi đã vào
tay Kiên Giang rồi nó trở nên lung linh quá, nên thơ quá, đẹp đẻ quá.
Còn những
câu than thở của cô sơn nữ khi người yêu lấy chồng cũng vậy, nó quê mùa lắm,
nhưng đã trở nên thi vị và diễm tình qua ngòi bút của Kiên Giang. Mấy mươi năm
trước, lời ngâm này đã làm đau xé không biết bao nhiêu con tim người mộ điệu
qua giọng ca bi ai của Sầu Nữ Út Bạch Lan. Đây là một vai diễn để đời của Út Bạch
Lan, đến mức mà người mê cải lương vẫn thường hay gọi cô là Sơn Nữ Phà Ca. Vai
diễn Phà Ca cũng là một vai để đời của Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga. Vai diễn
này đã giúp cho Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm vào năm 1958, mở đầu cho một sự
nghiệp chói lọi sau này.
Vở tuồng đã
ra đời trên nửa thế kỷ, thế mà sức sống hiện tại vẫn còn mạnh. Bà con mê cải
lương Nam Bộ, dù già dù trẻ, hầu như ai cũng biết đến Sơn Nữ Phà Ca. Mấy mươi
năm nay, mỗi lần cầm cây đờn ghi ta phím lõm lên, là ông cụ nhà tôi tay đờn miệng
cứ ca một khúc Sương Chiều trong Sơn Nữ Phà Ca : « Mộng Long ơi anh có thấy
chăng đóa hoa rừng, nở giữa đồi sim…. ».
Áo cưới trước
cổng chùa cũng là một tuyệt tác đậm chất thơ của Kiên Giang. Vở tuồng này ông
viết về một ngôi chùa ở quê hương Kiên Giang của ông, đó là chùa Phù Dung. Bên
cạnh ngôi chùa hiện vẫn còn ngôi mộ của một người phụ nữ tên là Dì Tự, người được
cho là thứ thiếp của tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích. Soạn giả Kiên Giang đã dựa
vào một giai thoại về người phụ nữ này để viết vở cải lương Áo cưới trước cổng
chùa.
Nội dung vở
tuồng Áo cưới trước cổng chùa kể về mối tình thơ mộng của cô gái miền biển Kiên
Giang tên là Xuân Tự với anh thanh niên cùng xóm tên gọi Tô Châu. Cha của hai
người là tri kỷ của nhau, nên đã chỉ phúc giao hôn cho Xuân Tự và Tô Châu từ nhỏ.
Cha của Xuân
Tự mất sớm, cha của Tô Châu là Hải Lâm cố gắng lo liệu đám cưới cho hai người để
trọn lời hứa với người đã khuất. Thế nhưng, số trời xui khiến, Xuân Tự được tổng
trấn yêu thương. Rồi sau đó bao giông bão cuộc đời ập đến, Xuân Tự trở nên tật
nguyền và phải giấu mẹ đi tu tại chùa Phù Dung.
Xuân Tự có một
người chị nuôi cùng lớn lên từ nhỏ là Phương Thành. Do Xuân Tự đã quy y, nên mọi
người mới bàn nhau gạt mẹ của Xuân Tự mà đem Phương Thành thay thế Xuân Tự để tổ
chức đám cưới đúng ngày hai bên đã dự kiến, vừa để an ủi vong linh người quá cố,
vừa để có người chăm sóc cho mẹ của Xuân Tự vốn bị mù lòa và đau yếu.
Màn cuối là
màn hay nhất của vở tuồng này. Ngày đó, Xuân Tự tay nương gậy trúc từ chùa trở
về nhà dự đám cưới chị, và mang cho chị chiếc áo cưới màu xanh nước biển mà cô
đã chuẩn bị từ lâu cho đám cưới của mình. Tuy nhiên với linh cảm của một người
mẹ, cuối cùng mẹ của Xuân Tự đã phát hiện ra sự thật. Mẹ con ôm nhau mà nứt nở.
Đám cưới cuối cùng cũng diễn ra, Xuân Tự lạy từ biệt mẹ già trở lại chùa Phù
Dung tiếp tục đời kinh kệ.
Thật đúng là
« Áo cưới trước cổng chùa ». Ta thấy chỉ cái tên tuồng cũng đã rất thi vị và đầy
hình ảnh. Lời văn trong vở tuồng thì cũng rất nên thơ và mộc mạc theo kiểu Kiên
Giang. Người mộ điệu vẫn còn nhớ như in câu ngâm của chị em Xuân Tự khi lên
chùa :
Tay bưng quả
nếp lên chùa,
Thắp hương lễ
phật xin bùa cầu duyên.
Hai câu thơ
này phổ biến đến mức mà có người còn lầm tưởng là ca dao. Hay như hai câu ca
trong màn kết Xuân Tự nói với mẹ già, cũng thấm đẫm nước mắt và nhưng đầy ý thơ
:
Mẹ tin con
đã vu quy,
Dẫu rằng
Xuân Tự quy y lâu rồi.
Xuân Tự là một
trong những vai diễn ấn tượng của Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga. Lệ Thủy cũng tỏa
sáng với vai Xuân Tự tại đoàn 2-84. Ngoài ra, vở tuồng này còn góp phần làm tỏa
sáng nhiều tên tuổi khác : Tô Kim Hồng (vai Phương Thành), Lương Tuấn (vai Tô
Châu), Diệp Lang (vai Hải Lâm), đặc biệt là nữ nghệ sĩ Thanh Nguyệt đã xuất thần
với vai diễn mẹ của Xuân Tự.
Những bài vọng
cổ lai láng tình thơ
Ngoài cải
lương, Kiên Giang còn nổi tiếng với nhiều bài vọng cổ đặc sắc, có thể kể ra :
Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn
soi ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng, Vắt sữa nai
nuôi mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và lão ăn mày, Khói lò
gạch, Cô gái miền Tây ...
Ta thấy những
bài vọng cổ của Kiên Giang hầu hết lấy cẩm hứng từ cuộc sống nông thôn Nam Bộ.
Tuy nhiên, lời văn thì hoàn toàn bình dj mà không quê mùa, người nghe cảm nhận
được ở tác giả có một sự trau chốt ngôn từ rất cẩn thận. Tuy nhiên, do cái chất
Nam Bộ đã thấm vào máu của Kiên Giang, nên lời vọng cổ của ông càng chọn lọc
thì càng lộ rõ chất Nam Bộ. Và do cái chất thi vị đã thấm sâu trong tâm hồn
Kiên Giang, nên lời vọng cổ của ông rất nên thơ, rất trữ tình.
Hai bài vọng
cổ được nhiều người biết đến nhất của Kiên Giang, đó là bài Trái Gùi Bến Cát và
Tiền Và Lá.
Bài Trái Gùi
Bến Cát được ông viết từ một câu chuyện có thật của một người phụ nữ ở Lái
Thiêu. Người phụ nữ này đi Lộc Ninh (Bình Phước) mua bán để nuôi con nhỏ và người
chồng đang ốm đau. Ngày nào cũng vậy, sáng tinh mơ cô đón xe lửa lên đường đi
buôn bán, tối mịt cũng trở về bằng xe lửa.
Mỗi bận như
vậy, cô thường mua mang về cho đứa con nhỏ thứ trái cây mà đứa con yêu thích:
trái gùi ở Bến Cát Bình Bương. Thế nhưng, một hôm nọ, sau khi bán xong, do đói
khát, cô vừa mua xong xâu gùi chín cho con, khi đón xe lửa trở về, cô bị trượt
chân té xuống đường ray và bị xe lửa cán qua mà trên tay vẫn còn nắm chặt xâu
gùi. Bài vọng cổ mở đầu bằng một lối vè rất dân dã Nam Bộ :
Nghe vẻ nghe
ve, ai về Bến Cát
Nghe con trẻ
hát: Sài Gòn, Lộc Ninh;
Tang tính,
tang tình, trái gùi Bến Cát …
Tiếp theo đó
là bốn câu thơ cũng rất dân dã:
Mẹ đi chợ chớ
ở lâu,
Bận về mẹ nhứ
mua xâu trái gùi.
còn chờ xe lửa
kéo còi,
Ra ga đón mẹ
lấy gùi ăn chơi.
Thật sự
không còn có thể Nam Bộ hơn được nữa. Chưa hết, sau khi vợ mất, người chồng sống
trong cảnh nhớ nhung triền miên. Đây là nỗi niềm của người chồng được Kiên
Giang mô tả ở câu vọng cổ số 5:
Bao chiều
tàu lại tàu qua,
Khói tàu vơ
vẫn xót xa tiếng còi.
Khi nhìn
khói quyện mây trời,
Ngỡ người vợ
cũ về nơi chân thêm.
Người nghe cảm
nhận được ở đây một nỗi buồn tê tái nhưng là một nỗi buồn rất thi ca. Nghệ sĩ
Minh Cảnh được xem là người thể hiện thành công nhất bài vọng cổ này. Trong
sáng tác của Kiên Giang, từ thơ tới vọng cổ, ta thấy mẹ là chủ đề xuyên suốt.
Hình ảnh người mẹ được ông nâng niu, trân quý. Khách thơ làm sao quên được những
vần thơ về mẹ rất đặc sắc của Kiên Giang :
Chày khuya
làm mỏi canh sương
Nện từng nhịp
mạnh mở đường chữ thơm
(Cối khuya)
Hay như :
Mẹ rắc hoàng
hôn theo gạo trắng
Cám bay
phương phất quyện hương cau
Nghiêng
nghiêng bóng xế sau lưng Mẹ
Gạo trắng
như màu tóc trắng phau.
(Sàn gạo)
Kiên Giang
đã đưa thành công hình ảnh người mẹ trong những bài thơ của ông vào những bài vọng
cổ do ông sáng tác, để có được những lời vọng cổ và những hình ảnh đẹp và đầy
chất thơ ca, như bài Trái Gùi Bến Cát bên trên rõ ràng là một tuyệt tác về mẹ của
Kiên Giang.
Về tình yêu
đôi lứa, Kiên Giang cũng có một tuyệt phẩm để đời, đó là bài Tiền Và Lá. Bài
này ông phát triển từ bài thơ cùng tên của chính ông. Nội dung bài ca kể về một
chuyện tình buồn của một đôi trai gái cùng lớn lên từ thuở ấu thơ : Hồi bé thơ,
anh hay rủ em ra cất nhà chòi bên bờ giếng, anh lấy đất nắn tượng người để bán,
em nhặt lá vàng rơi làm tiền để mua tượng. Khi lớn lên, em mới phát hiện ra rằng,
tiền không phải là lá, và thế là ngày xưa em dùng lá để mua tượng hình nhân do
anh nắn, còn bây giờ em đã bị người ta dùng tiền thật mua đi mất rồi.
Chúng ta thấy,
đó một chuyện tình buồn, nhưng đã được Kiên Giang thi vị hóa với những hình ảnh
so sánh rất đỗi gần gũi đời thường mà lại rất nên thơ. Bài thơ đã hay, mà khi
Kiên Giang viết thành vọng cổ lại càng hay. Bài thơ viết theo thể lục bát, với
lời lẽ bình dị và chân quê. Có lúc người ta còn tưởng bài thơ Tiền Và Lá là của
nhà thơ chân quê Bắc Bộ Nguyễn Bính. Nhưng rõ ràng, xem lại lời lẽ trong bài
thơ, ta thấy rằng, nếu không phải một người sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ, không
lấy Nam Bộ làm cái chất trong tâm hồn và tính cách, thì không thể có được những
lời thơ “rặc ròng” Nam Bộ như vậy được.
Trở lại bài
vọng cổ Tiền Và Lá, Kiên Giang đã khéo léo đưa được chất thơ vào trong bài vọng
cổ. Và khi nghe, người mộ điệu có lúc thả hồn phiêu lãng để không còn biết là
mình đang lạc vào thế giới của thi ca hay những cung bậc bổng trầm của bài vọng
cổ. Chẳng hạn như Kiên Giang đã khéo léo đưa trọn vẹn 6 câu lục bát trong bài
thơ vào bài vọng cổ, khiến người mê vọng cổ rất thích thú :
Tiền không
là lá em ơi!
Tiền là giấy
bạc của đời in ra .
Người ta giấy
bạc đầy nhà,
Cho nên mới
được gọi là chồng em.
Nhớ em những
buổi chiều hôm,
Anh gom lá đốt
khói lên tận trời.
Kiên Giang
hiện tại tuổi đã ngoại bát tuần. Những bài thơ, những vở cải lương hay những
bài vọng cổ của ông vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với các thế hệ người mộ điệu. Đến
hiện tại, người mê thơ vẫn còn ngậm ngùi với Hoa trắng thôi cày trên áo tím, với
Tiền Và Lá, người mê vọng cổ-cải lương vẫn còn xao xuyến với Sơn nữ Phà Ca, Chiếc
Áo Trước Cổng Chùa, với Trái Gùi Bến Cát, với Tiền và Lá, hay với nhiều bài
khác nữa.
Sáng tác đừng
xa rời thực tế
Dù nói về
thơ ca hay vọng cổ-cải lương, thì lối sáng tác của Kiên Giang vẫn mang đậm chất
bình dị, gần gủi và rất nên thơ. Đặc biệt, tinh hoa của Kiên Giang tập trung ở
cái chất thuần Nam Bộ của ông. Có người còn so sánh : Nguyễn Bính là nhà thơ
chân quê Bắc Bộ còn Kiên Giang là nhà thơ chân quê Nam Bộ. Và Kiên Giang đã đưa
được cái chân quê Nam Bộ này vào những tác phẩm của ông để tạo được nét đặc sắc
riêng.
Nói về vọng
cổ-cải lương, ta thấy rằng nét đặc sắc của Kiên Giang thể hiện ở hai điểm: bình
dị và thi vị. Ông đã vận dụng cái chất nông thôn Nam Bộ, vốn là bản chất của
ông, để sáng tác, bởi thế lời văn rất bình dị. Ông đã chuyển tải thành công cái
thi vị của cuộc đời, vốn đã ăn sâu trong tâm hồn của một nhà thơ như ông, để viết
nên những lời ca đầy thi vị. Và chính cái bình dị đã khiến cho bài ca của ông
trở nên gần gũi, chính cái chất thi ca đã khiến cho các tác phẩm vọng cổ-cải
lương của ông trở nên đẹp và thơ mộng, làm say lòng người mộ điệu.
Nhìn lại lịch
sử cải lương 100 năm qua, có thể nói rằng, Kiên Giang là soạn giả điển hình cho
lối sáng tác “thơ trong nhạc, nhạc trong thơ”. Lối sáng tác của Kiên Giang là một
tấm gương sáng cho thế hệ soạn giả cải lương hiện tại. Bởi dù muốn dù không
cũng phải thừa nhận rằng, một trong những nguyên nhân khiến cho cải lương mất
đi sức hấp dẫn, đó chính là các bài vọng cổ và những vở cải lương được sáng tác
ngày nay hình như thiếu chút thi vị, và thường có lời văn quá bóng bẩy văn
chương, mà lại còn đề cập đến những chủ đề quá xa vời đối với người mê cải
lương vùng sông nước Nam Bộ.
Lê Phước