Để thắng được Trung Cộng
Câu nói “Không có đế quốc nào tồn tại mãi mãi” thoạt nghe rất bình thường và
hiển nhiên vì lẽ đơn giản trên đời này không có gì tồn tại mãi mãi, tuy nhiên
quy luật đó đã được chứng minh rất nhiều lần trong lịch sử bằng bao máu xương
của nhân loại. Một đế quốc vừa hình thành ở Á Châu và đang đe dọa cho hòa bình
thế giới: Đế quốc Trung Cộng. Đế quốc này sẽ tồn tại thêm được bao lâu và sẽ sụp
đổ bằng cách nào vẫn còn là chủ đề được các nhà phân tích chính trị, các sử gia
bàn cãi không chỉ trên bên ngoài Trung Cộng mà ngay tại đầu não của cơ chế độc
tài.
Trung Cộng tồn tại được bao lâu?
Trên cả nước Trung Cộng có một nơi duy nhất được quyền phê bình đảng CS và
một nhóm người rất nhỏ trong số hơn một tỉ dân được trao đặc quyền tự do tranh
luận về ngày tàn của đảng CS mà không sợ trả thù, nơi đó là Trường Đảng Trung
Ương trực thuộc Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSTQ và nhóm người đó là những cán
bộ lý luận cao cấp của trường.
Trong một biệt điện hoàng gia cũ ở phía tây Bắc Kinh được đổi thành Trường Đảng, một số nhỏ chuyên gia ưu tú nhất của trường dành trọn thời gian chỉ để làm một việc là phân tích mọi sai lầm của lãnh đạo đảng, mọi chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng, mọi kế hoạch kinh tế, các chính sách đối nội và đối ngoại của đảng. Và câu hỏi chính được đặt ra cho nhóm người có đặc quyền này “Đảng CS sẽ tồn tại bao lâu và những khả năng nào xảy ra sau khi đảng sụp đổ”. Dĩ nhiên mục đích tranh luận không phải để lật đổ chế độ mà nhằm tìm các biện pháp thích nghi ngăn chận kịp thời mọi sai lầm, sơ sót để cỗ máy độc tài khỏi rơi xuống hố như trường hợp Liên Xô.
Trong một biệt điện hoàng gia cũ ở phía tây Bắc Kinh được đổi thành Trường Đảng, một số nhỏ chuyên gia ưu tú nhất của trường dành trọn thời gian chỉ để làm một việc là phân tích mọi sai lầm của lãnh đạo đảng, mọi chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng, mọi kế hoạch kinh tế, các chính sách đối nội và đối ngoại của đảng. Và câu hỏi chính được đặt ra cho nhóm người có đặc quyền này “Đảng CS sẽ tồn tại bao lâu và những khả năng nào xảy ra sau khi đảng sụp đổ”. Dĩ nhiên mục đích tranh luận không phải để lật đổ chế độ mà nhằm tìm các biện pháp thích nghi ngăn chận kịp thời mọi sai lầm, sơ sót để cỗ máy độc tài khỏi rơi xuống hố như trường hợp Liên Xô.
Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về tương lai Trung Cộng. Một quan
điểm của đảng CSTQ cho rằng Trung Cộng là một nước có biệt lệ về văn hóa chính
trị nên làn sóng cách mạng dân chủ tại châu Âu trước đây cũng như Bắc Phi vừa
qua không đập vào bờ Trung Cộng. Một quan điểm khác gồm những học giả chuyên về
Trung Cộng, trí thức Trung Quốc có ảnh hưởng và ngay cả một số viên chức CS cao
cấp có khuynh hướng tự do cho rằng đảng CS phải chết nhưng vấn đề là chết bằng
cách nào mà thôi. Điều đó cũng cho thấy, nỗi lo sợ một ngày cơ chế độc tài CSTQ
sẽ sụp đổ ám ảnh thường xuyên trong suy nghĩ của lãnh đạo CSTQ và hai yếu tố lớn
nhất dẫn đến sự sụp đổ của Trung Cộng vẫn là chính trị và kinh tế.
Về chính trị. Bài học Thiên An Môn cho lãnh đạo Trung Cộng biết nguy cơ hàng
đầu vẫn là khát vọng tự do của con người. Dân chủ là hướng đi của thời đại. Năm
1900 mở đầu cho thế kỷ 20 trên thế giới chỉ có 12 phần trăm nhân loại sống trong
các cơ chế chính trị được gọi là dân chủ. Đầu thế kỷ 21, 120 trong số 192 quốc
gia được quốc tế công nhận là những nước được lãnh đạo bởi các chính phủ do dân
bầu. Nhiều lãnh đạo CSTQ đổ lỗi sự sụp đổ của Liên Xô lên đầu Mikhail Gorbachev
như Giáo sư Shen Zhihua, chuyên viên về Liên Xô của đại học Đông Hoa và cả cựu
Chủ Tịch Trung Cộng Giang Trạch Dân từng phát biểu “Gorbachev phản bội cách
mạng”. Tuy nhiên họ cố tình không quan sát đến tiến trình chuyển hóa không ngừng
của xã hội con người.
Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự vươn
lên và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) nêu ra 8
lý do khiến chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải là
kinh tế hay quân sự mà là sự thay đổi xã hội. Sự chuyển hóa tri thức nhanh hay
chậm tùy theo điều kiện mỗi nước nhưng là một tiến trình không thể bị ngăn chận
bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước
CS đã âm thầm lớn mạnh chỉ chờ cơ hội là bùng vở như được chứng minh qua việc
300 ngàn thanh niên Đông Đức tham dự buổi nhạc hội của Bruce Springsteen vào
ngày 19 tháng Bảy 1988 và hàng ngàn thanh niên Đông Đức hô to khẩu hiệu tự do
muôn năm trên bờ tường Bá Linh tối ngày 9 tháng 11 năm 1989. Sức sống của đất
nước cũng như của xã hội là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ, các thế lực
cầm quyền độc tài chỉ là những khe đá, có thể làm chậm dòng thác văn minh nhưng
không thể ngào ngăn chận được. Tóm lai, yếu tố chính tác động vào sự sụp đổ của
Liên Xô, hệ thống CS tại châu Âu và sẽ diễn ra tại Trung Cộng cũng như Việt Nam
chính là nội lực phát xuất từ xã hội, kết quả của các phong trào xã hội và sự
chuyển hóa không ngừng của xã hội.
Về mặt kinh tế xã hội. Như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai cấp
trung lưu là nguồn thúc đẩy của cách mạnh dân chủ vì đó là giai cấp có học thức,
có phương tiện và có nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được thỏa
mãn. Cách đây 20 năm, giai cấp trung lưu này không tồn tại nhưng nay là một lực
lượng đông đảo và phát triển theo lũy thừa. Thành phần trung lưu chiếm 14 phần
trăm dân số thành thị tại Trung Cộng và có lợi tức bình quân từ 17 ngàn đô la
đến 37 ngàn đô la. Với hướng phát triển xã hội có tính quy luật đó, theo giáo sư
David Shambaugh, giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc thuộc đại học
George Washington sự suy thoái của đảng CSTQ đang diễn ra sẽ giống như các triều
đại Trung Hoa trước đây, chiếm đoạt, hưng thịnh và sụp đổ.
Trong một tổng kết mới đây The World Bank’s International Comparison Program
cho rằng Trung Cộng với GDP 2011 là 13.5 ngàn tỉ đô la, sẽ qua mặt Mỹ nhanh hơn
dự đoán. Thống kê này dựa trên việc so sánh sức mua tương đương (purchasing
power parity) của hàng hóa giữa hai quốc gia. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế không
đồng ý vì không thể dùng giá cả của những ổ bánh mì, bao thuốc lá để làm thước
đo cho mức độ giàu nghèo giữa hai nước trong lúc những món hàng quan trọng nhất
lại không thể mua tại Trung Cộng. Tom Wright của Wall Street Journal ví dụ một
cách chính xác và cụ thể, Trung Cộng không thể mua một chiếc tàu, một giàn hỏa
tiển hay một chiếc xe Đức đắt tiền mà phải trả bằng một giá hối suất cao gấp
nhiều lần. Nếu tính trên phạm vi cả nước, theo phân tích của Global Public
Square staff, Trung Cộng không đứng nhất, nhì hay thậm chí 30 mà đứng sau cả
Peru. Nhưng dù phát triển kinh tế nhanh, sự phát triển đó vẫn phải đồng hành với
các phát triển chính trị, văn hóa để tạo nên một xã hội thịnh vượng hài hòa.
Điều đó không tồn tại tại Trung Cộng. Các thành tựu kinh tế của Trung Cộng được
đổi bằng sự chịu đựng, hy sinh, mồ hôi, xương máu của nhiều dân tộc khác và ngay
tại Trung Cộng hàng trăm triệu dân thiểu số vẫn phải tiếp tục sống trong xã hội
tham nhũng, độc tài, nghèo đói, bất công, bạc đãi. Hai nhà lý luận CS Lin Zhe và
Chen Shu, thành viên trong nhóm nhỏ của trường đảng có đặc quyền phê phán, mặc
dù tin rằng đảng CSTQ sẽ tồn tại lâu cũng thừa nhận tham nhũng kinh tế có thể
làm sụp đổ đảng. Bà Lin Zhe dành 20 năm để nghiên cứu phương pháp diệt tham
nhũng tại các cấp đảng vì theo bà “Tham nhũng là mối đe dọa nguy hiểm có thể dẫn
đến sự sụp đổ của đảng và nhà nước”.
Ngọn núi lửa Trung Cộng
Tuyệt đại đa số con người không ai muốn chiến tranh và là người Việt Nam lại
càng không muốn có chiến tranh. Tuy nhiên, chiến tranh và hòa bình không phải là
chuyện muốn hay không muốn mà đó là hai mặt biện chứng nhân quả của một quá
trình mang tính lập lại của phát triển xã hội loài người. Sau khi hiệp ước
Versailles được ký kết, Thống chế Pháp Ferdinand Foch nhận xét “Đây không phải
là hòa bình mà chỉ là cuộc đình chiến hai mươi năm”. Thế chiến thứ hai bùng nổ
20 năm và 65 ngày sau đó. Nhận xét của danh tướng Ferdinand Foch không phải là
lời tiên đoán của các ông thầy bói nhưng vì các nguyên nhân kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội dẫn đến thế chiến thứ nhất chẳng những không giải quyết mà còn
tác động vào nhau để tạo thành nguyên nhân cho thế chiến thứ hai đẫm máu hơn.
Tương tự, Trung Cộng với chính sách cực đoan về cả đối nội lẫn đối ngoại đang là
mầm mống cho một chiến tranh khốc liệt tại Á Châu.
Đảng Cách Mạng Thể Chế Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary Party)
cầm quyền được 71 năm và chế độ độc tài CS Liên Xô tồn tại được 74 năm nhưng cả
hai đều đã mất quyền lãnh đạo. Trung Cộng tồn tại đến nay được 65 năm nhưng liệu
sẽ thoát ra ngoài sự chi phối của quy luật “không có đế quốc nào tồn tại mãi”
hay không. Câu trả lời dĩ nhiên là không. Một khi ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực
đoan Đại Hán như giòng nham thạch đang cuồng cuộn sôi trong lòng núi, khả năng
chuyển hóa từ độc tài sang dân chủ một cách hòa bình tại Trung Cộng là một
chuyện khó xảy ra. Với các mâu thuẫn bên trong và thù địch bên ngoài vô cùng sâu
sắc, không có cách mạng nhung, cách mạng da cam nào mà chỉ có máu chảy ngập
đường phố Bắc Kinh, Thượng Hải và các vùng Tân Cương, Ninh Hạ, Nội Mông, Tây
Tạng. Việt Nam với quan hệ hữu cơ về chính trị tư tưởng và với vị trí chiến lược
trong vùng biển Đông cũng khó thoát khỏi ảnh hưởng đầy tai họa của cách mạng
máu.
Giáo sư Yuan-kang Wang thuộc đại học Western Michigan viết trong tạp chí
Foreign Policy “Nếu quyền lực tiếp tục gia tăng, Trung Quốc sẽ mở rộng ảnh hưởng
đến vùng Đông Á. Chính sách này sẽ không tránh khỏi tạo nên sự cạnh tranh an
ninh với Mỹ trong khu vực và các vùng chung quanh. Washington đang bước ra khỏi
mối bận tâm Iraq và Afghanistan và đang là ‘mấu chốt’ hướng tới Á Châu. Như
người Trung Quốc thường nói “Một núi không thể có hai cọp”, nhớ ráng hết sức
mình, trò chơi còn tiếp tục”. Ngọn núi lửa Trung Cộng sẽ phun tuy chưa biết
chính xác ngày nào.
Bài học cho Việt Nam
Lịch sử để lại nhiều bài học về chính sách đối ngoại khôn ngoan, nhưng đáng
học nhất vẫn là bài học về cách giải quyết xung đột giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Liên
Xô.
Từ khi thành lập nền cộng hòa Thổ năm 1923, Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cô đơn.
Chiến tranh với Anh vừa chấm dứt bằng chiến thắng nhưng bị các quốc gia dân chủ
Tây Phương cô lập. Quân đội không nhỏ nhưng chỉ được trang bị võ khí còn lại từ
thời đế quốc Ottoman và thế chiến thứ nhất. Để được an toàn, chính phủ Thổ kết
thân với một anh láng giềng bên kia Hắc Hải cũng đang bị cô lập, đó là Liên Xô.
Cuối thập niên 1930, khi Đức Quốc Xã trở thành mối đe dọa, Stalin quyết định
phải kiểm soát Eo Biển Thổ Nhĩ Kỳ để ngăn chận các chiến hạm các quốc gia không
thuộc vùng Hắc Hải di chuyển qua đó và đề nghị Thổ cùng phối hợp để làm việc
này. Thổ từ chối sang nhượng chủ quyền Eo Biển. Stalin khó chịu nhưng vẫn phải
tiếp tục duy trì quan hệ hữu nghị với Thổ. Khi Thổ nhích gần tới Anh và Pháp qua
việc tham gia Balkan Pact 1934 và Saadabad Pact 1937 do khối Tây Phương chủ
trương, Liên Xô công khai bày tỏ quan điểm gọi là “khó hiểu khi Thổ lại thương
thảo với những kẻ cựu thù”.
Trước tham vọng xâm lược ngày càng lộ liễu của Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ còn
một con đường duy nhất là đứng hẳn về phía Tây Phương. Tuy nhiên, muốn thân các
quốc gia dân chủ Tây Phương, trước hết giới lãnh đạo Thổ phải tiến hành các cải
tổ chính trị. Tổng thống Mustafa İsmet Inonu, người tiếp tục chính sách của cố
tổng thống Mustafa Kemal Ataturk mở rộng chính phủ theo hình thức đa đảng. Mỹ
đánh giá thiện chí của Thổ qua các cải cách chính trị và cũng thấy cần phải tích
cực ngăn chận ảnh hưởng Liên Xô trên vùng Hắc Hải, đã gởi chiến hạm lừng danh
USS Missouri đến Istanbul vào tháng Tư 1946. Thiết giáp hạm USS Missouri là niềm
kiêu hãnh của hải quân Mỹ, từng tham dự hai trận Iwo Jima và Okinawa, và cũng là
nơi Mỹ nhận sự đầu hàng của Nhật. Anh theo bước Mỹ, cùng tham gia cuộc diễn tập
quân sự trong vùng biển Aegean tháng Chín 1946. Báo chí Liên Xô lên án Mỹ, Anh
và cho rằng hai nước này đang thiết lập căn cứ quân sự trong vùng Eo Biển Thổ
Nhĩ Kỳ. Mỹ không thừa nhận nhưng cả thế giới lúc đó đều biết Mỹ quyết tâm bảo vệ
Thổ Nhĩ Kỳ. Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ từ một nước tách ra khỏi một đế quốc tan rã,
giành độc lập bằng xương máu chống lại khối dân chủ Tây Phương, bị cô lập, trung
lập trong thế chiến thứ hai nhưng đã khôn khéo từng bước xích lại gần với những
kẻ cựu thù và cuối cùng được trở thành hội viên của NATO. Để biết ơn và cổ vỏ
các giá trị dân chủ, mỗi năm chính phủ Thổ dành một ngân sách lớn để viện trợ
cho các đề án nhằm cải cách dân chủ khắp thế giới. Năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ viện trợ
3.4 tỉ đô la cho 121 quốc gia. Thổ cũng dành riêng 1 tỉ đô la trong ngân sách để
viện trợ nhân đạo và được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới chỉ sau Mỹ, Cộng
đồng Châu Âu và Anh Quốc.
Để thắng được Trung Cộng
Qua xung đột giữa Liên Xô và Thổ Nhĩ Kỳ chúng ta có thể rút ra bốn điều kiện
để thoát ra khỏi sự khống chế và sẽ thắng được Trung Cộng trong trận cuối
cùng:
1. Việt Nam phải có dân chủ trước Trung Cộng. Phần đông các nhà phân tích
chính trị Việt Nam đồng ý rằng Việt Nam phải có dân chủ mới bảo vệ được đất
nước. Điều đó đúng nhưng cần phải nói thêm, dân chủ không chỉ giúp bảo vệ đất
nước mà còn để thắng được Trung Cộng. Ngoài ra, dân chủ phải đến sớm, đừng đợi
đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến. Chỉ có một Việt
Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập trung được sức mạnh tổng hợp
của dân tộc và là nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu dài. Trung
Cộng không sợ USS George Washington hay bom nguyên tử mà sợ dân chủ và rất lo
“sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Vũ khí dân chủ sẽ gây một phản ứng
dây chuyền dẫn tới sự tan vỡ toàn bộ cơ chế CS. Một Trung Cộng mênh mông có nguy
cơ tan thành nhiều mảnh, chủ quyền ngay tại lục địa còn không giữ được nói chi
là chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa, Trường Sa xa xôi.
2. Đoàn kết dân tộc. Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại
nhằm tạo sự tin cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương nhưng quan trọng nhất là nền
tảng của đoàn kết dân tộc. Một dân tộc chia rẽ không thắng được ai. Đây là thời
điểm để xác định lại lòng yêu nước. Yêu nước ngày nay không phải là sản phẩm của
chủ nghĩa dân tộc cực đoan hay bùa mê CS mà gắn liền với với quyền lợi sống còn
của đất nước và hướng đi dân chủ nhân bản của thời đại. Trong cuộc chiến tranh
giữa Mỹ và Iraq, nhiều người nghĩ kẻ có lợi nhiều nhất sẽ là dân tộc Kurds.
Nhưng không, họ là những người chịu đựng thiệt thòi nhiều nhất. Trong chiến
tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam Hussein tàn sát không thương tiếc các cuộc
nổi dậy của nhân dân Kurds ly khai trước sự làm ngơ của Mỹ. Nhiều nhà phân tích
cho rằng Mỹ phản bội lý tưởng độc lập của nhân dân Kurds. Điều đó chỉ đúng một
nửa. Nửa còn lại là sự phân liệt vô cùng trầm trọng trong tập thể 35 triệu Kurds
sống trong nhiều quốc gia vùng Tây Á. Một dân tộc chia rẽ, cấu xé nhau, không có
một hướng đi chung, không thể vận dụng được sự ủng hộ từ quốc tế và cũng không
xứng đáng để được quốc tế ủng hộ. Tương tự, Mỹ bỏ 900 tỉ đô la hay 3 ngàn tỉ đô
la tùy theo cách tính và 4486 nhân mạng để lật đổ Sadam Hussein, không phải chỉ
nhằm đem lại hòa bình dân chủ cho nhân dân Iraq. Tuy nhiên, nếu là một dân tộc
khôn ngoan, đây là cơ hội giúp Iraq vượt qua những khó khăn trong vài năm nữa
trở thành một cường quốc trong thế giới Ả Rập và nếu họ không làm được thì cũng
đừng đỗ thừa cho Mỹ, đổi tội cho Saddam Hussein mà phải trách ở chính mình.
3. Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia. Việt Nam chỉ trở thành một vị trí
chiến lược sau khi Trung Cộng thôn tính toàn lục địa Trung Hoa 1949 nhưng trước
đó thì không. Tương tự, Ai Cập trước 1976 không quan trọng hơn Thổ Nhĩ Kỳ hay
Iran nhưng sau khi Tổng thống Anwar Sadat bỏ đồng minh Liên Xô để bước sang phía
thế giới tự do, Ai Cập trở nên một đồng minh chiến lược của Mỹ ở Trung Đông và
được viện trợ ít nhất 1.5 tỉ đô la hàng năm từ đó đến nay. Vì lợi ích kinh tế
cũng như về các giá trị nhân quyền, Mỹ mong muốn được thấy Trung Cộng trở thành
một quốc gia dân chủ trong một châu Á và Thái Bình Dương ổn định. Trung Cộng là
nhà băng của nhiều quốc gia trên thế giới kể cả Mỹ, nhưng không giống như các
công ty tài chánh Lehman Brothers hay Merrill Lynch, khủng hoảng chính trị tại
Trung Cộng sẽ gây tác hại vô cùng trầm trọng đối với nên kinh tế thế giới không
thể đo lường được. Biết chủ động chiến lược hóa, quốc tế hóa, quan trọng hóa vị
trí của quốc gia cũng như biết khai thác mối lo của cường quốc sẽ làm cho vị trí
của quốc gia quan trọng hơn trong tranh chấp quốc tế. Trái lại, chủ trương của
lãnh đạo CSVN “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự
của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và
không dựa vào nước này để chống nước kia” là chủ trương tự cô lập, không đúng về
lý thuyết lẫn thực tế chính trị và sẽ chết tức tưởi trong cô đơn mà không được
ai ngó ngàng.
4. Đoàn kết với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy:
Việt Nam đang đứng trước những ngã ba, ngã năm trong bang giao quốc tế nhưng dù
bao nhiêu ngã cũng chỉ có thể đi trên một con đường trong một thời điểm nhất
định. Sự liên minh khôn khéo trong nhiều trường hợp giúp quốc gia tránh được
chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh. Giáo sư Alastair
Smith thuộc đại học Washington University đã công thức hóa toán học nhiều mô
thức liên minh trong lịch sử bang giao quốc tế và kết luận các quốc gia có những
liên minh không đáng tin cậy sẽ dễ bị tấn công hơn là các quốc gia có sự liên
minh tin cậy. Hiện nay tại Á Châu có bốn liên minh quân sự gồm ba liên minh tin
cậy Mỹ-Nhật, Mỹ-Phi, Mỹ-Nam Hàn và liên minh SCO về biên giới gồm Trung Cộng,
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Russia, Tajikistan và Uzbekistan. Khi chảo dầu Á châu
được đun nóng hơn, nhiều liên minh quân sự mới tương tự như Tổ chức Liên phòng
Đông Nam Á (SEATO) trong thời chiến tranh Việt Nam sẽ ra đời. Đối với Mỹ, vùng
biển Đông Á là huyết mạch kinh tế lẫn an ninh của các nước đồng minh với Mỹ như
Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines, Indonesia, liên minh được với Mỹ vừa có thể thúc
đẩy tiến trình hiện đại hóa đất nước vừa bảo đảm an ninh.
Bốn điều kiện để thắng được Trung Cộng chỉ có thể thực hiện nếu lãnh đạo là
những người thực tâm vì đất nước. Điều đó không có tại Việt Nam. Rồi mai đây,
sau trận đánh ghen HD-981 này, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều
cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn
hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các
vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người
lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Dân tộc Việt Nam lại bị đảng dắt đi vòng
vòng trong ngõ cụt tối tăm như đã và đang đi suốt 39 năm qua. Do đó, chọn lựa
một lối thoát, một hướng đi cho đất nước không phải là chọn lựa của lãnh đạo
CSVN nhưng 90 triệu người dân Việt Nam phải can đảm đứng lên quyết định vận mạng
chính mình.
Trần Trung Đạo @danchimviet