TƯỞNG NIỆM 999 NĂM (1010-2009)
CHIẾU DỜI ĐÔ CỦA VUA LÝ THÁI TỔ
từ Hoa Lư về Đại La
遷 都 詔
昔 商 家 至 盤 庚 五 遷 , 周 室 逮 成 王 三 徙 。 豈 三 代 之 數 君 俱 徇 己 私 妄 自 遷 徙 ? 以 其 宅 中 圖 大 , 為 萬 憶 世 子 孫 之 計 。 上 謹 天 命 下因 民 願 , 苟 便 輒 改 , 故 國 祚 延 長 , 風 俗 富 阜 。 而 丁 黎 二 氏 乃 徇 己 私 ,忽 天 命 , 罔 蹈 商 周 之 跡 , 常 安 厥 邑 于 茲 ; 致 世 代 弗 長 , 算 數 短 促 , 百 姓 耗 損 , 萬 物 失 宜 。 朕 甚 痛 之 , 不 得 不 徙 。 況 高 王 故 都 大 羅 城 , 宅 天 地 區 域 之 中 , 得 龍 蟠 虎 踞 之 勢 , 正 南 北 東 西 之 位 , 便 江 山 向 背 之 宜 ; 其 地 廣 而 坦 平 , 厥 土 高 而 爽 愷 , 民 居 蔑 昏 墊 之 困 , 萬 勿 極 蕃 阜 之 豐 。 遍 覽 越 邦 , 斯 為 勝 地 。 誠 四 方 輻 輳 之 要 會 , 為 萬 世 帝 王 之 上 都 。 朕 欲 因 此 地 利 以 定 厥 居 , 卿 等 以 為 何 如 。
李 太 祖
THIÊN ĐÔ CHIẾU
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô. Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng dĩ vi hà như ?( Hình phải :Biểu thờ “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ tại Đền Lý Bát Đế tỉnh Bắc Ninh)
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô. Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng dĩ vi hà như ?( Hình phải :Biểu thờ “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ tại Đền Lý Bát Đế tỉnh Bắc Ninh)
LÝ THÁI TỔ
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (tức ngày 8 tháng 3 năm 974) và mất ngày 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (tức ngày 31 tháng 3 năm 1028), thọ 55 tuổi. Mẹ ông họ Phạm và từ năm ba tuổi ông đã làm con nuôi của sư Lý Khánh Văn. Dưới thời Tiền Lê, ông làm đến Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông được quần thần tôn lên làm vua, đổi niên hiệu là Thuận Thiên và dời đô từ Hoa Lư(Ninh Bình)ra Đại La(Hà Nội ngày nay), nhân đó để lại áng văn Thiên Ðô Chiếu. Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn, và rất hâm mộ Phật giáo. (Hình phải:Đền Đô (thờ 8 vị vua nhà Lý)tại tỉnh Bắc Ninh)
Lý Công Uẩn viết bài chiếu này để tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (là nơi ẩm thấp, chật hẹp) ra thành Đại La. Tương truyền khi thuyền vua đến dưới thành thì có điềm tốt: con rồng vàng bay lên, vua nhân đó đổi tên thành ra Thăng Long.
Nguồn: internet