Linh
Nghiệm
Hinh là con trai thứ ba trong
một gia đình nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có gì lắm. Cha anh ta
có đỗ đạt, đã từng làm quan nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố nên quan
trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc
thuốc ở vùng sơn cước. Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau
cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế,
lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng
hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán,
đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ…bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm
một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học
vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất
đắc dĩ mà thôi.
Hằng ngày Hinh sống như người
nuốt phải quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng
lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng một tiểu
thư khuê các. Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí
khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn ! Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó
nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái đầu mong
đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông,
mong đợi một dấu vết của cõi Thiên hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho
chúng sinh.
Tháng ngày như sợi chỉ căng mà
lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc
Chí Thánh và nói :"Ơn người. Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con…Lũ chúng
sinh con khao khát được gặp Người…"
Thế rồi, như sự linh nghiệm của
lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng đất trời như trong cơn đau sinh nở,
Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí linh.
Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa
dịu ấm, toả một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy toả hào quang, tia hào quang
không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra
khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
- Kính thưa…Hinh bàng hoàng thốt
lên.
- Không phải ! – cô gái mỉm cười
độ lượng – Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp lắm
không ? Người đang bận, việc hành đạo chỉ ở bước khởi đầu.
- Kính thưa, tôi là người của xứ
Nhọc nhằn tăm tối…
- Thôi, anh không cần phải nói,
chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới
càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ tìm được chân
lý.
Vị sứ giả trao cho Hinh Đạo thư
quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa
vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh
vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run dở ra đọc
:
"Hãy đi về phía Nam theo con
đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt
chó ; đừng nhìn vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi
:"Có đi không ?" thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám
dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp, sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái,
trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm bước
từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để "tìm cái này". Cứ thế…chỉ cần một lúc
sau,anh sẽ có được thiên hạ."
Hinh ấp cuốn Đạo thư vào ngực
tức tưởi : "Trời ơi,bảo bối, bảo bối…". Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh
vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng
trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải
đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. "Ôi chúng
sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta
đi…"
Sáng hôm sau, Hinh thành kính
chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất ,mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một
đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi. Một bên
cây và một bên nước, hay một bên rừng một bên biển. Anh cứ đi, qua vài đoạn phố
nữa thì anh thấy mình đi đúng con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia
hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi sự linh nghiệm không sai
một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui mấy chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than
tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi
tìm khách. Vài cô gái điếm vật vờ.
- Có đi không ?
Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ
đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống ; trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố,
Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật ; chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu
thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách ? Đi tiếp gặp một
ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một
đoạn qua các cửa hàng bách hoá đã thấy vườn hoa Mùa Xuân.
Kẻ hành đạo không chần chừ đắn
đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa
trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết con đang
đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại..."Tìm cái này" là tìm cái
gì , anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri.
Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoa, chỉ có mấy ông già tập thể dục
muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba đi học sắp qua.
Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt
đất… Hinh vừa cúi lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi
miên, không biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ
gíáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm
rãi.
Những người đang qua đường lấy
làm lạ. Bắt đầu là nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ đi đến và
tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể tự giải đáp
được.
- Anh ơi, anh tìm cái gì đấy
?
Hinh mải mê không hề nhìn lên,
chỉ buột miệng trả lời :
- Tìm cái này.
Đối với chúng, câu trả lời ấy,
làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì
đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại
một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm kiếm
thì sự lạ càng tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết,
dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm…đang đói rách
hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không
hỏi:
- Tìm cái gì đấy ?
Lần này thì tụi trẻ con đã mau
miệng trả lời :
- Tìm cái này !
Câu này đối với người lớn làm
ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng
trường.
Rồi tiếp đến... Bây giờ là dân
xích-lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc
túi nghe tin cũng tìm đến.
- Tìm cái gì đấy ?
- Tìm cái này.
Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo
giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua tụi đào đá đỏ qua đây đánh
nhau đổ ra một bị đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào
lại, ông đuổi tất. Ông kia được một viên rồi hả , bắt nộp phạt, chúng mày
!
Cứ thế...
Và số người hy vọng có một chút
no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như đàn
kiến.
Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của
đám đông và anh ngạc nhiên đứng nhìn họ. Hoá ra thiên hạ đang bu lại xung quanh
mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt
và mãn nguyện ra về.
Cái đám đông ấy cứ như dòng nước
trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng ra về trước,
người đến sau thất vọng ra về sau. "Tìm cái này" là cái gì thì không ai biết,
nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn lắm, để họ trở
thành một dòng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và... vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân.
Trần Huy
Quang
(Truyện ngắn này được đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số 27
ra ngày 04.7.1992. Bị thu hồi và có lệnh hủy sau khi phát hành 4 ngày, nhưng
càng được tìm đọc. Tác giả Trần Huy Quang bị treo bút 3 năm. Tổng biên tập lúc
ấy là Hữu Thỉnh, tuy đi vắng, vẫn bị nghiêm khắc khiển trách. Tác giả cho biết
phải suy nghĩ hơn 10 năm mới viết được truyện ngắn cô đọng này ; anh phải suy
nghĩ chọn từng câu, từng chữ, từng ý, từng hình ảnh...)
(Từ Internet 2005)